Chính tôi
được nghe một thời đức Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn ông Cấp Cô Ðộc, rặng cây
Thái tử Kỳ Ðà.
Khi bấy giờ
đức Thế Tôn thuyết pháp, có vô lượng Bồ Tát, trời, người đại chúng vây quanh,
yên lặng một lòng nghe nhận. Lúc ấy A Nan tôi vì chúng sanh nên bạch Phật rằng:
“Kính lạy đức Thế Tôn! Nay thấy thế gian cùng một giống sanh trong đạo người,
có kẻ đẹp, kẻ xấu, người mạnh, kẻ yếu, kẻ nghèo, người giàu, kẻ khổ, người vui,
kẻ sang, người hèn, âm thanh bất đồng, ngôn ngữ khác nhau, có người sống lâu
trăm năm chẳng chết, người ba mươi tuổi đã tử vong, kẻ mười lăm tuổi chết yểu,
cho đến trẻ nhỏ bị bào thai đọa lạc. Có người đoan chánh, có kẻ bần hàn, có
người xấu xí mà giàu sang, kẻ rất mạnh khoẻ mà thấp kém, Có người nhu nhược mà
lên ngôi cao, có người khổ mà sống lâu, kẻ vui mà chết sớm, có người làm lành
mà hay gặp nhiều điều khốn quẫn; kẻ làm ác lại gặp phước lợi, kẻ béo trắng lại
mắt lác, kẻ xanh đen mà lại tươi đẹp, có người tuy lùn bé mà đủ ý chí cao
thượng, có người tuy cao lớn mà phải làm đứa ở đê hèn, có người nhiều con trai
con gái, có kẻ cô đơn một mình, có kẻ ly gia hương đói rét lang thang, có kẻ
được vào cung vua ăn mặc tha hồ, có ngườì lúc trẻ thì nghèo hèn đến lúc già lại
giàu sang, có người thực là vô tội lại bị bắt bớ giam hãm trong tù ngục, có nhà
cha từ con hiếu, luận kinh giảng nghĩa, có nhà anh em bất hòa đấu tranh ngang
trái, có người nhà cửa đàng hoàng gia sản đầy đủ, có kẻ không cửa không nhà nay
đây mai đó, gửi thân nơi đất khách quê người, sống một cách phiêu lưu khốn cực,
có người ở như ổ quạ hang hưu giống loài ly thú, cũng có hạng người ăn thịt
sống uống máu tươi, mặc áo da lông không biết văn tự, có người an nhàn hưởng
phước báo, có kẻ đi làm mướn không ai thuê, có người thông minh cao sáng, có kẻ
dốt nát ngu si, có người kinh doanh mới được, có kẻ chẳng cầu tiền của tự đem
lại, có kẻ giàu mà tham xẻn, có người nghèo lại rộng lòng bố thí.
Có người lời
nói ngọt ngào, có kẻ tiếng nói ra như gai góc, có kẻ được nhiều người ái kính,
có kẻ bị mọi người xa lánh, có người từ tâm nuôi mạng chúng sanh, có kẻ sát
sanh không nương tay, có người khoan dung đại lộ, lại đắc nhân tâm, có kẻ bị dân
chúng bỏ rơi.
Có nhà nàng
dâu mẹ chồng ghét nhau, có nhà chị em dâu vui vẻ hòa hợp. Có người ham nghe
pháp ngữ, có kẻ nghe kinh buồn ngủ, có hạng vũ phu vô lễ, có người hiếu học văn
chương, có kẻ hay bắt chước dáng điệu những loài súc sanh. Cuối xin đức thế tôn
nói rộng nhân quả cho đại chúng đây nghe mà nhất tâm hành thiện!
Khi bấy giờ
đức Thế Tôn bảo A Nan tôi rằng: Như ngươi hỏi ta chúng sanh thọ báo bất đồng là
do đời trước dụng tâm khác nhau, vì thế cho nên muôn sai vạn biệt. Người đời
nay được thân tâm đoan chánh, là do đời trước ở trong đạo người tu hành nhẫn
nhục mà được.
Kẻ bị thân
hình xấu xí, là do đời trước ở trong đạo người có tánh giận tức.
