Nó chẳng phải của ông thì của ai?” Đoạn kinh văn nầy Đức Phật
lại hỏi: “Sao chẳng phải ông? Tại sao ông nói tánh thấy đó không phải là
của ông? Sao ông lại nói nó bị xen tạp trong vật tượng?
TUYÊN HÓA THUỢNG NHÂN
Giảng thuật
KINH
ĐẠI PHẬT ĐẢNH
NHƯ LAI MẬT NHƠN
TU CHỨNG LIỄU NGHĨA
CHƯ BỒ-TÁT VẠN HẠNH
THỦ LĂNG NGHIÊM
(QUYỂN HAI)
Kinh văn:
諸菩薩等見百千界。十方如來窮盡微塵清淨國土無所不矚。眾生洞視不過分寸。
Các vị Bồ-tát...thấy được cả trăm ngàn thế giới.
Mười phương Như Lai đều thấy cùng tận các cõi nước thanh tịnh như số vi trần
không sót chỗ nào, còn chúng sinh thấy rõ không quá gang tấc.
Giảng:
Trình độ của cái thấy
sai biệt với nhau rất nhiều. Sơ quả A-la-hán chưa thấy được cõi Sơ thiền, trong
khi hàng Nhị quả A-la-hán có thể thấy được cõi Sơ thiền nhưng chưa thấy được
cõi Nhị thiền thiên. Hàng Tam quả A-la-hán có thể thấy được cõi Nhị thiền nhưng
chưa thấy được cõi Tam thiền thiên; trừ phi họ có được gia hộ sức oai thần của
chư Phật, trong trường hợp đó, họ có thể thấy được Tứ thiền thiên và cõi trời Tứ
không. Hàng Bồ-tát ma-ha-tát, những bậc đã giác ngộ, thì khác; Các vị Bồ-tát
...thấy được cả trăm ngàn thế giới. Sơ địa Bồ-tát có thể thấy được 100 thế
giới, Nhị địa Bồ-tát có thể thấy được 1000 thế giới, Tam địa Bồ-tát có thể thấy
được 10.000 thế giới. Những gì họ thấy được ở mỗi quả vị giác ngộ đều không giống
nhau. Mười phương Như Lai đều thấy cùng tận các cõi nước thanh tịnh như số
vi trần không sót chỗ nào. Chỉ có Đức Phật trong 10 phương là có thể nhìn
thấy suốt cõi nước thanh tịnh trang nghiêm của các chư Phật; các ngài thấy rất
rõ ràng thông suốt. Như kinh Kim Cương nói: “ Hết thảy mọi chúng sinh, nếu có
bao nhiêu tâm niệm, Như Lai đều hay biết.” Khi Bồ-tát có được tha tâm thông, họ
đều biết được những gì đang diễn ra trong tâm quý vị mà quý vị không cần phải
nói ra. Chư Phật cũng biết được tâm niệm quý vị rõ ràng như vậy.
Còn chúng sinh thấy rõ không quá gang tấc.
“Chúng sinh” là chỉ người
phàm phu. So sánh với cái thấy của bậc thánh, hay của chư Phật, quý vị không thể
nhìn xa quá 1 phần 10 inch hay cao nhất là 1 inch,[1] cho dù quý vị phải vận dụng hết sức để thấy. Chư Phật có thể nhìn suốt các
cõi nước thanh tịnh nhiều như vô số vi trần, còn quý vị thì không thể nào nhìn
thấy được một nước. Quý vị không thể nhìn thấy được toàn thể Cựu Kim Sơn (San
Francisco) nầy. Nếu nhìn bên phải, thì không thấy được bên trái; nếu nhìn bên
trái, thì không thấy được bên phải; Nếu nhìn phía trước thì không thấy được
phía sau; và nếu cố gắng nhìn phía sau thì không thấy được phía trước. Mắt phàm
phu có rất nhiều chướng ngại. Cho dù tánh thấy không sinh không diệt, mà thân
thể quý vị lại có giới hạn, đó là lý do mà quý vị không thấy được. Các vị
A-la-hán, Bồ-tát và chư Phật đều có năng lực thần thông của thiên nhãn, nên
tính thấy siêu việt của họ không có giới hạn. Nay hãy xem xét cái thấy của hàng
phàm phu: nay tôi thấy được quý vị, nhưng nếu đem tờ giấy để trước mắt, thì tôi
không còn thấy được nữa. Tờ giấy chỉ dày bằng 1 phần 10 tấm bảng mà còn ngăn
không cho thấy huống gì tấm bảng. Đó là hạn chế về cái thấy của hàng phàm phu.
