Tánh thấy của con,
nơi lưu xuất ra cái thấy thì không xòe
nắm. Chính Thế tôn đã làm cho bàn tay co mở khiến cho mắt con thấy được bàn tay
của Thế tôn có xòe nắm.
Hoà Thượng Tuyên Hoá Giảng Thuật
Kinh văn:
時憍陳那起立白佛:
我今長老,於大眾中,獨得解名。因悟客塵二字成果。
Thời Kiều-trần-na, khởi lập bạch Phật, ngã kim trưởng lão ư Ðại chúng
trung, độc đắc giải danh. Nhân ngộ khách trần nhị tự thành quả.
Việt dịch:
Rồi A-nhã Kiều-trầ̀n-na đứng dậy bạch Phật: Nay
hàng trưởng lão trong đại chúng, chỉ riêng con được danh hiệu là Giải
(hiểu). Nhờ ngộ được nghĩa hai chữ khách trần mà thành tựu quả vị.
Giảng:
A-nhã Kiều-trần-như
là một trong năm vị tỷ-khưu đầu
tiên được Phật hóa độ. Tên của Ngài dịch sang tiếng Hán là Giải bổn tế 解本 際, cũng có nghĩa là Tối
sơ giải 最初解, vì Ngài là người đầu tiên giải ngộ khi
nghe Đức Phật giảng Tứ diệu đế và được Đức Phật công nhận đã chứng quả a-la-hán.
Rồi A-nhã Kiều-trần-như đứng dậy bạch Phật: Nay trong
hàng trưởng lão trong đại chúng, chỉ riêng con được danh hiệu là giải (hiểu). Nhờ ngộ được nghĩa hai chữ khách trần mà thành tựu quả vị.
Kiều-trần-như thưa: “Nay ở trong đại chúng này
con là hàng trưởng lão, con đã lớn tuổi và có nhiều kinh nghiệm trong tu tập. Tại
sao con nhận được danh hiệu là giải (hiểu)?
Vì khi nghe Đức Phật giảng về nghĩa “khách
trần,” con liền hiểu nghĩa ấy nên được khai ngộ.”
A-nhã Kiều-trần-như sẽ
giải thích nghĩa “khách trần” trong đoạn kinh văn tiếp theo.
Kinh văn :
世尊,譬如行客投寄旅亭,或宿或食,食宿事畢,俶裝前途,不遑安住。若實主人自無攸往。
Thế tôn, thí như
hành khách, đầu ký lữ đình, hoặc túc hoặc thực, thực túc sự tất, thúc trang tiền
đồ, bất hoàng an trụ. Nhược thật chủ nhân tự vô du vãng,
Bạch Thế tôn, như người du khách dừng chân nghỉ lại một
quán trọ bên đường để ngủ qua đêm hoặc chỉ ăn một bữa. Khi việc lưu trú hoặc
ăn uống đã xong, họ liền chuẩn bị hành lý lên đường, không ở lại nữa. Nếu họ
thật là người chủ thì chẳng phải đi đâu.
Giảng:
Bạch Thế Tôn, A-nhã Kiều-trần-như
thưa: “Bạch Thế tôn, vì sao hai chữ “khách
trần” lại mang đến cho con sự giác ngộ?
Như người du khách, dừng chân nghỉ
lại quán trọ bên đường để ngủ qua đem hoặc chỉ ăn một bữa. Khách là người đi du
lịch trong một kỳ nghỉ, tìm kiếm khách sạn để nghỉ lại, có thể họ ngủ lại qua
đêm, có thể họ đến quán để ăn uống.
Khi việc lưu trú hoặc ăn uống đã
xong, họ liền chuẩn bị hành lý lên đường.
Khi
việc ăn ngủ của họ đã xong họ, sửa soạn hành lý và tiếp tục lên đường.
Họ không ở lại nữa
Họ
là khách, họ không thể nào ở đó lâu được.