Người đời
nay bị nghèo cùng, là do đời trước ở trong đạo người có tánh tham xẻn.
Người đời
nay được cao quý, là đời trước hay lễ bái chư Phật mà được.
Người đời
nay bị hạ tiện là do đời trước hay có tánh kiêu mạn.
Người to lớn
là do đời trước có tâm cung kính.
Kẻ bị lùn
thấp là do đời trước mạn pháp.
Kẻ ngang tàng
ương ngạnh, là do đời trước làm kiếp dê.
Kẻ đen xấu
là do đời trước che ánh sáng của Phật.
Kẻ bị cứng
lưỡi là do đời trước nếm trai thực cúng dường.
Kẻ bị đỏ mắt
là do đời trước sẻn tiếc ánh sáng.
Người đui
mắt là do đời trước hay khâu mắt chim ưng.
Người đời
nay câm ngọng, là do đời trước hủy báng chánh pháp.
Người đời
nay điếc lác là do đời trước chẳng vui nghe pháp.
Người khuyết
răng đời nay là do đời trước hay ăn xương thịt.
Người tắc
mũi đời nay là do đời trước đốt hương bất hảo cúng dường Phật.
Người sứt
môi đời nay là do đời trước hay đâm thọc sâu thủng mang hoặc môi cá.
Người vàng
da là do đời trước hay cạo lông lợn.
Người căng
tai là do đời trước hay dùi thủng tai sinh vật.
Kẻ trần
hình, là do đời trước hay mặc áo mỏng vào chùa đứng trước tượng Phật Bồ Tát.
Người sắc
đen đời nay là do đời trước để tượng Phật thờ ở mái hiên làm khói xông tượng.
Người đời
nay bị đi khèo chân, là do đời trước thấy bậc sư trưởng không đứng dậy.
Người đời
nay bị lưng còng, là do đời trước mặc áo mỏng ra vào quay lưng vào tượng Phật.
Người bị
trán thấp hoặc trớt, là do đời trước thấy Phật chẳng lễ lạy cầm tay gõ trán.
Người đời
nay rụt cổ, là do đời trước thấy các bậc tôn trưởng rụt đầu chạy trốn.
Người đời
nay đau tim, là do đời trước hay đâm chém thân thể chúng sanh.
Người đời
nay bệnh hủi, là do đời trước lừa gạt lấy tài vật của người ta.
Người đời
nay bị bệnh ho suyễn, là do đời trước trời mùa đông giá rét cho người thức ăn
lạnh.
Người đời
nay không có con, là do đời trước hay nuôi dưỡng các sanh vật.
Người đời
nay sống lâu, là do đời trước có từ tâm.
Người đời
nay chết non, là do đời trước hay sát sanh.
Người đời
nay giàu to là đời trước hay làm hạnh bố thí.
Người đời
nay có xe ngựa, là do đời trước cúng dường Tam Bảo bằng xe ngựa.
Người đời
nay thông minh, là do đời trước ham học và tụng kinh.
Người đời
nay ám độn, là do đời trước làm súc sanh.
Người đời
nay làm tôi đòi, là do đời trước nghèo mà tham chức dấu.
Người đời
nay hay nhảy nhót xoay cuồng, là do đời trước làm kiếp khỉ.
Người đời
nay bị bệnh hủi, là do đời trước phá hoại Tam Bảo.
Người đời
nay tay chân vặn vẹo, là do đời trước hay trói chân tay chúng sanh.
Người đời
nay hay có ác tánh, là do đời trước làm kiếp rắn, rết, bọ cạp.
Người đời
nay sáu căn được đầy đủ, là do đời trước chuyên tâm giữ giới.
Người đời
nay các căn tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, ý không được đầy đủ là do đời trước phá
giới.
Người đời
nay hay ăn ở bẩn thỉu, là do đời trước làm kiếp lợn.
Người đời
nay ham múa hát, là do đời trước làm nghề múa hát ả đào. phường chèo tái sanh.
Người đa
tham thời nay, là do đời trước làm kiếp chó đầu thai.