Nếu quý vị mở được thiên nhãn, dĩ nhiên là quý vị không còn bị giới hạn và có
thể nhìn được mọi hiện tượng. So sánh với Đức Phật, thật chúng ta còn cách Ngài
quá xa.
Kinh văn:
阿難,且吾與汝觀四天王所住宮殿。中間遍覽水陸空行。雖有昏明種種形像。無非前塵分別留礙。
A-nan, tôi lại cùng ông xem cung điện của Tứ
thiên vương, và xem khắp các loài trong nước, trên đất, trong hư không, tuy có
nhiều hình tượng tối sáng khác nhau, nhưng chúng đều là tiền trần phân biệt
ngăn ngại.
Giảng:
Đức Phật giảng giải thêm cho A-nan: “A-nan,
tôi lại cùng ông – nay chúng ta, ông với Như Lai– xem cung điện của Tứ thiên
vương...” Cõi trời Tứ thiên
vương là cõi trời gần chúng ta nhất, nằm ở lưng chừng giữa núi Tu-di. Bốn vị Đại
thiên vương gồm: phía Đông là Trì Quốc thiên vương, phía Tây là Quảng Mục thiên
vương, phía Nam là Tăng Trưởng thiên vương, phía Bắc là Đa Văn thiên vương. Mạng
sống của chúng sinh trong cõi trời Tứ thiên vương là 500 năm; sau 500 năm, họ
phải chịu đoạ lạc, năm tướng suy[2] xuất hiện, như tôi đã giảng từ trước. Một ngày
một đêm ở cõi trời Tứ thiên vương bằng 50 năm ở cõi người. Quý vị sẽ thắc mắc:
“Vì sao như vậy?”
Tôi sẽ đưa ra ví dụ cho
quý vị dễ hiểu. Nếu chúng ta cảm thấy vui thích thoải mái, thì thời gian trôi
qua khi nào mà ta không hề biết. Chúng ta cảm thấy ngày quá ngắn. Chúng ta ai
cũng như vậy. Vì ở cõi trời ấy quá sung sướng, nên một ngày một đêm ở đó bằng 50 năm ở cõi nhân gian.
Tại sao 50 năm là một khoảng thời gian dài ở cõi người? Vì trong cõi người
thường có ưu sầu phiền não khổ đau, tranh giành, cãi vã. Con người bận rộn từ
sáng đến tối, họ chẳng có khái niệm gì về những việc họ đang làm. Họ như con ruồi
bay lơ lửng khắp đông tây nam bắc mà không biết mình đang làm gì. Quý vị không
có phước đức gì ở cõi nầy, nên thời gian sống rất ngắn.
Lại nữa, một ngày một đêm ở cõi nhân gian bằng 50 năm ở cõi địa
ngục, vì khổ đau ở địa ngục quá căng thẳng, thế nên chúng sinh đang thọ hình ở
đó cảm thấy thời gian rất dài. Từ điểm nầy quý vị nên biết thời gian chẳng dài
chẳng ngắn. Trước đây có vị đệ tử hỏi tôi: “Thời gian là gì?” Tôi đáp: “Không
có thời gian” Thời gian chỉ là ý niệm dài ngắn của riêng từng người, chỉ có vậy
thôi. Nếu quý vị vui vẻ suốt ngày, thì 50 năm trôi qua mà quý vị không hề cảm
thấy đó là khoảng thời gian dài. Nếu cuộc đời con người đầy phúc lạc, nếu họ
không lo âu, giận dữ, phiền muộn, sân hận, phiền não, thì cuộc đời như thể là một
khoảng thời gian ngắn ngủi– chỉ trong nháy mắt. Rốt ráo, thời gian chẳng gì
khác hơn là sự phân biệt căn cứ trên ý niệm riêng của từng người. Khi tôi nói đối
với tôi không có thời gian có nghĩa là tôi không còn biết thời gian nữa, là tôi
quá bận rộn đến nỗi tôi không còn biết thời gian, và tôi không có ý định nhận
biết nó nữa.
