"Công phu của quý vị đạt
mức kha khá, Phật, Bồ Tát bèn thị hiện cảnh
giới để làm gì? Nhằm khảo nghiệm quý vị,
quý vị như như bất động, công phu sẽ tăng
cao. Nếu quý vị động tâm, ngay lập tức bị
giáng cấp: Vẫn chưa chịu nổi khảo nghiệm,
chưa đủ sức qua nổi cái ải này!..."
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 7
Chủ giảng:
Lão pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày
5 tháng 04 năm 2010
Địa
điểm: Hương Cảng Phật
Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh:
Đức Phong, Trịnh Lộc và Huệ Trang
TẬP 13
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hãy ngồi xuống. Xin xem Đại Thừa Vô
Lượng Thọ Kinh Giải, dòng cuối trang thứ
mười hai, chúng ta xem từ câu thứ hai.
“Duy lại thử phương tiện
pháp môn, đản bằng tín nguyện trì danh, tiện năng
công siêu lũy kiếp, vãng sanh Cực Lạc, kính
đăng Bất Thoái” (Chỉ nhờ vào pháp môn
phương tiện này, cậy vào tín nguyện trì danh, công
liền vượt trỗi bao kiếp, vãng sanh Cực Lạc,
nhanh chóng chứng lên Bất Thoái). Lần trước chúng
ta học tập tới đây. Hôm nay chúng ta tiếp tục:
“Nhược vô như thị
vi diệu pháp môn, phàm phu hà năng độ thử sanh tử
nghiệp hải, nhi đăng bỉ ngạn” (Nếu
chẳng có pháp môn vi diệu như thế này, phàm phu làm sao
có thể vượt qua biển nghiệp sanh tử này, lên
được bờ kia). Đây là cụ Niệm Tổ cảm
thán vô hạn, nhắc nhở chúng ta: Nếu không có pháp môn
này, tức là pháp môn “tín nguyện
trì danh, vãng sanh Tịnh Độ” này, có thể nói là
chúng sanh đời Mạt Pháp sẽ chẳng một ai có
thể vượt thoát sanh tử luân hồi trong một
đời này. Vì sao nói như thế? Vì tám vạn bốn
ngàn pháp môn đều phải tiêu nghiệp chướng, chẳng
hề đới nghiệp. Lục đạo do Kiến
Tư phiền não biến hiện; đoạn Kiến
Tư phiền não thì luân hồi lục đạo chẳng
còn nữa! Quả thật lục đạo giống như
một cơn ác mộng; đoạn xong Kiến Tư phiền
não sẽ tỉnh giấc mộng. Đó là như đức
Phật thường nói trong kinh: “Hết thảy những gì có hình tướng đều
hư vọng”, chẳng thật! Trong kinh Phật nói [điều
này] rất nhiều, quý vị quan sát cẩn thận, sẽ
thấy đúng như đức Phật đã nói, đức
Phật dạy chẳng sai một tí nào! Chúng ta đã luân hồi
trong thế gian này chẳng biết bao nhiêu lần, chẳng
thể nói rõ được! Do tập khí quá nặng, thời
gian quá dài, đức Phật đã giảng rất rõ ràng,
rất minh bạch, chúng ta muốn đoạn nhưng chẳng
thể đoạn được. Kiến giải sai lầm,
chấp trước nhục thân này là chính mình, luôn vì thân thể
này, tuy thân thể chẳng phải là ta, mà vì nó bèn tự tư
tự lợi, mưu cầu tiếng tăm, lợi dưỡng.
Quý vị thấy: Vì ba tấc lưỡi chẳng nát thường
muốn nếm ngũ vị, quý vị nói xem ta đã vì nó mà
tạo bao nhiêu tội nghiệp? Ăn thứ này thứ nọ,
nuốt qua khỏi cổ họng sẽ chẳng còn mùi vị
gì nữa, chẳng nhận biết nữa, nhưng do ba tấc
lưỡi tham đắm vị ngon, cả đời này
đã tạo bao nhiêu nghiệp? Thân này không phải là ta, mấy
ai giác ngộ? Thân thể này là huyễn tướng, là công
cụ; khi mê công cụ này tạo nghiệp; lúc giác ngộ nó
bèn tu tập, tích lũy công đức. Chúng ta phải khéo lợi
dụng công cụ này, đừng để nó tạo tội
nghiệp, phải dùng nó để giúp chúng ta hóa giải oán
nghiệp, tiêu trừ chướng ngại, như vậy
là đúng!
Các tổ
sư đại đức trong Phật môn chỉ dạy
chúng ta hãy “tá giả tu chân”
(nhờ vào cái giả để tu cái thật), thân thể
này là giả, nhờ vào nó để tu chân. “Chân” là chân tánh; chân tánh bất sanh bất diệt, đấy
mới là chính mình. Do vậy, nói chung, phải nhận biết
rõ ràng. Nếu không nhận biết rõ ràng, sẽ mê hoặc.