Người đời
nay có búi thịt đeo lủng lẳng ở cổ (bìu cổ), là do đời trước hay ăn một mình
(ăn vụng).
Người đời
nay bị mồm hôi thúi, là do đời trước hay mắng chưởi rủa, hỗn hào.
Người đời
nay không có nam căn, là do đời trước hay thiến chó, lợn.
Người đời nay
ngắn lưỡi nói ngọng, là do đời trước ngồi ở chỗ vắng hay mạ nhục, mắng nhiếc
các bậc Tôn trưởng.
Người đời
nay ham thông dâm với phụ nữ người ta, chết đọa làm loài ngan, vịt.
Người đời
nay hay thông dâm với chính họ, chết đọa làm loài chim công, chim sẻ.
Người sẻn
tiếc kinh thư che giấu trí huệ không chịu nói cho người, chết đọa làm loài
trùng ăn đất, ăn gỗ (con mọt).
Người hay
đeo cung tên súng đạn, cưỡi ngựa, chết đọa trong loài Lục di (mường mán mọi
rợ).
Người ham
sát sanh, chết đọa vào trong loài hang thú (hổ, báo, chó sói).
Người hay
đeo tràng hoa, chết đọa vào loài trùng tải thắng (tức sâu trùng mình có hoa).
Người hay
mặc áo dài lượt thượt, chết đọa làm trùng đuôi dài.
Người hay
nằm ăn, chết đọa vào loài lợn.
Người ưa
thích mặc áo sặc sỡ các sắc loè loẹt, chết đọa làm loài chim loang lổ.
Kẻ hay nhái
tiếng người hoặc hài hước điệu người, chết đọa làm loài chim vẹt.
Kẻ hay chế
diễu người, chết đoạ làm loài trăn, rắn ác độc.
Kẻ hay làm
buồn não người, chết đọa làm loài trùng ảo não.
Kẻ hay tuyên
truyền điều ác làm cho người ta tin, chết đọa làm loài chim cú, chim cắt.
Kẻ hay nói
làm cho người ta bị ương họa tù tội, chết đọa làm loài thú dã hồ.
Kẻ hay làm
cho người ta sợ hãi kinh khủng, chết đọa làm loài hươu, nai.
Người đời
trước đi guốc, dép vào chùa, đời nay sanh loài có móng như móng ngựa.
Người đời
trước hay phóng hạ khí, đời nay làm loài trùng khí bàn.
Kẻ đời trước
buộc người phải ăn dè xẻn, nghĩa là bớt phần ăn của người, đời nay làm con mọt
gặm gỗ.
Người đời
trước dùng cối giã của Tăng chúng, đời nay bị làm loài trùng gục đầu.
Làm thân cá
giải đời nay, là do đời trước lạm dụng nước của chư Tăng.
Làm bẩn đất
chúng Tăng, phải đọa làm loài trùng ở chốn bẩn.
Lấy trộm quả
trái của chúng Tăng, phải đọa làm loài trùng ăn bùn đất.
Loài trâu,
lừa kéo cối nghiến, là do đời trước làm người ăn trộm của chúng Tăng.
Ðời trước
cưỡng xin của chúng Tăng, đời nay làm loài chim bồ câu trắng.
Ðời trước
nhục mạ chúng Tăng, đời nay phải làm loài trùng ở cổ trâu.
Lạm ăn rau
của Tăng, phải đọa làm loài sâu ở các thứ rau đắng.
Bất kính
ngồi giường của Tăng, phải đọa làm loài lươn, loài lịch.
Lạm dụng các
đồ vật của Tăng, phải đọa làm loài thiêu thân.
Nhổ khạc
trong đất chùa, đời nay phải đọa làm chim dài mỏ.
Mặc áo vằn
khói, bôi phấn đánh môi son vào chùa, đời nay phải đọa làm chim mỏ đỏ.
Mặc áo màu
sặc sỡ vào chùa, đời nay đọa làm loài chim lệ.
Ðời trước vợ
chồng nằm ngủ với nhau trong chùa, đời nay phải đọa làm loài trùng thanh.
Ðời trước
ngồi trên hoặc đạp vào tháp thờ, đời nay phải đọa làm loài lạc đà.