Và xem khắp các loài
trong nước, trên đất, trong hư không–
Có nghĩa là, xem xét khắp
hết thảy các loài chúng sinh, các sinh vật không sót loài nào. Tuy có nhiều
hình tượng tối sáng khác nhau, nhưng chúng đều là tiền trần phân biệt và ngăn
ngại.
Nó đều chỉ là bụi trần
trước mắt, chỉ sinh khởi lưu ngại từ sự phân biệt của ông. Nó chẳng phải là vật
riêng của ông: nó chỉ là cõi giới bụi trần bên ngoài. Bụi trần nầy là một ‘lưu
ngại.’ Nó vướng vất trong tâm trí ông, nhưng nó không thuộc về ông.
Kinh văn:
汝應於此分別自他。今吾將汝擇於見中。誰是我體誰為物象。
Ông nên ngay nơi đó phân biệt cái gì là mình, cái
gì là vật. Nay Như Lai để cho ông lựa ra trong cái thấy, cái gì là tâm thể, cái
gì là vật tượng.
Giảng:
Vì A-nan vẫn chưa nhận ra đạo lý về chân tâm, A-nan vẫn chưa phân biệt
được giữa chân tâm và vọng tâm. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy cho A-nan: “
Trong tất cả các thứ vật tượng nầy, chẳng gì khác hơn là tiền trần. Nó là trần
cảnh trước mắt ông– vốn thường phân biệt và ngăn ngại.” Ông nên ngay nơi đó phân biệt cái gì là mình, cái gì là vật. A-nan, ngay nơi đây, ông
phải nên phân biệt cho được cái gì là thể tính của ông và cái gì là thể của các
hiện tượng. “Ngã” ở đây chỉ cho chân tâm của mình. “Cái khác” chỉ cho thể của
các hiện tượng. “Nay Như Lai để cho ông lựa ra trong cái thấy, cái
gì là tâm thể, cái gì là vật tượng.”
“Ngã thể” là chỉ cho thể của tánh thấy. Quý vị có thể nào chỉ ra được thể
ấy từ đặc tính của các hiện tượng? Hãy chiêm nghiệm lại chính mình và tự hỏi
mình phân biệt được chăng? Nếu quý vị phân biệt được, thế thì quý vị thông minh
hơn A-nan. Nếu không, quý vị chẳng linh lợi bằng A-nan. Mọi người ai cũng có thể
trắc nghiệm lại nhận thức của mình.
Kinh văn:
阿難,極汝見源。從日月宮,是物非汝。至七金山,周遍諦觀。雖種種光,亦物非汝。漸漸更觀,雲騰鳥飛。風動塵起,樹木山川,草芥人畜,咸物非汝.
A-nan, cùng tột cội nguồn cái thấy của ông, từ
cung nhật nguyệt, đều chính là vật chứ chẳng phải ông; cho đến cả bảy ngọn núi
bằng vàng, xem xét cùng khắp, tuy phát ra vô số ánh sáng, cũng là vật chứ chẳng
phải ông. Lần lần quan sát mây nổi chim bay, gió động bụi mù, rừng cây, núi
sông, rau cỏ, người thú, đều là vật chứ chẳng phải ông.
Giảng:
Giáo lý trong kinh Thủ
Lăng Nghiêm rất vi diệu khó có thể diễn nói được, khó có thể hình dung ra được.
Chỉ bằng cách tự lĩnh ngộ lấy mà thôi.
Giống như cái gì? Không
thể diễn tả được. Sao ông lại hỏi nó giống như cái gì? A-nan, cùng tột sức
thấy của ông. Xem xét nó đến mức cùng tột, tận cùng tánh thấy của
ông. Từ mặt trời mặt trăng, đều chính là vật chứ chẳng phải ông; cho đến cả
Bảy ngọn núi bằng vàng.
Bảy ngọn núi bằng vàng
(Thất kim sơn). Bảy ngọn núi nầy bao quanh núi Tu-di. Bao quanh 4 phía núi
Tu-di là bảy ngọn núi bằng vàng, mỗi ngọn lại được bao quanh bởi bảy biển lớn
chứa bảy loại nước hương.
“Những ngọn núi nầy ở
đâu?” - Quý vị hỏi: “Tôi sẽ đến lấy ít vàng về làm giàu.” Tôi sẽ không nói. Nếu
nói, quý vị sẽ đến lấy vàng, rồi vàng ở núi đó sẽ cạn kiệt dần, làm sao còn được
gọi là núi vàng nữa?