Nếu họ thật là người chủ thì chẳng
phải đi đâu
Ông
chủ nghĩa là thể tánh thanh tịnh thường
trụ chân tâm. “Khách” nghĩa là vọng tưởng, phiền não, khách trần.
Tại
sao vọng tưởng phiền não lại được so sánh với khách trần? Vì đối với chúng ta vọng tưởng phiền não là một thứ gì
đó không chắc chắn, không bền vững. Thân thể chúng ta vốn thường thanh tịnh.
Nhưng nếu chúng ta đi ra ngoài trong một ngày có gió thì bụi sẽ bay mù trời vây
phủ lấy người, làm bẩn thân thể mình. Khi chúng ta dùng tay phủi bụi đi thì nó
biến mất. Điều này biểu tượng cho việc gì? Nó biểu tượng cho phiền não và vô
minh của chúng ta cũng giống như khách trần. Phiền não vọng tưởng ấy
không thực sự hiện hữu. Người khách chính là phiền não và vô minh, phiền não
chướng và sở tri chướng, là kiến hoặc
và tư hoặc. Thế nên A-nhã Kiều-trần-như
đã hiểu được người khách đến quán trọ chỉ dừng chân tạm thời, trong khi người
chủ quán trọ thì luôn luôn sống ở đó.
Kinh văn:
如是思惟不住名客住名主人。以不住者名為客義。
Như thị tư duy, bất trụ danh khách, trụ danh chủ
nhơn, dĩ bất trụ giả, danh vi khách nghĩa.
Việt dịch:
Như thế
mà suy xét, người chẳng dừng nghỉ lâu gọi là khách, người dừng trụ lâu gọi
là chủ. Do không dừng trụ, nên có nghĩa là khách.
Giảng:
A-nhã
Kiều-trần-như kết luận:
Như thế mà suy xét, người chẳng dừng nghỉ lâu gọi là
khách, người dừng trụ lâu gọi là chủ. Chúng ta cũng có thể nói rằng chúng ta lưu trú trong
thân xác ta một cách tạm thời như người khách dừng chân trong quán trọ. Chúng
ta nên hiểu rằng thân thể mình chỉ là một quán trọ, không phải là một ngôi nhà
thực sự. Thân thể ấy không phải là ngôi nhà của chính mình, thế nên chúng ta
không nên quá chấp trước vào chúng. Còn ông chủ của chúng ta là thường trụ chân tâm thì không bao giờ bỏ
đi đâu xa cả. Ông chủ ấy không bao giờ chấm dứt sự hiện hữu.
Do không dừng trụ, nên có nghĩa là khách.
Kinh văn:
又如新霽清暘昇天光入隙中。發明空中諸有塵相。塵質搖動,虛空寂然。
Hựu như tân tể,
thanh dương thăng thiên, quang nhập khích trung, phát minh không trung chư hữu
trần tướng. Trần chất diêu động, hư không tịch nhiên,
Việt dịch:
Lại như khi mưa vừa mới tạnh, mặt trời lấp lánh trên
cao, tia sáng chiếu vào nhà thông qua khe cửa, làm hiện rõ các hạt bụi trong
hư không. Bụi trần lay động, còn hư không thì yên lặng.
Giảng:
Lại như khi mưa vừa mới tạnh, mặt trời lấp lánh trên
cao, tia sáng chiếu vào nhà thông qua khe cửa, làm hiện rõ các hạt bụi trong hư
không. Khi mặt trời vừa mới
xuất hiện vào một buổi sáng sớm trong lành hay là vào buổi bình minh sau cơn
mưa, ánh sáng mặt trời sẽ chiếu qua khe cửa hay những lỗ trống ở vách tường,
ánh sáng ấy sẽ soi chiếu rõ các hạt bụi li ti trôi bập bềnh lên xuống trong hư
không, chuyển động lăng xăng trong tia sáng mặt trời.
Bụi trần thì lay động, còn hư không thì yên lặng.