Ðời trước đi
giầy dép vào chùa tịnh xá, đời nay phải đọa làm loài ếch, nhái chuột bọ vân
vân.
Ðời trước
nghe thuyết pháp mà nói chuyện làm ồn, đời nay bị làm loài chim bách thiệt.
Làm ô uế
tịnh hạnh của Tăng Ni, chết đọa vào địa ngục Thiết Quật, có trăm muôn vòng đao bay xuống một lần chém tan thân
thể.
Khi đó A Nan
tôi bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn! Theo như lời Phật nói phạm vào của chúng Tăng
thật là tội rất nặng, nếu như thế thì bốn chúng đàn việt làm sao mà đến
chùa mà cung kính lễ bái được?”
Phật nói:
“Người đến chùa Tăng có hai thứ tâm: một là thiện tâm, hai là ác tâm.
Thế nào là
thiện tâm? Người đến chùa Tăng thấy Phật thì lễ bái, thấy Tăng thì cung kính,
thỉnh kinh hỏi nghĩa và thọ giới sám hối, bỏ tiền của ra xây cất chùa chiền,
kiến lập Tam Bảo, không tiếc thân mạng, hộ trì chánh pháp. Những người như thế
cất chân một bước tức là bước thiên đàng, đời vị lai hưởng phước như cây Ðề
Gia, đó gọi là người tối thiện.
Thế nào là
ác tâm? Có những chúng sanh khi tới chùa, chỉ dòm ngó xin chúng Tăng như là đòi
mượn tiền, mượn của hoặc chỉ trích chư Tăng, vạch tỏ những lỗi lầm chuyên chủ
phá hoại mà thôi, hoặc ăn của Tăng không có tâm hổ thẹn, nào bánh quả, rau đậu,
cắp mang về nhà, những con người như thế chết đọa vào địa ngục Thiết Hoàn, vạc
nước sôi, lò than, núi dao, rừng kiếm phải bị trừng phạt, đó tức là kẻ tối hạ
ác nhân!”
Phật lại dặn
A Nan tôi rằng: “Phải răn bảo cho đệ tử của ta đời mai sau, khi đến chùa phải
cẩn thận chớ phạm của Tam Bảo, phải gắng sức tôn sùng thành thật, chớ có thoái
tâm, nghe lời Phật, tới khi ngài Di Lặc xuất thế quyết định được độ thoát không
nghi ngờ”.
Phật nói: Ðời nay cướp lột áo của người ta, chết đọa vào địa ngục Hàn Băng, sau đọa làm loài tằm bị người nung nấu kéo tơ.
Phật nói: Ðời nay cướp lột áo của người ta, chết đọa vào địa ngục Hàn Băng, sau đọa làm loài tằm bị người nung nấu kéo tơ.
Ðời nay
chẳng muốn đốt đèn soi kinh, cúng tượng chết đọa vào địa ngục Hắc Ám trong núi
Thiết Vi.
Ðời nay làm
kẻ đồ tể mổ giết chúng sanh, chết đọa vào trong địa ngục Ðao Sơn Kiếm Thụ.
Ðời nay ham
đi săn bắn, huýt chó thả chim ưng làm mồi, sau khi chết đọa vào địa ngục Thiết
Cứ.
Ðời nay hay
làm hạnh tà dâm, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Ðồng Trụ, Thiết Sàng.
Ðời nay chứa
nhiều vợ, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết Khải.
Ðời nay chứa
nhiều chồng sau khi chết đọa vào địa ngục Ðộc Xà.
Ðời nay hay
thui luộc gà, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Hôi Hà.
Ðời nay hay
cạo lông lợn, nhổ lông gà, sau khi chết đọa vào địa ngục Hoặch Thang.
Ðời nay hay
hoạn thiến chó lợn, sau khi chết đọa vào địa ngục Tiêm Thạch.
Ðời nay hay
uống rượu say, sau khi chết đọa vào địa ngục uống nước đồng.
Ðời nay hay
cắt chém chúng sanh, sau khi chết đọa vào địa ngục Thiết Luân.