Tu-di[3] trong tiếng Phạn có nghĩa là Diệu cao – 妙 髙. Bao
quanh 4 phía núi Tu-di là bảy lớp núi vàng. Bây giờ tôi sẽ nói cho quý vị nghe
vài điều. Cho dù quý vị chưa thọ Năm giới, quý vị cũng không được ăn trộm vàng ở
núi ấy. Vàng trong núi nầy là của tôi. Nếu quý vị ăn trộm vàng ở núi của
tôi, tôi sẽ đọc thần chú và đầu của quý vị liền bị đau nhức khiến cho quý vị
không thể nào lấy trộm được vàng. Đừng tìm cách bắt nạt vị sư nầy; ông ta có rất
nhiều năng lực.
“Hãy nhìn mọi nơi thật kỹ.
Hãy dùng thiên nhãn của mình để nhìn, hãy dùng Phật nhãn của mình để nhìn, hãy
dùng huệ nhãn của mình để nhìn. Xem xét cùng khắp, tuy phát ra vô số ánh
sáng, cũng là vật chứ chẳng phải ông. Trong tất cả những hiện tượng
nầy, nói cho tôi biết, cái gì là của ông? Tìm nhanh. Lần lần quan sát mây nổi,
bồng bềnh trôi qua lại trên bầu trời, chim bay qua đầu, gió động.”
Tôi chẳng biết cách nào hơn để giảng giải những dòng nầy trong kinh văn.
Tôi phải dừng lại và thưa hỏi Lục Tổ Đại Sư. Ở đây Kinh văn nói rất rõ là gió
động , nhưng Lục Tổ Pháp Bảo Đàn kinh nói rằng: “Chẳng phải gió động, chẳng
phải phướn động...” Rốt ráo cái gì động? Lục Tổ Pháp Bảo Đàn kinh nói: “Tâm
nhân giả động .[4]” Ở đây, dù vậy, cũng chưa rõ được tâm ai động. Tâm
quý vị động hay tâm tôi động? Phải chăng tâm người nào khác động? Thế tâm ai động?
Tôi phải làm sao để giải thích câu kinh nầy? Chẳng có cách nào để giải thích.
Người ta không biết cái gì động. Lục Tổ Pháp Bảo Đàn kinh nói rằng chẳng
phải gió động. Ở đây, kinh Thủ Lăng Nghiêm nói gió động. Quý
vị cho chỗ nào đúng? Nếu quý vị nói tâm động, chẳng phải gió động,
thế thì tâm ai động?
Quý vị trả lời: “Con
không biết.”
“Quý vị
không biết, thế thì chẳng phải tâm quý vị động. Nếu tâm quý vị không động thì
tâm ai động? Được rồi, tôi sẽ giải thích theo nghĩa của kinh văn nầy theo khía
canh nôm na nhất. Chúng ta chỉ nói đơn giản là gió động. Tâm quan niệm không động,
tâm tôi không động. Tâm người khác không động. Gió động và thổi khói đen cùng
hơi nước. Sự chuyển động của gió biểu thị cho sự nổi nóng. Ngọc hòang nổi giận
làm gió bão nhổ bật rễ cây và thổi tung nhà cửa.”
Bụi mù. Làm sao bụi dấy mù lên được? Bụi tự dấy lên được không? Không. Bụi dấy
mù trời là do gió thổi. Ban đầu bụi nằm yên hiền lành trên mặt đất. Bụi rất an
tường tự tại, nhưng gió đến đuổi đi: “thức dậy, thức dậy và đi ngay!” Thế nên bụi
trở mình và tung bay mù mịt.
“Thế bụi làm việc gì?”- Quý
vị hỏi.
“Nó bám vào mọi thứ trên
thế gian nầy, nó làm cho mọi thứ dơ bẩn. Đó là công việc của bụi. Bụi khiến cho
mọi nơi đều dơ bẩn. Quý vị hiểu không?”
Rừng cây, núi sông, rau
cỏ, người thú.
Vẫn còn nhiều vật khác:
rau cỏ và nhiều loại vô sinh, cùng người và súc vật. Tất cả đều là vật chứ
chẳng phải ông.
Trong lần phân tích cuối
cùng, có phải những hiện tượng nầy, có phải chúng chính là tánh thấy của ông?