Nếu
ánh sáng mặt trời không chiếu qua các khe cửa, thì quý vị không thể nào thấy được
bụi trần, cho dù thực sự có rất nhiều bụi trần khắp mọi nơi. Nhưng khi bụi trần
nhiễu động lăng xăng thì hư không vẫn tĩnh lặng, hư không chẳng hề dao động. Khả
năng thấy được bụi trần trong tia sáng mặt trời chiếu soi qua khe cửa biểu tượng
cho năng lực của ánh sáng trí tuệ. Khi quý vị chứng được sơ quả a-la-hán, đoạn diệt được tám mươi
tám món kiến hoặc [1] thì sẽ có được trí tuệ
chân chính. Lúc ấy quý vị có thể thấy được các niệm vô minh sinh khởi phiền não
trong mình cũng nhiều như cát sông Hằng. Mặt trời trí tuệ chiếu soi vào khách
trần phiền não – qua ví dụ của A-nhã Kiều-trần-như – cũng như ánh sáng mặt trời
chiếu qua khe cửa. Hang động âm u của vô minh sẽ được chiếu sáng, lúc ấy quý vị
sẽ nhận ra khách trần phiền não, và quý vị sẽ được giác ngộ.
Kinh văn:
如是思惟,澄寂名空,搖動名塵。以搖動者名為塵義。
Như thị tư duy, trừng tịch danh không, diêu động
danh trần. Dĩ diêu động giả, danh vi trần nghĩa.
Việt dịch:
Thế nên con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không lay động
là trần. Do lay động mà có nghĩa là trầ̀n.
Giảng:
Vô minh, phiền não
nhiều vô số như những hạt bụi trần đang lay động. Nhưng hư không thì không lay
động. Hư không biểu thị cho tánh thấy
của ta, vốn luôn luôn không lay động.
Tánh thấy đó là người chủ chân thực, là chân
tâm thường trụ của chúng ta, vốn chẳng đến, chẳng đi.
Thế nên con suy nghĩ, trong lặng gọi là hư không, trong suốt và lặng lẽ, không lay động, đó được gọi là
hư không.
Lay động là trần, do lay động mà có tên gọi là trần.
Quý vị hãy nhìn đám bụi
trong dải tia sáng mặt trời đang nhảy múa lăng xăng không ngừng ấy. Cái gì là bụi?
Bụi ấy biểu tượng cho phiền não, vô minh, phiền não chướng, sở tri chướng. Khi
một ai bị chấp dính vào những thứ này được gọi là vướng “bụi trần.”
Hằng ngày quý vị nghe
giảng kinh, tôi khuyên quý vị đừng có phiền não, nhưng những gì quý vị có được
toàn là phiền não. Tôi khuyên quý vị đừng có vô minh nhưng những gì quý vị thể
hiện ra đều là vô minh. Quý vị xem như vậy có phải là vâng lời không? Càng giảng
giải về vô minh là điều không tốt bao nhiêu thì vô minh càng trở nên lớn hơn
bên trong quý vị. Khi quý vị được giải thích là phiền não là không tốt thì phiền
não lại càng lớn mạnh. Trước khi đề cập đến thì không có phiền não, nhưng một
khi đã đưa ra bàn luận, thì phiền não lại sinh khởi và càng tăng. Thế nên có lẽ
việc giảng giải kinh điển của tôi chẳng phải là lối giảng giải hay, vì tôi
không có thể bao che, thanh minh cho phiền não của quý vị. Tôi hy vọng rằng quý
vị sẽ liệng quách phiền não của quý vị xuống Thái Bình Dương cho xong, để đừng
có xem phiền não của mình như một kho tàng quý giá nữa. Đừng nâng niu chiều chuộng
chúng. Quý vị nên liệng hết phiền não xuống biển, cho dù phiền não có quá nhiều
đến nỗi chúng có nguy cơ lấp tràn cả đại dương.