Ðời nay lấy
trộm quả trái của Tăng chúng, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết Hoàn.
Ðời nay hay
ham ăn ruột thịt chó lợn, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Phân nước giải.
Ðời nay hay
ăn gỏi cá, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Ðao Lâm Kiếm Thụ.
Ðời nay làm
mẹ ghẻ cay nghiệt với con chồng, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Hỏa Xa.
Ðời nay hay
nói lưỡi đôi chiều làm cho người ta ấu đả nhau, sau khi chết đọa vào trong địa
ngục Thiết Lê.
Ðời nay hay
nói đâm thọc mạ nhục người, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Bạt Thiệt.
Ðời nay hay
nói dối, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết Châm.
Ðời nay hay
sát sanh cúng tế tà thần, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Thiết Ðối.
Ðời nay làm
bà đồng khi lên đồng, giả làm lời nói của quỷ thần để dối người ta lấy tiền
của, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Nhục Sơn.
Ðời nay làm
bà đồng nhắm mắt nhìn xuống đất dối người lên trời lấy thần hồn, kẻ đó sau khi
chết đọa vào trong địa ngục Trảm Yêu (chặt ngang lưng).
Ðời nay làm
bà đồng bảo người ta sát sanh cúng tế để cầu ông thần lớn hoặc họa ngũ đạo, Thổ
Ðịa, Thổ Công, ông hoàng bà chúa, tất cả như thế đều là lừa dối kẻ tiền, sau
khi chết đọa vào địa ngục Chước, bị quân ngục tuốt băm chém, mổ xẻ thân thể,
lại bị con chim mỏ sắt mổ moi hai mắt.
Ðời nay làm
thầy bói phù thủy, ông đồng hoặc thầy địa lý chôn cất mồ mả, xem gia trạch,
đoán cát hung, năm họ tiện lợi, an long giận mạch trấn ác suy họa để lừa dối kẻ
ngu lấy tiền, nói càn những điềm xấu tốt, các bọn người này sau khi chết đọa
vào trong địa ngục Thiết Ðồng, có rất nhiều giống chim đậu trên mình kẻ đó để
mổ móc thịt ăn, ray rỉa gân xương chịu khổ vô cùng.
Ðời nay làm
thầy thuốc lừa dối chữa bệnh người không lành để lấy tiền, sau khi chết đọa vào
địa ngục Châm Chích, toàn thân bị thiêu đốt.
Ðời nay làm
kẻ phá tháp phá chùa, lường gạt chư Tăng, bất hiếu với cha mẹ, sau khi chết đọa
vào đại địa A Tỳ qua tám địa ngục lớn và các địa ngục nhỏ, một trăm ba mươi sáu
sở, lâu một kiếp, hai kiếp, cho đến năm kiếp, rồi sau đó mới được ra, nếu gặp
bậc thiện tri thức giáo hóa phát tâm bồ đề, bằng không lại đọa địa ngục.
Phật nói:
Làm thân người rất hôi thối nhơ bẩn, đầy lòng giận tức khó gỡ bỏ, phải biết kẻ
đó kiếp trước làm giống lạc đà nay được tái sanh.
Người hay đi
đây đi đó ăn khoẻ, không tránh nguy hiểm khó khăn, kẻ đó trước làm giống ngựa
tái sanh.
Người hay
xông pha đi nắng đi rét tâm không ghi nhớ, kẻ đó trước làm giống trâu được tái
sanh.
Người tiếng
nói to hồm hỗm, không biết hổ thẹn, nhiều ái niệm không phân biệt phải trái, kẻ
đó trước làm giống lừa được tái sanh.
Người hay
tham ăn thịt, làm gì cũng không sợ, kẻ đó trước làm giống sư tử được tái sanh.
Người lông
trên mình dài, mắt nhỏ không muốn ở yên chỗ, kẻ đó trước làm giống chim được
tái sanh.
Người thân
cao lớn, mắt tròn, tánh hay lẩn tránh những nơi đồng ruộng và ghét bỏ vợ con,
kẻ đó trước làm giống hổ được tái sanh.