Trả lời ngay! Nói nhanh! Đoạn kinh nầy có phong thái gạn hỏi. “ Nay tôi hỏi quý
vị, phải trả lời thật nhanh! Sao quý vị không chịu nói? Vì sao ý nầy được diễn
đạt ở đây? Có phải đó chính thực là vật chứ không phải là quý vị?” Đây gọi là
“đánh cho một hèo khiến bừng tỉnh” – thức tỉnh những người đang trong cơn mê muội.
Anh ta bi đem ra thẩm vấn, như thể là trước quan tòa khi xử án. “Anh có ăn trộm
không ? Nếu có, hãy tự thú nhanh. Nếu không, hãy tự biện minh.”
Kinh văn:
阿難,是諸近遠諸有物性。雖復差殊,同汝見精,清淨所矚。則諸物類自有差別,見性無殊。此精妙明,誠汝見性。
A-nan, tính chất của các vật xa gần tuy có sai
khác, cũng đều là do tánh thấy thanh tịnh của ông nhìn thấy được. Vậy nên vật
thể tự có sai biệt mà tánh thấy chẳng khác, cái tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt nầy
chính thật là tánh thấy của ông.
Giảng:
Qua nhiều cách diễn đạt
về giáo lý, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã hỏi A-nan: “Ông hãy tìm khắp trong các
vật nầy, cái gì là tánh thấy của ông? Hãy tìm đi.” Bây giờ Đức Phật đưa ra sự
phân biệt giữa tánh thấy và vật tượng, vì A-nan sợ rằng mình không thể tách bạch
rõ ràng về chúng. A-nan cho rằng vật tượng và cái thấy lẫn lộn cùng nhau, và
A-nan không biết rõ cái nào ra cái nào. Thế nên Đức Phật mở đầu phần gạn hỏi nầy
để hiển bày tánh thấy, và phần kinh văn nầy chỉ thẳng về tánh thấy.
“A-nan, tánh chất của
các vật xa gần tuy có sai khác.” Mọi vật đều có hình tượng và
tánh chất của nó, nhưng đều khác biệt nhau. Gió là gió, bụi là bụi. Chim là
chim, mây là mây. Cây là cây, núi là núi. Cỏ là cỏ, người là người, vật là vật.
Trong tiếng Hán, chữ sai
(差 – ch’a) lẽ ra
nên phát âm là ch’ih. Đây là điểm rất quan trọng đối với giới học giả. Hầu
như những người đến trường học vài ngày hay vài năm không hiểu được điều nầy. Để
biết được sự khác nhau trong ý nghĩa của chữ nầy phải cần đến ít nhất 15 năm học
hành.
“Thế ngài đã học bao
nhiêu năm?” Có người hỏi.
“Nói thật với quý vị,
tôi chỉ cắp sách đến trường chỉ hai năm rưỡi. Tôi được học ít hơn quý vị nhiều.”
“Thế tại sao ngài lại hiểu được?”
“Tôi cũng không rõ tại sao tôi lại hiểu. Ngay khi hội đủ mọi yếu tố,
tôi liền được hiểu. Quý vị không nên hỏi tại sao. Đúng như thế không?”
“Cũng đều là do tánh
thấy thanh tịnh của ông nhìn thấy được.”
Tánh thấy của quý vị có
thể nhìn thấy được những vật tượng nầy một cách rõ ràng, “ Vậy nên vật thể tự
có sai biệt mà tánh thấy chẳng khác.” Vật tượng mà cái thấy của ông gặp phải
vốn hòan toàn khác biệt nhau, nhưng cái gì phân biệt tự nằm bên trong tánh thấy?
Khi quý vị thấy ông Trương Tam, đó là tánh thấy, khi quý vị thấy ông Lý Tứ, đó
cũng là tánh thấy. Cái thấy như nhau, không có chút nào phân biệt. Con mèo, con
người, bất luận quý vị thấy gì, đó là cái thấy. Cái thấy có thay đổi không? Cái
thấy có phân biệt không? Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hỏi A-nan, “Ông có thấy chút
phân biệt nào trong cái thấy không?” A-nan không có gì để nói. Không phải là
A-nan bị câm, mà chỉ bị líu lưỡi. Nếu A-nan bị câm, ông ta vẫn có thể phát ra
âm thanh ú ớ được, nhưng ngay cả A-nan cũng không làm như vậy vào lúc nầy.