Chỗ tốt đẹp trong môn này là đới nghiệp
vãng sanh, có thể mang theo tập khí phiền não từ vô thỉ
kiếp tới nay đi vãng sanh, nhưng có điều kiện:
Mang theo nghiệp quá khứ, chẳng mang theo nghiệp hiện
hành; [tức là chỉ] có thể mang theo tội nghiệp
đã tạo trong quá khứ. Quá khứ là gì? Những gì
đã tạo trong ngày hôm qua đều là quá khứ, có thể
mang theo được, nhưng nếu lại tạo tác
trong ngày hôm nay, sẽ không thể vãng sanh. Chúng ta mong cầu
vãng sanh, tội nghiệp đã tạo trong ngày hôm qua có thể
sám hối, hôm nay ta sửa lỗi, đổi mới, ngày
hôm nay niệm Phật có thể vãng sanh hay không? Chắc chắn
có thể vãng sanh. Trong trường hợp nào sẽ chẳng
thể vãng sanh? Ngày hôm nay vẫn tạo [tội lỗi] thì
chẳng có cách nào cả! Quý vị thấy pháp môn này thù thắng
lắm! [Nghiệp chướng trong] ngày hôm qua đều
có thể mang đi; chỉ sợ lúc lâm chung vẫn tạo
nghiệp! Nếu như vậy thì chẳng có một tí ti
biện pháp nào! Tạo nghiệp gì vậy? Trong hơi thở
cuối cùng, vẫn còn ý niệm tư lợi, còn có ý niệm
tiếng tăm, lợi dưỡng, còn có ý niệm thấy
có kẻ nào xử tệ với ta, ta vẫn chưa báo thù.
Khi những ý niệm ấy khởi lên, sẽ không thể
vãng sanh. Đối với người nhà, quyến thuộc
thì tham ái, đối với chính mình thì do có lắm của
cải, niệm niệm chẳng buông bỏ, như vậy
là không được rồi! Đều phải bỏ sạch
sành sanh, chẳng nhiễm mảy trần, một tí vướng
mắc cũng chẳng có, lúc ấy mới có thể vãng
sanh. Mấu chốt là một niệm cuối cùng. Do duyên
này quá thù thắng, mà cũng quá khó có, Phật, Tổ dạy
chúng ta mỗi ngày đều phải nghĩ đến vãng
sanh. Nói cách khác, mỗi ngày đều phải nghĩ buông
xuống, triệt để buông xuống, chẳng lưu
luyến bất cứ thứ gì. Mỗi ngày đều suy
niệm như thế. Ngày hôm nay đức
Phật đến tiếp dẫn, ta lập tức ra
đi, vướng mắc gì cũng chẳng có, như thế
thì quý vị sẽ thật sự vãng sanh. Quý vị chẳng
thể nói: “A Di Đà Phật hãy chờ con, con còn có chuyện chưa lo liệu xong xuôi!” A Di
Đà Phật chẳng chờ quý vị, Ngài lại đi mất,
quý vị đã bỏ lỡ cơ hội. Vì thế, pháp
môn này thật là vi diệu.
Kế
đó, sách viết: “Cố đại
bi từ phụ, lưỡng độ đạo sư”
(vì thế, đấng đại bi từ phụ, đấng
đạo sư hai cõi), từ ngữ “đại bi từ phụ” chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật và A Di Đà Phật. Thích
Ca Mâu Ni Phật là Đạo Sư trong thế giới này, A
Di Đà Phật là Đạo Sư của thế giới Cực
Lạc. “Mẫn niệm ngã
đẳng, khai thử Tịnh Độ pháp môn, diệu
hiển khổ lạc nhị độ, khích dương
trầm mê chúng sanh” (nghĩ thương chúng ta, nên mở
ra pháp môn Tịnh Độ này, khéo léo chỉ bày hai cõi
sướng và vui, nhằm khích động, cổ vũ
chúng sanh đang mê muội chìm đắm). Mở ra pháp môn
này; nói thật ra, pháp môn này là đại từ bi nguyện
lực của A Di Đà Phật. Hết thảy chư Phật
thành Phật quả thật hoàn toàn bình đẳng, trí huệ
bình đẳng, đức năng bình đẳng, phước
báo bình đẳng. Vì sao các thế giới của chư Phật
không giống thế giới Cực Lạc? Đấy là
do lúc tu Bồ Tát Đạo, nguyện lực khác nhau. A Di
Đà Phật phát nguyện phổ độ hết thảy
chúng sanh trong khắp pháp giới hư không giới. Phát nguyện
quá lớn như vậy, từ phần bốn mươi
tám nguyện trong kinh này, chúng ta sẽ thấy, quý vị hãy
đọc kỹ càng, chư Phật Như Lai có nguyện
lực khác nhau. Vì thế, sau khi thành Phật, Tịnh Độ
[của chư Phật] thắng diệu cũng chẳng giống
nhau. Trừ điều đó ra, chẳng có gì không giống
nhau. Đức Phật thương xót chúng ta, đặc
biệt là đối với chúng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng
Cư phiền não tập khí nặng nề. Do vậy, cổ
đức đã nói: “Pháp môn này
trước là độ phàm phu, sau là độ thánh nhân”,
lời này là thật, chẳng giả! Phàm phu trọn đủ
ba điều kiện “Tín, Nguyện, trì danh niệm Phật”,
đầy đủ ba điều kiện này sẽ thành công.