Người có
tánh phản phúc, lại hay sát hại sâu trùng, kẻ đó trước làm giống dã hồ mà tái
sanh.
Người có lực
khoẻ mạnh và cường tráng ít dâm dục, không yêu vợ con, kẻ đó trước làm giống
chó sói mà tái sanh.
Người không
ham mặc áo đẹp, tánh hay rình bắt kẻ gian phi và ít ngủ, đa sân nộ kẻ đó trước
làm giống chó mà tái sanh.
Người ham
dâm dục và hay nói, lại được nhiều người yêu, kẻ đó trước làm giống chim vẹt mà
tái sanh.
Người hay
vui trong nhân chúng, lời nói nhiều phiền phức, kẻ đó trước làm loài chim yểng
mà tái sanh.
Người thể
vóc bé nhỏ ham dâm dục ý chẳng chuyên định, thấy sắc đẹp sanh tâm say mê, kẻ đó
trước làm loài chim sẻ được tái sanh.
Người mắt có
sắc đỏ răng ngắn, khi nói thì sùi bọt mép như xà bong, nằm thì cuộn mình lại,
kẻ đó trước làm loài trăn rắn được tái sanh.
Người lời
nói ra có tánh giận tức, không quan sát nguyên do ý nghĩa, miệng thở ra lửa
độc, kẻ đó trước làm giống bọ cạp, rết, mọt gỗ được tái sanh.
Người hay
ngồi một mình ăn, đêm ít ngủ, kẻ đó trước làm loài hồ được tái sanh.
Kẻ hay đào
tường khoét vách ăn trộm, tham của đầy lòng oán giận không có tình thân sơ, kẻ
đó trước làm loài chuột được tái sanh.
Phật nói:
“Kẻ phá hoại chùa tháp, cất giấu của Tam Bảo làm riêng của mình để ăn dùng,
chết đọa vào đại địa ngục A Tỳ, từ địa ngục được thoát ra lại đọa làm thân súc
sanh, như chim bồ câu, chim sẻ, chim uyên ương, chim oanh vũ, chim thanh tước,
cá giải, khỉ, vượn, hươu, nai nếu được làm người phải đọa thân hoàng môn hoặc
con gái hai căn, không căn hay kẻ dâm nữ.
Làm người
hay giận tức, chết đọa làm loài rắn độc, sư tử, hổ, báo, gấu bi, mèo, hồ, chim
ưng, gà, nếu được làm người hay nuôi gà lợn, kẻ đồ nhi (mổ giết trâu lợn) kẻ
săn bắn, kẻ chài lưới bắt cá và quân canh ngục.
Làm người
gặp Phật pháp mà ngu si chẳng hiểu đạo, khi chết đọa làm loài voi, lợn, trâu,
dê, trâu nước, rận, chí, ruồi, muỗi, kiến, các thân hình, nếu được làm người
thì mù, điếc, câm, ngọng, gù, còng, các căn không đủ, không hay thọ giáo pháp.
Làm người
hay kiêu mạn, chết làm loài bọ trong đống phân, hoặc làm lừa chở nặng, loài
chó, loài ngựa, nếu được sanh làm người phải đọa làm thân nô tỳ nghèo cùng ăn
mày, bị mọi người khinh rẻ.
Làm người mà
được chức vị quan quyền lại tham lấy của dân, chết đọa vào trong địa ngục Nhục
Sơn, lúc đó có trăm ngàn muôn quỷ thú lại cắt thịt mà ăn.
Ðời nay phá
trai, ăn đêm, sau khi chết đọa làm loài quỷ đói, trăm ngàn muôn năm không được
ăn uống, lúc bước đi trên đầu phun ra lửa.
Ðời nay ham
cởi trần ngồi, sau khi chết đọa làm loài trùng hàn vọ.
Ðời nay hay
cắp đồ trai dư về ăn uống, chết đọa vào trong địa ngục Nhục Thiết, sau khi sanh
vào cõi nhân gian mắc chứng bịnh yết hầu và chết non.
Ðời nay lễ
Phật đầu chẳng sát đất, chết đọa vào ngục Ðảo Huyền, sau khi sanh vào cõi nhân
gian phần nhiều bị lừa dối.