“Cái gì là thể tánh nhiệm
mầu trong sáng nhất?” Đức Phật hỏi A-nan. “Đó là cái gì? Nói mau!” Nếu quý
vị quan tâm về chuyện nầy, quý vị nhận ra rằng Đức Phật hỏi đi hỏi lại A-nan
ngay điểm nầy nhiều lần, “Ông nói cái đó là gì?” Nhưng A-nan vẫn không nói được
một lời. Đức Phật là bậc đại từ đại bi nên khi Đức Phật thấy mình đã đẩy đệ tử
đến nơi không thể nói được một lời thì ngài mới liền bảo: “Như Lai sẽ chỉ cho
ông. Cái tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt nầy chính thật là tánh thấy của ông.
Ông có biết không? Ông có hiểu không?” Đó là phong cách giáo hóa của Đức Phật.
Kinh văn:
若見是物則汝亦可見吾之見。
Nếu tánh thấy là vật thì ông
cũng có thể thấy được tánh thấy của Như Lai.
Giảng:
Đoạn kinh nầy diễn đạt cực kỳ hay.
“Nếu
tánh thấy là vật thì ông cũng có thể thấy được tánh thấy của Như Lai. A-nan,
ông vừa nói rằng cái thấy và vật tượng xen tạp lẫn nhau, đến nỗi khó phân biệt
rạch ròi được. Ông nói rằng tánh thấy là vật. Nếu thật như vậy, lẽ ra ông phải
thấy được cái thấy của Như Lai như thế nào. Ông thấy được chăng? Như Lai không
cho là ông phải thấy được những gì Như Lai thấy, nhưng ông có thể thấy được
tánh thấy mà Như Lai đang thấy chăng? Nó giống như cái gì? Nó màu đen, màu trắng,
màu đỏ, hay vàng? Nó màu gì?” Đến đây A-nan líu lưỡi một lần nữa. “Nó dài, ngắn,
hay vuông, hay tròn? Mọi vật nhất định đều có hình tướng, và nếu nhìn vật mà
không phân biệt được vật nào với vật nào, như ông vừa nói, thì cái gì đang thấy
được hình sắc? Hãy nhìn xem: núi có hình dáng của núi, cây có hình dáng của
cây, sông có hình dáng của sông. Rốt ráo, tánh thấy của ông giống như cái gì?
Ông đã thấy nó chưa?” Đức Phật hỏi A-nan.
Kinh văn:
若同見者,名為見吾。吾不見時,何不見吾不見之處。
Nếu khi cùng thấy sự vật, gọi là thấy cái thấy của
Như Lai, vậy khi Như Lai không thấy, sao ông không thấy được chỗ không thấy của
Như Lai?
Giảng:
Kinh nầy thật là khó giảng
giải. Vì phải nói lui nói tới để hiển bày đạo lý, quý vị có thể bị lúng túng
khi chỉ cố gắng đọc kinh cứ không lưu tâm tìm cách giải thích ý kinh. “Kinh nói
gì?”- Quý vị hỏi - “ Đại khái nội dung kinh là gì?”
Tôi sẽ chỉ cho quý vị: “Nếu
khi cùng thấy sự vật, gọi là thấy cái thấy của Như Lai, vậy khi Như Lai không
thấy, sao ông không thấy được chỗ không thấy của Như Lai?”
Khi quý vị thấy vật tượng
mà tôi không thấy, tại sao quý vị không thấy được cái không thấy của tôi? Lẽ ra
quý vị cũng phải biết tôi không thấy được vật. Nhưng quý vị không biết. Quý vị
không thể biết được cái thấy của tôi có thể thấy được vật hay không.