Do mở ra pháp môn này là pháp môn đặc biệt ở ngoài
tám vạn bốn ngàn pháp môn, nên gọi là “môn dư đại đạo” (con đường
to lớn nằm ngoài các pháp môn). “Diệu hiển khổ lạc nhị độ”:
Thế giới Cực Lạc sung sướng, thế giới
Sa Bà khổ sở. Lúc tôi mới học Phật vào sáu
mươi năm trước, thấy kinh Vô Lượng
Thọ giảng những khổ báo của chúng sanh, lúc
đó, tôi cảm thấy Thích Ca Mâu Ni Phật nói hơi phóng
đại một chút, thế gian này đâu đến nỗi
khổ sở dường ấy? Nhưng đến hiện
tại thì sao? Nay đọc lại kinh này, Thích Ca Mâu Ni Phật
nói chẳng sai tí nào! Ngài nói về thế gian hiện thời
của chúng ta!
Trong thế
giới này, đúng là chẳng cần biết nghèo, giàu,
sang, hèn, quý vị hãy xét coi có ai hạnh phúc? Có ai sống
khoái lạc trong thế gian này? Người nào sống trong
thế gian này có cảm giác an toàn? Tìm không ra! Nay chúng ta vì sao
chẳng có phước báo nhân thiên như trong kinh đã dạy?
Phước báo ấy đi đâu rồi? Thật ra là có phước
báo, nhưng đã bị chính chúng ta phá hỏng! Vì sao? Chúng
ta sống chưa ra người. Điều kiện tối
thiểu để được coi là con người là “nhân giả ái nhân” (người
có lòng nhân yêu thương con người). Sách Đệ Tử
Quy chép: “Phàm thị nhân, giai tu
ái” (phàm là người, đều phải yêu
thương), người có lòng nhân yêu thương con
người. Người Hoa nói đến “nhân”, [tức là] nhân trong “nhân nghĩa”, quý vị thấy bên cạnh chữ
Nhân (人) là Nhị (二), đó là Nhân (仁). Nghĩ đến chính mình đồng
thời nghĩ đến người khác, đó là Nhân; chỉ
nghĩ tới mình, chẳng nghĩ tới ai khác, sẽ chẳng
phải là Nhân. Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc dạy
chúng ta: Chỉ có con người biết báo ân, tri ân, báo ân, con
người hiểu biết [điều này]. Báo ân thì
điều thứ nhất là báo ân cha mẹ. “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự
sư trưởng”, trong kinh, đức Phật đã dạy
chúng ta điều này. Tại Trung Quốc, đời đời
kiếp kiếp tổ tiên dạy người khác như vậy.
Nay chúng ta chẳng biết ân cha mẹ, mà cũng không biết
ơn thầy, nói thật ra, hiện thời kẻ làm cha mẹ
chẳng biết làm [tròn trách nhiệm của cha mẹ],
luôn bận bịu với công chuyện của chính mình. Con
thơ chẳng do chính mình nuôi dạy, toàn là giao cho người
khác chăm bẵm, thiếu sót bổn phận đối với
con, chẳng có ơn nghĩa với con, làm sao trẻ nhỏ
biết báo ân? Thầy chẳng dạy học trò, chẳng
thật sự dạy. Vì thế, học trò cũng chẳng
biết cảm kích ơn thầy! Vấn đề này hết
sức phức tạp, vì lẽ gì xã hội trở thành
nông nỗi này? Bắt chước nói theo một câu trong Phật
pháp, “là do vô lượng nhân
duyên” rất phức tạp!
Đức Phật dạy chúng ta dùng tâm
thái gì để sống, để ứng phó với xã hội
hiện tiền? Đức Phật nói rất hay, chính quý vị
phải nhận biết: “Tổ
tiên bất thiện (vô tri)”
(Tổ tiên chẳng lành (vô tri)), kinh Vô Lượng Thọ
đã nói như vậy. Cha mẹ chúng ta chẳng biết, vì
sao cha mẹ không biết? Ông bà không biết, chẳng dạy
họ. Vì sao ông bà không biết? Ông bà cố chẳng dạy.
Tính ngược lên từng đời một, tối thiểu
là năm đời, năm đời trước đây cha
mẹ thật sự dạy bảo. Vì lẽ nào, sau năm
đời chẳng dạy nữa? Chẳng phải là cha mẹ
không dạy, mà tại Trung Quốc, xã hội động loạn,
kể từ khi nhà Thanh sụp đổ, quân phiệt cát cứ[1],
xã hội động loạn, tiếp theo đó là chiến
tranh Trung Nhật, tám năm kháng chiến đã phá sạch [nền
tảng] gia đình. Vì thế, mãi cho đến ngày nay, tối
thiểu có từ bốn đời đến năm đời
thiếu sót sự giáo dục trong gia đình. Gia tộc chẳng
còn nữa, gia tộc nay đã không có, lấy đâu ra gia
giáo? Trước thời Kháng Chiến còn có gia tộc, còn có gia giáo. Lứa tuổi chúng tôi kể ra
hết sức may mắn, sanh trưởng tại nông thôn;
nếu sanh trưởng tại đô thị, gia giáo
cũng không có, nhưng ở nông thôn thì có, còn bảo tồn
nền văn hóa từ xưa. Quê hương chúng tôi lại
tương đối đặc thù một chút, vào
hai triều đại Minh - Thanh, cái nôi của Đồng
Thành học phái ở ngay tại quê tôi. Phong thái học hành
tại quê tôi rất thịnh, trong hương thôn có trường
tư thục; cho nên còn dính líu đôi chút với gia giáo.
Đại khái là sau năm Dân Quốc hai mươi mấy,
khoảng từ năm Dân Quốc hai mươi ba, hai
mươi bốn trở đi, không còn gia giáo nữa.