Ðời nay lễ
Phật không chắp tay, sau khi chết sanh nơi biên địa, làm nhiều thu hoạch ít.
Ðời nay nghe
tiếng chuông không ngồi dậy, sau khi chết đọa vào trong loài trăn, thân to dài
bị vi trùng moi rúc ăn.
Ðời nay chắp
tay hai bàn tay vùng lại với nhau lễ Phật, chết đọa vào địa ngục Phản Phọc, sau
sanh trong đạo người gặp nhiều việc ác. Ðời nay chắp tay và năm thể rạp xuống
đất chí tâm lễ Phật, đời sau thường được sanh vào nhà tôn quý thụ hưởng khoái
lạc.
Người ưa
giận và buồn phiền, là do đời trước có bịnh điên cuồng.
Người bị con
ngươi lệch về một bên (mắt lác), là do đời trước hay nhìn trộm phụ nữ.
Người đời
nay bênh vợ mắng cha mẹ, sau khi chết đọa vào trong địa ngục Trảm Thiệt.
Ðời nay lấy
nước đổ vào trong rượu rồi bán cho người ta, sau khi chết phải đọa làm loài
trùng trong nước, khi sanh cõi nhân gian mắc chứng bệnh thủng và đoản khí mà
chết.
Phật lại dạy
A Nan tôi rằng: “Như trên ta đã nói rất nhiều các sự đau khổ, đều là do nghiệp
thập ác mà ra, thượng là nhân duyên địa ngục; trung là nhân duyên súc sanh; hạ
là nhân duyên ngạ quỷ.
Tội sát sanh
khiến cho chúng sanh đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm
người phải hai hứ quả báo: một là chết non, hai là nhiều bịnh.
Tội trộm cắp
cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm
người phải hai thứ quả báo: một là nghèo cùng hai là chung của không được
xài tự do.
Tội tà dâm
cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm
người phải hai thứ quả báo: một là vợ không trinh lương, hai là hai vợ tranh
nhau không theo ý mình.
Tội nói dối
cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm
người phải hai thứ quả báo: một là phần nhiều bị người phỉ báng, hai là thường
bị người ta lừa gạt.
Tội lưỡng
thiệt cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh
làm người phải hai thứ quả báo: một là bị họ hàng phá hoại, hai là bị anh em họ
hàng tệ ác.
Tội ác khẩu
cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sinh làm
người phải hai thứ quả báo: một là thường phải nghe tiếng ác, hai là có nói ra
điều gì tranh cãi kiện tụng.
Tội ỷ ngữ
cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm
người phải hai thứ quả báo: một là phải nói chẳng ai tin, hai là lời nói không
được rành rọt.
Tội tham dục
cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm
người phải hai thứ quả báo: một là tham tài không chán, hai là cầu nhiều
không toại ý.
Tội sân giận
cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau được sanh làm
người phải hai thứ quả báo: một là thường bị người ta chỉ trích tội lỗi,
hai là thường bị người ta não hại.
Tội tà kiến
cũng khiến cho chúng sanh đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, sau sanh làm người
phải hai thứ quả báo: một là thường sanh vào nhà tà kiến, hai là tâm thường
nịnh hót không được ngay thẳng. Các Phật tử nên biết nghiệp thập ác như thế,
đều là mọi sự đau khổ, chứa chất một nhân duyên lớn.
Khi bấy giờ
trong đại chúng, có người đã tạo nghiệp thập ác, nghe Phật nói khổ báo của địa
ngục như thế, tự kêu khóc sợ hãi mà bạch Phật rằng:
“Lạy đức Thế
Tôn, đệ tử chúng con phải làm hạnh gì mà được thoát khỏi khổ ấy, cúi xin đức
Thế Tôn chỉ bảo cho?”
Phật nói:
“Các ngươi hãy giáo hóa hết thảy chúng sanh chung làm nghiệp phước, thế nào là
tu phước?
Nếu có chúng
sanh nào đời nay làm một người Ðại hóa chủ đứng ra xây cất chùa, tháp, tịnh xá
đời vị lai được phước làm quốc vương thống lãnh vạn dân khắp nơi đều quy phục.