Phiền não là ma quỷ,
quý vị có thể tìm thấy yêu tinh ma quỷ nơi đâu? Nói đơn giản, hễ có phiền não
là có yêu quỷ. Quý vị và phiền não đang đi cùng nhau. Phiền não cực kỳ tệ hại,
kinh này được giảng cũng chỉ để dạy cho mọi người biết cách từ bỏ phiền não. Thế
nên khi tôi nói về phiền não chẳng phải là để cho nó càng nhiều hơn đâu.
Kinh văn:
佛言如是
Phật ngôn: Như thị!
Việt dịch:
Đức Phật bảo:
Đúng như thế!
Giảng:
Sau khi A-nhã Kiều-trần-như
nói xong, Đức Phật xác nhận cho lời nói của ông. Đức Phật nói: “Những điều ông
vừa nói hoàn toàn đúng.”
Đức Phật bảo: Đúng như thế!
Những gì lay động là
trần, những gì tĩnh lặng là hư không. Lý luận của ông là xác đáng.
Kinh văn:
即時如來於大眾中屈五輪指;屈已復開開已又屈。謂阿難言:汝今何見? 阿難言:我見如來百寶輪掌眾中開合。
Tức thời Như lai, ư
đại chúng trung, khuất ngũ luân chỉ; khuất dĩ phục khai, khai dĩ hựu khuất, vị
A-nan ngôn: Nhữ kim hà kiến? Ngã kiến Như Lai bách bảo luân chưởng, chúng trung
khai hiệp.
Việt dịch:
Khi ấy ở trong đại chúng, Như
Lai co năm ngón tay lại; co rồi lại mở, mở rồi lại co. Hỏi A-nan rằng:
- Nay ông thấ́y gì?
A-nan thưa :
-Con thấy bàn tay bách bảo
luân của Như Lai, xòe ra nắm lại giữa hội chúng.
Giảng:
Đức Phật lo ngại rằng
mọi người trong đại chúng vẫn chưa hiểu được tánh thấy chân thật.
Khi ấy ở trong đại chúng, đức Như
Lai co năm ngón tay lại, co rồi lại mở, mở rồi lại co.
Lúc
ấy, Đức Thế tôn xòe năm ngón tay ra rồi nắm lại, rồi mở ra, xòe nắm bàn tay lại
nhiều lần như vậy và hỏi A-nan rằng:
– Nay ông thấy gì?
Ngay
bây giờ ông thấy gì?
A-nan thưa:
– Con thấy bàn tay bách bảo luân của Như Lai.
Trên bàn tay của Như
Lai có một nghìn đường vân xoáy như hình bánh xe. A-nan gọi đó là bàn tay bách bảo luân.
Xòe ra nắm lại giữa hội chúng.
Kinh văn:
佛告阿難:汝見我手眾中開合,為是我手有開有合,為復汝見有開有合? 阿難言:世尊,寶手眾中開合 。我見如來手自開合,非我見性自開自合。
Phật cáo A-nan: Nhữ kiến ngã thủ chúng trung khai
hiệp, vi thị ngã thủ,, hữu khai hữu hiệp? Vi phục nhữ kiến, hữu khai hữu hiệp.
A-nan ngôn: Thế tôn bảo thủ, chúng trung khai hiệp.
Ngã kiến Như lai, thủ tự khai hiệp, phi ngã kiến tánh, hữu khai hữu hiệp.
Việt dịch:
Đức Phật bảo A-nan
– Ông thấy tay Như Lai xoè ra nắm
lại trong đại chúng, đó là tay Như Lai xoè ra nắm lại, hay cái thấ́y của
ông có xoè ra nắm lại?
A-nan thưa :
– Bàn tay báu của Thế tôn có
xòe nắm trong đại chúng, con thấy bàn tay của Như Lai tự xòe ra nắm lại, chớ
chẳng phải tánh thấy của con có xòe nắm.
Giảng :
Đức Phật bảo A-nan
Ông thấy tay Như Lai xòe ra nắm lại
trong đại chúng. đó là tay như lai xòe ra nắm lại hay cái thấy của ông có xòe
ra nắm lại?