Tư thục ở hương thôn đổi thành trường
Tiểu Học, chẳng còn học cổ thư nữa; từ
đấy về sau, đương nhiên chẳng còn ai biết
đến chuyện này. Do vậy, hình thành tình trạng giáo
dục hiện thời đúng là đời sau kém hơn
đời trước. Hiện thời, hoàn toàn chẳng
thấy [đức dục] nữa!
Trong kinh
điển, đức Phật giảng hai cõi sướng
và khổ, nay chúng ta hoàn toàn thấu hiểu, nhưng phải
nhớ lời Phật khai thị: “Tổ tiên bất thiện (vô tri), bất thức đạo
đức, vô hữu ngữ giả” (Tổ tiên bất
thiện, chẳng biết đạo đức, không có ai
nói). Không có ai giảng cho chúng ta, chúng ta làm chuyện sai quấy,
đức Phật khoan hồng độ lượng, tha
thứ, chẳng trách móc, chẳng chỉ trích chúng ta. Chúng
ta cũng phải dùng tâm thái này để đối đãi
hết thảy chúng sanh làm ác trong hiện tại, cũng phải
giống như đức Phật khoan dung đối với
bọn họ. Bọn họ đáng
thương, vô tri mà! Nếu họ được tiếp
nhận giáo dục văn hóa truyền thống Trung Quốc
như thời cổ, sẽ chẳng làm như vậy. Hiện
thời, khắp thế giới xã hội động loạn,
tai nạn liên tiếp xảy ra, có phương pháp nào cứu
vãn hay chăng? Phương pháp có chứ! Trước
đây đã từng có người hỏi tôi, người
ấy nói: Khi chúng tôi còn thơ, hễ gặp khó khăn sẽ
nhờ cha mẹ [hướng dẫn cách] giải quyết.
Nay chúng ta gặp khó khăn thì phải làm sao? Vẫn theo lệ
ấy! Tìm đến tổ tiên, vấn đề sẽ
được giải quyết, thật sự có thể
giải quyết. Tổ tiên không còn trên đời, nhưng
trí huệ và kinh nghiệm của tổ tiên truyền lại,
ở nơi đâu? Trí huệ của tổ tiên ở trong
kinh điển. Quý vị thấy những gì được
biên tập trong Tứ Khố Toàn Thư là kinh, sử, tử,
tập[2],
trí huệ ở trong kinh và tử, còn kinh nghiệm thì sao?
Kinh nghiệm trong phần sử, quý vị tìm tòi trong lịch
sử, chắc chắn có phương pháp giải quyết.
Tổ tiên biết rõ ràng, sợ người đời sau sơ sót, nên đã đặc biệt nêu
ra một chân lý vĩnh hằng không thay đổi, đó là
chân lý gồm tám chữ: “Kiến
quốc, quân dân, giáo học vi tiên” (Xây dựng đất
nước, cai trị dân chúng, giáo dục làm đầu).
Dùng phương pháp gì để giải quyết vấn
đề? Giáo học! Giáo học có thể giải quyết
vấn đề. Nói theo căn bản Phật pháp, đức
Phật biết khổ và sướng, khéo léo chỉ bày khổ
và sướng, khổ do đâu mà có? Do mê hoặc, điên
đảo mà có! Quý vị mê rồi bèn làm chuyện sai trái,
sẽ bị khổ báo, mê mất rồi! Nếu quý vị
giác ngộ, tỉnh ngộ, sẽ chẳng làm chuyện ác, sẽ đoạn ác làm lành, bèn
lìa khổ, được vui. Đây là một đại
tiền đề (antecedent), đại nguyên tắc.
Nay
chúng sanh khổ như thế, không ai dạy, dạy gì? Dạy
con người giác ngộ, đó là giáo dục. Không phải
là dạy khoa học, kỹ thuật, đó không phải là giáo
dục; người Trung Quốc nói tới “giáo dục” thì giáo dục có
nghĩa là dạy con người giác ngộ, đó là giáo dục,
chúng ta phải hiểu rõ chuyện này! Cổ thánh tiên hiền
Trung Quốc dạy con người giác ngộ từ nhỏ,
hiểu mối quan hệ giữa
con người với nhau, sẽ mới có thể suốt
cuộc đời sống hạnh phúc mỹ mãn, sẽ có
quan hệ cư xử hết sức tốt đẹp;
quan hệ cư xử tốt đẹp thì gọi là “đức”. Thông hiểu mối
quan hệ nhân quả, không chỉ chẳng làm chuyện ác,
mà ngay cả ác niệm cũng chẳng dấy lên. Thiện
có thiện báo, ác có ác báo, tâm quý vị thiện, tư tưởng
thiện, ngôn ngữ thiện, hành vi thiện, quý vị suốt
đời hưởng phước báo bất tận, phước
báo do vậy mà có! Người thế gian coi hưởng thụ
vật chất là phước báo, thật ra, đó là một
phần nhỏ trong phước báo. Của cải là do
trong mạng có. Trong mạng có bao nhiêu, quý vị chẳng có
cách nào cưỡng cầu. Quý vị muốn vượt hơn
số lượng của cải đã định sẵn
trong số mạng, đó là chuyện không thể nào xảy
ra được! Sẽ chẳng làm được! Trong mạng
quý vị đã có, mong giảm bớt một chút cũng chẳng
giảm được! Trong mạng của quý vị có [của
cải, phước lộc] như thế nào? Trong đời
quá khứ đã gieo nhân, đời này quả báo hiện tiền.