Đây là cách diễn đạt đạo
lý nầy: quý vị bảo rằng tánh thấy là vật, và khi quý vị và tôi cùng nhìn một vật,
quý vị bảo rằng quý vị thấy được cái thấy của tôi. Do vậy, khi tôi không thấy
được vật, lẽ ra quý vị phải thấy được cái không thấy của tôi đã không thấy vật
đó. Nhưng quý vị đã không thấy được cái không thấy vật tượng của tôi, do vậy
quý vị cũng không thấy được cái thấy của tôi. Đây là một phép so sánh. Dường
như điểm nầy rất khó hiểu, phải không? Nhưng nếu quý vị hiểu được rõ ràng đạo
lý nầy, thì đoạn kinh văn trên rất dễ hiểu. Nếu quý vị không hiểu được đạo lý nầy
thì quý vị sẽ giải thích nó theo nhiều cách khác nhau và những gì quý vị nói đều
làm mê lầm chúng sinh. Khi quý vị giải thích, họ sẽ hỏi: “Rốt ráo ý nghĩa đoạn
kinh trên nói gì? Nói quá nhiều về ‘thấy’. Thấy cái thấy
nào?”.Tôi thực sự thích Kinh Thủ Lăng Nghiêm vì sự giải thích trong đoạn kinh
văn nầy rất vi diệu. Vi diệu hơn cả núi Diệu cao.[5]
Kinh văn:
若見不見,自然非彼不見之相。若不見吾不見之地。自然非物,云何非汝。
Nếu ông thấy được cái không thấy, thì tự nhiên nó
không phải là tướng của cái không thấy kia. Nếu ông không thấy được chỗ không
thấy của Như Lai, thì cái thấy rõ ràng không phải là vật, sao chẳng phải ông?
Giảng:
Đoạn kinh văn nầy rất dễ giải thích. Nếu quý vị
đã hiểu đoạn trước thì quý vị sẽ dễ hiểu đoạn nầy ngay khi nghe đọc qua. Không
cần phải nghe giải thích mà mọi người đều có thể hiểu, thế nên tôi chỉ thông
qua.
Tuy nhiên, sẽ có người
nói: “Tôi chưa hiểu. Làm ơn giải thích lại.” Nên tôi sẽ giải thích. Lần nầy tôi
không thông qua nữa.
“Nếu ông thấy được cái
không thấy, thì tự nhiên nó không phải là tướng của cái không thấy kia.
Tôi đã
giảng tánh thấy không phải là vật, nhưng ông không tin như vậy. Tôi sẽ giải
thích rõ hơn. Nếu tánh thấy không phân biệt của tôi nhìn thấy một vật được phân
biệt, và nếu tánh thấy trở thành là vật phân biệt ấy, như ông nói, thì tánh thấy
lẽ ra sẽ được nhìn thấy. Do vậy nên lẽ ra ông sẽ nhìn thấy tánh thấy của tôi,
vì nếu tánh thấy là vật, thì lẽ ra nó sẽ có đặc tính để phân biệt được. Tuy vậy,
chẳng có gì đích xác khi tôi nhìn thấy vật. Đôi khi cái nhìn của tôi tiếp xúc với
vật tượng, thế nên ông nói, cái thấy chính là vật ấy. Nhưng có khi tôi thu cái
nhìn của mình lại và không thấy vật ấy nữa. Nếu ông vẫn cho rằng khi tôi nhìn
thấy vật thể, cái thấy của tôi chính là vật thể, và nếu ông nói rằng khi ông
nhìn vật ấy và cũng thấy được tánh thấy của tôi, thế thì khi tôi thu cái thấy lại,
không còn nhìn thấy vật tượng nữa, tại sao ông cũng không thấy cái thể tính
không thấy của tôi? Tại sao ông không chỉ ra nó nằm ở đâu? Vì ông không thấy
được cái không thấy của tôi, thế ông có thực sự thấy được cái thấy của tôi khi
cả ông và tôi cùng nhìn vật thể?
Tuy nhiên, ông
vẫn khăng khăng cho rằng ông thấy được cái không thấy của tôi ở đâu khi tôi không
nhìn thấy vật tượng. Thể tính cái không thấy của tôi vẫn là tánh thấy. Cái tôi
không nhìn thấy được vẫn là vật thể. Khi tánh thấy của tôi đã tách rời khỏi vật
thể, và ông vẫn tiếp tục thấy được tánh thấy của tôi như ông nói, thì lẽ ra nó
đã rõ ràng không cần giải thích thêm là thể tánh cái không thấy của tôi chắc chắn
là cái không thấy được.
“Nếu ông không thấy được
chỗ không thấy của Như Lai, thì cái thấy rõ ràng không phải là vật.
Nếu ông
không thấy được thể tánh cái không thấy của tôi ở đâu, nếu ông không thấy được
tướng cái không thấy của tôi, thì cái thấy không phải là vật. Ông đã hồ nghi,
và ông cho rằng cái thấy và vật thể (được nhìn thấy) lẫn lộn với nhau và không
thể phân biệt được rõ ràng; nhưng bây giờ ông đã hiểu chưa? Ông không thể thấy
được đâu là cái không thấy của tôi, ông không biết được tôi có thấy hay không.