Ðời nay làm
Ấp vương trung chánh, duy na, luân chủ, đời sau sẽ được làm vương thần, phụ
tướng, châu quận đầy đủ tôn sang.
Ðời nay
khuyến hóa nhiều người làm các việc công đức, đời vị lai sẽ được làm trưởng giả
giàu sang, mọi người kính nể bốn đường khai thông.
Ðời nay hay
đốt đèn nối sáng, đời sau sanh vào cung trời Nhật Nguyệt Quang Minh tự chiếu
soi.
Ðời nay hay
làm việc bố thí và từ tâm nuôi dưỡng sanh mạng, đời sau sanh nơi giàu có ăn mặc
tự nhiên.
Ðời nay hay
cho người thức ăn uống, đời sau nơi sanh bếp trời tự đem lại, sức lực đầy đủ,
thông minh, trí huệ, biện tài, thọ mạng lâu dài.
Cho thức ăn
loài súc sanh được bách bội báo, cho thức ăn kẻ nhứt xiển đề được ngàn bội báo.
Cúng dường
thầy Tỳ Kheo trì giới được vạn bội báo, nếu cúng dường các vị Pháp sư lưu thông
Ðại Thừa giảng tuyên tạng bí mật của Như Lai, khiến cho đại chúng khai thông
tâm mắt được vô lượng báo. Cúng dường Bồ Tát chư Phật thọ báo vô cùng. Cúng
dường ba bậc người phước báo vô tận: một là chư Phật, hai là cha mẹ, ba là bệnh
nhân.
Một lần cúng
món ăn mà được phước báo vô lượng như thế, nếu hay thường cúng dường phước ấy
bao giờ vô cùng tận được?
Ðời nay xối
nước tắm cho chúng Tăng, đời sau sanh chốn áo mặc tự nhiên, có mọi người kính
nể, thân hình đoan chánh, mặt mắt tươi đẹp.
Ðời nay tán
dương Phật và ham đọc tụng kinh pháp, sanh thân đời sau tiếng nói hòa nhã nhiệm
mầu, ai nghe tiếng cũng vui mừng.
Ðời nay hay
giữ giới, sanh thân đời sau đoan chánh oai nghi, là bậc tối thắng trong loài
người.
Ðời nay hay
đào giếng hoặc để chum, để thùng nước cho người qua lại dùng, trồng cây bên
đường cho người nghỉ mát, đời sau sanh xứ nào cũng làm thân vương, trăm mùi ăn
uống nghĩ tới là có đưa lại.
Ðời nay hay
viết chép kinh pháp cho người đọc, đời sau sanh xứ nào miệng biện đa tài, học
pháp gì, nghe qua một lần thấu hiểu, chư Phật Bồ Tát thường gia hộ, là tối
thắng trong loài người và thường làm bậc Thượng Thủ.
Ðời nay hay
bắc cầu, hoặc chở thuyền cho người qua sông, đời sau sanh xứ nào đều có đầy đủ
bảy báu, mọi người khen kính và chiêm ngưỡng, đi lại ra vào được người nâng đỡ.
Khi đó A Nan
tôi bạch Phật rằng: “Lạy đức Thế Tôn, kinh này gọi là gì và khuyến phát thế nào
cúi xin ngài chỉ giáo”.
Phật bảo A
Nan tôi rằng: “Kinh này tên Thiện Ác Nhân Quả, cũng gọi là kinh Bồ Tát Phát
Nguyện Tu Hành, thọ trì như thế”. Khi Phật nói kinh xong, trong chúng có tám
vạn người, trời phát tâm A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề và có trăm ngàn người
con gái chuyển thành nam. Một ngàn hai trăm ác nhân bỏ ý ác biết đời trước của
mình. Vô lượng trời người được vô sanh nhẫn, thường được hưởng khoái lạc. Vô
lượng thính giả sanh các cõi Tịnh Ðộ cùng được làm bạn với chư Phật Bồ Tát. Hết
thảy đại chúng về nhà làm phước, hoan hỷ phụng hành.
0 Kommentare:
Post a Comment