Của cải là quả báo, bố thí tài vật là nhân. Đời
này là phú ông giàu có vạn ức, kiếp trước tu Tài Bố
Thí khá nhiều, đến khắp nơi phân phát của cải.
Khi thấy kẻ bần cùng cần đến, chẳng mảy
may keo kiệt, đến đời này suốt đời
được giàu có lớn, [tiền của] đưa
đến như thế đó! Thông minh, trí huệ là quả
báo, trong đời quá khứ tu pháp bố thí. Khỏe mạnh
trường thọ là quả báo, trong đời quá khứ
tu vô úy bố thí. Tu ba thứ bố thí này, sẽ đạt
được ba thứ quả báo: Tiền của, thông
minh trí huệ, và khỏe mạnh, trường thọ. Trong
đời quá khứ chẳng tu, nếu đời này may mắn,
gặp cao nhân chỉ điểm, quý vị có thể tin
tưởng, tu trong đời này vẫn kịp. Tôi là một
kẻ may mắn, khi tôi còn trẻ, ba điều này (phú quý,
trí huệ, thọ mạng) đều không có. Có rất nhiều
người xem tướng, đoán mạng cho tôi, tôi rất
tin lời họ: Trong mạng tôi, của cải trống
trơn, có số ăn mày, còn được một chút
thông minh trí huệ; suốt đời này muốn chuyển
biến phải dựa vào điều này. Chẳng vô úy bố
thí nên đoản mạng, tôi tin tưởng. Người ở
quê tôi đều biết: Đời ông cố tôi còn khá,
đến đời ông nội tôi gia cảnh đã lụn
bại, đến đời cha tôi nghèo túng không có mảnh
đất cắm dùi, chẳng có được một mẫu
ruộng nào ở quê nhà, không có nhà cửa để ở!
Một mình tôi theo các bạn
học đến Đài Loan, gặp được văn
hóa truyền thống, gặp được Phật pháp. Chương
Gia đại sư khuyên tôi xuất gia, vì tôi một thân một
mình chẳng phải lo lắng gì. Số mạng tệ quá,
chẳng có của cải gì, Ngài dạy tôi tu; vì thế, lão
nhân gia dạy tôi tu Tài Bố Thí. Tôi thưa: “Con cơm còn
chưa đủ ăn, lấy đâu ra để Tài Bố
Thí?” Ngài hỏi tôi: “Có cắc nào hay chăng?” Một cắc
thì được! “Một đồng tiền có hay
chăng?” Miễn cưỡng thì một đồng cũng
được! “Anh hãy bố thí từ một cắc, một
đồng, phải có ý niệm bố thí, phải có cái tâm
này. Hễ gặp cơ hội, anh bèn tu, thật sự
làm!” Khi ấy, tôi đã hiểu, biết
Phật pháp chẳng phải là mê tín, thường đến
chùa miếu, tới chùa miếu để làm gì? Tìm đọc
kinh sách. Do thuở ấy, chẳng thể mua kinh Phật
ngoài phố, chẳng thể mua kinh sách được, chỉ
có trong chùa miếu Phật giáo mới có kinh Phật, [nhà
chùa] có tàng kinh lâu, có thư viện, có thể mượn
đọc. Kinh điển trọng yếu như Đại
Tạng Kinh không cho mượn về, chỉ đành
lợi dụng ngày cuối tuần hay ngày nghỉ đến
đó sao chép. Vì thế, gặp gỡ mấy vị cư
sĩ, khi đó, chúng ta còn chưa gọi họ là cư
sĩ, cầm cuốn sổ nhỏ đến hóa duyên in
kinh, mọi người tùy hỷ bỏ ra chút ít. Gặp tôi,
tôi ghi hai cắc, ba cắc, năm cắc, tôi chỉ có sức
đến đó, thầy dạy tôi như thế. Còn có
phóng sanh, phóng sanh cũng là góp tiền, chúng tôi cũng đóng
góp một chút như thế, bắt đầu làm. Càng làm, hoàn
cảnh càng tốt đẹp hơn. Quý vị thấy
trong mười năm gần đây, mỗi năm tôi bố
thí để làm những thiện sự gần như là một
ngàn vạn Mỹ kim, tôi nằm mộng cũng không ngờ
là càng thí càng nhiều! Pháp bố thí tăng trưởng
thông minh, trí huệ, tuổi thọ [theo số mạng của
tôi] là bốn mươi lăm tuổi, tôi đã sống
lâu hơn bốn mươi năm, đó là gì? Vô úy bố
thí. Vô úy bố thí thứ nhất là ăn chay, không kết oán
cừu với chúng sanh. Tôi ăn chay đến năm nay là
năm mươi chín năm, sang năm là sáu mươi
năm, ăn chay, chẳng kết oán cừu với chúng
sanh! Phóng sanh, bố thí thuốc men; bố thí thuốc men sẽ
không sanh bệnh. Vì thế, tôi bảo mọi người:
Vì sao tôi không thể bị bệnh? Không có tiền thuốc
thang, tiền thuốc thang đem bố thí hết rồi!