Khi ông thấy nắm tay
của Như Lai xòe ra, nắm lại có phải là nắm tay xòe ra nắm lại hay cái thấy của
ông về nắm tay có xòe ra nắm lại?
A-nan
thưa:
– Bàn tay báu của Thế tôn có xòe
nắm ở trong đại chúng. Con thấy bàn tay của Như Lai tự xòe ra nắm lại.
A-nan thưa: “Bạch Thế Tôn, đó chính là bàn tay báu bách luân chỉ của Thế tôn tự xòe ra nắm
lại.
Chớ chẳng phải tánh thấy của con
có xòe nắm.
Tánh thấy của con,
nơi lưu xuất ra cái thấy thì không xòe
nắm. Chính Thế tôn đã làm cho bàn tay co mở khiến cho mắt con thấy được bàn tay
của Thế tôn có xòe nắm.
Kinh văn:
佛言:誰動誰靜?
Phật ngôn: Thùy động
thùy tịnh?
Việt dịch:
Đức Phật hỏi: Cái nào động, cái nào tịnh?
Giảng :
Đức
Phật vẫn còn quan tâm đến việc A-nan
chưa có được giác ngộ chân chính. Thế nên Thế tôn hỏi thêm:
Đức Phật hỏi: Cái nào động, cái nào tịnh?”
Kinh văn:
阿難言:佛手不住。而我見性, 尚無有靜,誰為無住?
A-nan ngôn: Phật thủ bất trụ. Nhi ngã kiến tánh, thượng vô hữu tịnh, thuỳ
vi vô trụ?
Việt dịch:
A-nan thưa: Bàn tay Phật không dừng nghỉ. Còn tánh
thấy của con còn chẳng có ý niệm về sự yên tĩnh, làm sao còn có động?
Giảng:
A-nan
thưa: “Bàn tay Phật không dừng nghỉ,
Nói cách khác, nó động.
Còn tánh thấy của con còn chẳng có ý niệm
về sự yên tĩnh, làm sao còn có động?"
Tại sao A-nan trả lời rằng tánh thấy của mình
vốn vượt qua cả ý niệm về sự tĩnh lặng. Vì tĩnh là do động mà có. Nếu chẳng có
chút dao động thì vốn chẳng có gì là tĩnh
cả. Thế nên nói rằng chẳng có gì thoát ra khỏi ngoài Đại định Thủ-lăng-nghiêm
và cũng chẳng có gì thêm vào đó được cả. Đạo lý chính là ở điểm này.
Na-già (nāga) thường
ở trong đại định, không có lúc nào là không an trụ trong đại định.[2] Na-già là một loài rồng luôn luôn ở trong
định. Do nó luôn luôn an trụ trong định nên chẳng bao giờ có chuyện nhập hay xuất
định cả. Nên A-nan thưa: “Tánh
thấy của con, nhờ đó mà thấy được Thế Tôn, vượt thoát cả ý niệm về tĩnh động.
Nó siêu việt cả tính chất dao động hoặc ngược lại là yên tĩnh. Không có động
thì chẳng có tĩnh, cả hai tính chất đó đều được siêu việt. Ý niệm đó vốn là
không tồn tại, không hiện hữu, không thể lập được. Thì làm sao mà nó có thể là
không dừng trụ? A-nan nói rằng:
vì tánh thấy vốn không có cả đặc tính tĩnh
lặng, thì làm sao mà nó có sự lay động.
Tánh thấy hoàn toàn không dao động.
Kinh văn:
佛言:如是!
Phật ngôn: Như thị!
Việt dịch:
Đức Phật đáp:
Đúng như vậy!
Giảng:
Một lần nữa, Đức Phật
đồng ý với A-nan .
Đức Phật đáp: Đúng như vậy!
Những
gì ông nói đều đúng cả. Đúng là như thế đó.