Tại sao? Vì tánh thấy của tôi không có sắc tướng. Nó chẳng xanh vàng đỏ trắng;
chẳng dài ngắn vuông tròn; nó chẳng là gì cả, thế nên ông không nhìn thấy nó được.
Nếu ông không nhìn thấy nó được, chắc chắn nó chẳng phải là vật.”
Khi người Trung Hoa mắng
ai, họ thường nói: “Mầy chẳng là cái tích sự gì cả.” Nhưng thực là tốt khi chẳng
phải là gì cả. Tánh thấy của quý vị chẳng là cái gì cả. Thế nên khi có người mắng
nhau mà nói : “Mầy chẳng là cái tích sự gì cả.” thì có một ý nghĩa thực là rất
vi diệu trong đó. Hầu hết mọi người chỉ cho đó là lời sỉ nhục và không tìm thấy
nghĩa lý gì cả. Sao vậy? Vì họ không hiểu được Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Nếu họ hiểu
được, họ sẽ nhận ra rằng “chẳng là cái tích sự gì cả” chính là tánh thấy của
chúng ta.
“Nếu ông không thấy
được tánh thấy của tôi, thế thì rõ ràng nó không phải là vật.” Đoạn kinh
văn nầy cũng giống như đoạn trước: “Cái gì có thể trả lại thì không phải là
ông, nhưng cái gì là của ông thì không thể trả lại cho nơi khác được, vì nó
không phải của ông thì của ai?” Đoạn kinh văn nầy có cùng đạo lý như trên. Cái
mà quý vị nhìn thấy được thì hiển nhiên là vật, còn cái mà không nhìn thấy được
thì hiển nhiên chẳng phải là vật. Quý vị không thể xếp cái thấy mà quý vị không
thể nhìn thấy được cùng chung một loại với vật thể. Tánh thấy và vật thể không
thể trộn lẫn cùng với nhau.
Quý vị cho rằng: “Nếu
cái thấy không thể được xếp vào cùng chung một loại với vật thể, thế thì tánh
thấy là cái gì? Nó cùng loại với cái gì?”
Quý vị hãy thử tìm xem.
Đoán thử nó như thế nào. Những người tu Thiền thường khán thoại đầu, là
một đề mục để quán chiếu, và vấn đề tôi đưa ra ở đây cũng là một thoại đầu để
cho quý vị tham cứu. Quý vị biết rằng tánh thấy không phải là vật. Vậy thì quý
vị biết nó là cái gì không? Công án: “Ai đang niệm Phật ?” đơn giản là để tham
cứu vấn đề nầy. Nếu quý vị nhận ra được tánh thấy là gì ngay lúc nầy– nếu quý vị
nói được: “Ồ! Cơ bản là tánh thấy vốn chẳng đến chẳng đi, chẳng sinh chẳng diệt.
Nó vốn siêu việt mọi chướng ngại.”– nếu quý vị hiểu được đạo lý nầy, có nghĩa
là quý vị đã nhận ra được tánh thấy
Trong đoạn văn trước, Đức
Phật có hỏi A-nan: “Nó chẳng phải của ông thì của ai?” Đoạn kinh văn nầy Đức Phật
lại hỏi: “Sao chẳng phải ông? Tại sao ông nói tánh thấy đó không phải là
của ông? Sao ông lại nói nó bị xen tạp trong vật tượng? Sao ông lại cho rằng ở
đó không có sự phân biệt rõ ràng? Nay ông đã hiểu được chưa? Ông phải nhận ra
ngay bây giờ. Như Lai đã giảng giải cho ông rất nhiều đạo lý, nếu ông không hiểu,
ông thực sự là một con trùng mê muội.”
[1] 1 inch = 2,54cm.
[2] Ngũ suy tướng hiện: 1- Hoa trên mũ héo úa. 2- Nách ra mồ
hôi. 3- Áo quần dơ bẩn. 4-Thân mất uy nghi, có mùi hôi, mắt thường chớp. 5-
Không thích ngồi lâu, thường làm những việc thô tháo với ngọc nữ.
[3] s: Sumeru.
[4] Nguyên văn: Bất thị phong động, bất thị phan động, thị nhân giả
tâm động;
不
是 風 動, 不 是 幡 動, 是 仁 者 心 動.
[5] Tức Tu-di sơn (s: Sumeru).
0 Kommentare:
Post a Comment