Nếu tôi để dành một khoản tiền chữa bệnh,
chắc chắn phải ngã bệnh, vì sao? Quý vị đã
chuẩn bị kỹ lưỡng, khoản tiền ấy
dùng để chữa bệnh, chắc chắn quý vị phải
sanh bệnh thì mới dùng khoản tiền ấy được!
Do vậy, tôi đem khoản tiền thuốc men tặng
cho bệnh viện để bố thí cho người nghèo
cùng mắc bệnh, giúp đỡ họ, hàng năm giúp cho
họ hơn hai mươi vạn. Do tiêu hết khoản
tiền thuốc nên khỏe mạnh, trường thọ,
sẽ không thể ngã bệnh, chẳng mắc bệnh. Những
chuyện này đều do thầy dạy, tôi tin tưởng
thầy, y giáo phụng hành, cho nên đời này sống rất
tự tại, sống rất hạnh phúc. Hạnh nghiệp
này là đi theo con đường của Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thích Ca Mâu Ni Phật suốt đời dạy học, chỉ
dạy học, chẳng làm chuyện gì khác!
Nay chúng
ta thật sự hiểu rõ: Chỉ có giáo học là có thể
giúp hết thảy chúng sanh lìa khổ được vui. Khổ
lạc là quả báo, nhân là mê ngộ, giáo học giúp chúng sanh
phá mê khai ngộ, là cái quả tự nhiên, lẽ nào Ngài chẳng
lìa khổ được vui? Nhìn lại, tôi thấy tất
cả những vị sáng lập tôn giáo đều là những
người hết sức lỗi lạc, vì sao? Đều
là giáo học. Thuở tại thế, Gia Tô (Jesus) dạy học
ba năm, Ngài bị người ta hại chết. Nếu
chẳng bị kẻ khác hại chết, tôi tin Ngài sẽ
giống như Thích Ca Mâu Ni Phật, suốt đời dạy
học. Mục Hãn Mặc Đức (Mohammed, Muhammad) dạy
học hai mươi bảy năm. Thời gian Phật Thích
Ca dạy học dài nhất, bốn mươi chín năm. Dạy
học vui sướng, nâng cao đức hạnh và trí huệ
của chính mình, giúp người khác phá mê khai ngộ. Vì thế,
để cứu vãn phong khí xã hội hiện thời, dùng phương
pháp gì? Dạy học. Nếu quốc gia nào hiểu rõ,
người lãnh đạo đất nước giác ngộ,
hiểu rõ, lợi dụng đài truyền hình và mạng
Internet của đất nước để dạy những
khoa mục luân lý, đạo đức, nhân quả, những
khoa mục ấy đều giúp cho con người giác ngộ,
tôi tin tưởng quốc gia ấy tối đa sau một
năm, xã hội sẽ an định, vấn đề sẽ
được giải quyết. Trong quá khứ, tôi đã
bàn với nhiều người, trong khi giảng kinh cũng
nhắc tới, hiện thời, quốc gia cần loại
nhân tài nào bức thiết nhất? Giáo viên giáo dục truyền
thống. Nếu đất nước có thể bồi dưỡng
năm mươi, sáu mươi giáo viên, thiết lập một
đài truyền hình chuyên phát sóng trong hai mươi bốn giờ,
thì sức mạnh của năm mươi, sáu mươi
giáo viên ấy sẽ hơn năm trăm vạn đại
quân, trong thời gian một năm có thể đưa quốc
gia xã hội theo đúng quỹ đạo. Ai nấy đều
giác ngộ, tai nạn sẽ hóa giải, ngay cả thiên tai
cũng chẳng còn! Hết sức đáng tiếc là hiện
thời nhiệm kỳ tuyển cử [của Tổng Thống
hay Thủ Tướng ở] các quốc gia Tây Phương
là bốn năm, đầu óc họ luôn nghĩ cách tranh thủ
phiếu bầu cho nhiệm kỳ tới, chẳng hề
nghĩ đến chuyện này, rất đáng tiếc! Hễ
tôi có cơ hội vẫn khuyên họ, đừng bận
tâm đến phiếu bầu, nhiệm kỳ kế tiếp
đắc cử hay không chẳng sao cả, chính mình trong thời
gian bốn năm hãy khéo làm tốt chuyện này, công đức
to lắm! Công đức không gì có thể sánh bằng,
hơn đắc cử nhiều lắm, đây là chuyện
chúng ta phải nên làm. Do vậy, đối với “diệu hiển khổ lạc”,
nay chúng ta mới thật sự thấu hiểu dụng tâm
giảng kinh của đức Thế Tôn từ hơn hai ngàn
năm trăm năm trước. Dụng tâm chân thật nhằm
khích phát, cổ vũ chúng sanh đang mê muội, chìm đắm.
Chúng ta đã giác ngộ, hãy giúp người khác giác ngộ.
Chúng ta biết phương pháp này, phải giúp đỡ những
vị đại đức có địa vị, có cơ duyên.
“Thử đại hỏa tụ,
bỉ thanh lương trì” (cõi này là đống lửa lớn,
cõi kia là ao thanh lương), “thử”
là thế giới của chúng ta. Thế giới này quá nhiều
khổ nạn, “đại hỏa
tụ” là giống như địa ngục. “Bỉ” là Tây Phương Cực
Lạc thế giới, nơi đó là ao thanh lương. Chúng
ta học tập kinh Phật, cũng thường nói đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới, thế giới
ấy có khác gì thế giới của chúng ta hay chăng? Chẳng
sai khác mảy may! Vì lẽ gì nơi này là đống lửa
lớn, nơi kia là ao thanh lương? Cư dân có tâm tư
khác nhau. Quý vị thấy Thích Ca Mâu Ni Phật giới thiệu
thế giới Cực Lạc, như trong kinh Di Đà
đã nói: Thế giới ấy là “chư thượng thiện nhân câu hội nhất xứ”,
người trong thế giới ấy như thế nào?