Kinh văn:
阿難言:我見如來出妙寶光來我左右,故左右觀,頭自搖動。
Như Lai ư thị, tùng luân chưởng trung phi nhứt bảo quang, tại A-nan hữu,
tức thời A-nan hồi thủ hữu phán.[3] Hựu phóng nhứt quang tại A-nan tả, A-nan hựu tắc hồi
thủ tả phán.Phật cáo A-nan! Nhữ đầu kim nhật, nhơn hà diêu động?
A-nan ngôn: Ngã kiến Như Lai, xuất diệu bảo quang, lai ngã tả hữu, cố tả hữu quan, đầu tự diêu động.
Việt dịch:
Bấy giờ từ trong lòng bàn tay, Như Lai phóng ra một
đạo hào quang báu chiếu đến vai bên phải của A-nan, A-nan liền quay đầu qua
bên phải để nhìn. Đức Phật lại phóng hào quang khác qua phía vai bên trái.
A-nan liền quay đầu về bên trái để nhìn. Đức Phật bảo A-nan:
-Nay đầu ông tại sao lay động?
A-nan thưa :
-Con thấy Như Lai phóng đạo hào quang báu chiếu vào
vai bên phải rồi vai bên trái của con, nên đầu con tự lay động.
Giảng:
Bấy giờ từ trong lòng bàn tay, Như Lai phóng ra một đạo
hào quang báu chiếu đến vai bên phải của A-nan.
Từ bàn tay báu có
trăm vòng xoáy như bánh xe, ánh sáng phóng ra bay nhanh như chim hoặc như đèn
pha phóng ánh sáng vào không trung để tìm kiếm một vật gì từ xa. Có thể hơi giống
như vậy một chút. Hào quang ấy cũng có thể ví như đèn nháy(*), ngay khi bật lên thì ánh sáng chiếu ra liền.
Tuy nhiên đạo hào quang báu Đức Phật phóng ra từ tay Ngài sáng hơn ánh sáng của
đèn nháy. Ngay khi đạo hào quang báu này bay đến bên vai phải của A-nan. A-nan liền quay đầu qua bên phải để nhìn. A-nan xoay đầu qua để nhìn xem hào quang chiếu xa tới đâu.
Đức Phật lại phóng đạo hào quang khác qua phía vai bên
trái.
Từ bàn tay báu của Đức
Phật lại phóng ra một đạo hào quang khác. Phóng đến nơi nào? Đến vai bên trái của
A-nan.
A-nan
liền quay đầu qua bên trái để nhìn.
A-nan nhìn phía bên
vai trái của mình.
Đức Phật hỏi A-nan:
– Nay đầu ông tại sao lay động?
Đức Phật lại hỏi A-nan “Tại sao đầu của ông lại quay
qua quay về bên phải rồi bên trái như vậy?”
A-nan
thưa:
– Con thấy Như Lai phóng một đạo hào quang báu chiếu
vào bên phải rồi bên trái của con. Nên đầu con tự lay động.
Đạo
hào quang ấy chiếu vào vai bên phải, rồi vai bên trái của con. Đầu con lay động
vì con đang nhìn các đạo hào quang báu ấy.
[1] Theo Câu-xá
Luận, lập 88 phẩm Kiến hoặc, tức do mê mờ chân lý mà
có. Trong đó, Dục giới có 32 phẩm, Sắc giới có 28 phẩm, Vô sắc giới có
28 phẩm. Còn theo Duy thức Pháp tướng tông thì có đến 112 phẩm Kiến hoặc.
(Theo Đại thừa Nghĩa Chương,
96 và 916, Tứ giáo nghi tập
chú và Thất
thập ngũ pháp).
[2] Nguyên văn: Na-già
thường tại định
Vô hữu bất định thời.
那伽常在定
無有不定時(Câu-xá luận, quyển 13)
[3] Hòa thượng Bích Liên phiên âm Miến. E rằng không hợp lí.
0 Kommentare:
Post a Comment