Thượng thiện. “Thiện”
có tiêu chuẩn, tức là Thập Thiện Nghiệp, chẳng
sát sanh, không ăn trộm, chẳng tà dâm, chẳng nói dối,
chẳng nói đôi chiều, chẳng ác khẩu, chẳng
nói thêu dệt, chẳng tham, chẳng sân, chẳng si, người
thực hiện viên mãn mười điều này chính là thượng
thiện! Ai nấy đều như vậy, nên thế giới
đó tốt đẹp. Trong kinh điển, đức Phật
thường dạy: “Tướng
do tâm sanh, cảnh tùy tâm chuyển”. Con người ở
bên ấy mang tấm lòng thượng thiện, nên chẳng
có gì bất hảo, tướng mạo con người
đẹp đẽ, hoàn cảnh sống tốt đẹp,
tai nạn gì cũng đều không có. Nhìn lại thế giới
của chúng ta thì sao? Cũng là “thượng”,
chẳng khác gì thế giới Cực Lạc, nhưng chẳng
phải là thiện, mà là ác, sát sanh, trộm cắp, tà dâm,
cho đến tham, sân, si, cũng là làm rất viên mãn, cho nên
có phiền phức đưa tới liền! Vì thế, xã
hội động loạn, thiên tai, nhân họa liên tiếp
xảy ra; bới tung cả thế giới, phú quý hay bần
tiện đều chẳng có cảm giác an toàn, đều
chẳng cảm thấy hạnh phúc, quý vị nói thử
xem thế giới chúng ta đang sống đây có đáng
thương quá hay chăng? Chúng ta có cảm giác an toàn
đôi chút, không bị sợ hãi, có cảm giác hạnh phúc,
là vì sao? Chúng ta chỉ biết chắc chúng ta sống sót
ngày hôm nay, chẳng nghĩ đến ngày mai, cho nên hôm nay phải
rất hạnh phúc. Chuyện đáng nên làm bèn thực hiện
tốt đẹp, toàn bộ những chuyện chẳng
nên làm đều buông xuống, chẳng lo nghĩ. Nếu nghĩ
đến ngày mai, sang năm, năm sau, sẽ rắc rối
to, quyết định không có ý niệm này, niệm niệm
tưởng sanh về thế giới Cực Lạc, niệm
niệm nghĩ tới A Di Đà Phật. Nói chung, ta có một
ngày để nghĩ đến Ngài, chẳng nghĩ chi
khác! Nghĩ nhớ A Di Đà Phật là thượng thiện,
A Di Đà Phật là bậc thượng thiện, Thập Thiện
nghiệp đều viên mãn.
“Bảo liên tại tiền,
đao sơn tại hậu” (sen báu trước mặt,
núi đao sau lưng), chuyện này là do chúng ta chọn lựa.
Chọn lựa Tây Phương Cực Lạc thế giới
thì ao sen bảy báu ở trước mặt. Nếu không
đến được thế giới Cực Lạc, vẫn
muốn ở lại thế giới này, thì đao sơn sẽ
ở sau lưng, đó là gì? Địa ngục! Đao sơn
địa ngục đấy! Quý vị tiến lên trước,
hay lùi về sau? Quý vị hãy liễu giải chân tướng
sự thật này. “Ư thị,
tự nhiên sanh khởi thắng nguyện, yếm ly Sa Bà, cầu
sanh Cực Lạc” (Do vậy, tự nhiên sanh khởi ý
nguyện thù thắng, chán lìa Sa Bà, cầu sanh Cực Lạc).
Quý vị phải thật sự biết, vì sao? Thì mới
có thể buông xuống, chẳng còn tham luyến thế gian
này, chẳng còn tạo nghiệp luân hồi. Không chỉ chẳng
tạo nghiệp luân hồi, mà cái tâm luân hồi cũng phải
đoạn. Đoạn cái tâm luân hồi như thế nào?
Đặt cái tâm của A Di Đà Phật ở chính giữa
[tâm mình], hết thảy các tạp niệm khác đều vứt
bỏ, tâm luân hồi sẽ chẳng còn! Tâm quý vị sẽ
là tâm A Di Đà Phật. Vì thế, đối với khóa tụng
sáng tối của các đồng học Tịnh Tông chúng
ta, trong khóa sáng, chúng ta chưa thể niệm toàn bộ kinh
Vô Lượng Thọ, tôi khuyên mọi người trong khóa
sáng hãy niệm phẩm thứ sáu, tức phần bốn
mươi tám nguyện. Phải đem bổn nguyện của
A Di Đà Phật biến thành bổn nguyện của chính
mình. Ta và A Di Đà Phật đồng tâm, đồng nguyện,
đồng đức, đồng hạnh, há còn chẳng
thể vãng sanh ư? Chắc chắn vãng sanh! Khóa tối, chúng
ta chọn từ phẩm ba mươi hai tới phẩm ba
mươi bảy nhằm sám trừ nghiệp chướng,
đoạn kinh văn này giảng gì? Giảng Ngũ Giới,
Thập Thiện. Dùng tiêu chuẩn này để tu chỉnh khởi
tâm động niệm, ngôn ngữ, hành vi tạo tác của
chúng ta. Phải thật sự hành Thập Thiện, phải
thật sự đoạn bất thiện. Đọc hằng
ngày, học hằng ngày, giảng hằng ngày, quý vị nói
có phải là sung sướng, hạnh phúc lắm hay không? Chẳng
phải là giảng cho người khác nghe, mà là giảng cho
chính mình nghe; người khác là bàng thính (nghe ké), chính mình thật
sự học. Mỗi ngày nâng cao cảnh giới và đức
hạnh của chính mình, tăng trưởng trí huệ của
chính mình, trong thế gian này còn có chuyện gì tốt đẹp
hơn chuyện này? Thật sự thông đạt đạo
lý, thật sự hiểu rõ, tự nhiên quý vị có thể
buông xuống, buông Sa Bà khổ sở xuống, đạt
được Cực Lạc sung sướng. Thật tâm
cầu sanh Cực Lạc, chẳng giả!
“Ký sanh tín nguyện, cánh trì danh hiệu,
tiện đắc độ thoát” (đã sanh tín nguyện,
lại còn trì danh hiệu, liền được độ
thoát), chân tín! Vì sao người niệm Phật chẳng thể
vãng sanh? Lòng tin chẳng đủ, người ấy hoài
nghi! Vì sao hoài nghi? Liễu giải Lý Sự chưa đủ
thấu triệt. Vì sao đức Phật giảng kinh, thuyết
pháp mỗi ngày? Giảng kinh, thuyết pháp nhằm mục
đích giúp mọi người đoạn nghi, sanh tín. Nếu
là chân tín, sẽ có thể chẳng cần nghe kinh, mà cũng
có thể chẳng cần niệm kinh. Phải hiểu
đức Phật giảng kinh nhằm mục đích giúp
chúng ta đoạn nghi rồi mới sanh tín. Sau khi đoạn
nghi, sanh tín, quý vị thật sự phát nguyện, hiểu
luân hồi thật sự khổ, sở,
chẳng thể luân hồi nữa! Trong dĩ vãng đã luân
hồi nhiều như vậy, chẳng có cách nào tín toán số
năm, luận tính kiếp số sẽ là vô lượng
kiếp, khổ không thể nói nổi! Nay đã hiểu rõ,
minh bạch rồi, ngày hôm nay đã gặp cơ hội
này, nhất định có thể thoát ra, nương theo pháp
môn này sẽ thật sự có thể vượt thoát. Chẳng
dễ gì gặp được dịp này, cư sĩ Bành Tế
Thanh vào đời Thanh trước kia đã nói: “Hy hữu nan phùng chi nhất nhật”
(một ngày hiếm có khó gặp), hay như trong phần
trước đã nói: “Vô lượng
kiếp lai, hy hữu nan phùng” (hiếm có, khó gặp từ
vô lượng kiếp đến nay), ngày hôm nay quý vị
đã gặp, nếu có thể nắm chắc, sẽ thành
Phật ngay ngày hôm nay! “Tiện
đắc độ thoát” (liền được độ
thoát): Độ thoát là vĩnh viễn thoát ly mười
pháp giới, không chỉ là lục đạo, mà là thoát ly mười
pháp giới. Thế giới Cực Lạc không thuộc
trong mười pháp giới, hoành siêu mà!
“Sanh bỉ quốc dĩ” (sanh
sang cõi ấy), quý vị đã đến thế giới Cực
Lạc, “kiến Phật văn
pháp, đắc vô thượng ngộ” (thấy Phật,
nghe pháp, đắc vô thượng ngộ), chúng ta niệm
niệm mong cầu điều này. Tới thế giới Cực
Lạc gặp A Di Đà Phật, đồng
thời gặp thập phương tam thế hết thảy
chư Phật. Kinh Di Đà mà quý vị thọ trì do ngài
Cưu Ma La Thập dịch, trong bản dịch này ghi sáu phương
Phật; bản dịch của Huyền Trang đại
sư ghi mười phương Phật. Kinh Vô Lượng
Thọ ghi mười phương Phật; thập
phương tam thế hết thảy chư Phật quý vị
đều thấy. Vì sao? Thế giới Cực Lạc không
có các chiều không gian và thời gian, nhưng trong thế
gian này thì có các chiều không gian và thời gian, còn trong thế
giới Cực Lạc thì không có. Không có thời gian thì quá
khứ và vị lai quý vị đều thấy; không có
không gian, sẽ chẳng có khoảng cách, khoảng cách xa
đến mấy vẫn ở ngay trước mặt, cảnh
giới chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, quý vị thân
cận hết thảy chư Phật Như Lai, mười
phương thế giới chẳng tốn một tí công sức
nào, chẳng mất công giở chân, chẳng tốn sức
bước một bước nào, mười phương
Phật đều ở tại trước mặt. Khoa học
kỹ thuật hiện thời vẫn chưa đạt tới
mức này! Nay chúng ta do màn hình TV, cảnh tượng nơi
xa xôi cũng có thể thấy giống như đang đối
diện, nhưng cảnh tượng ấy là cảnh tượng
phẳng lì, người trong cảnh tượng ấy chẳng
thể bước ra trò chuyện với ta, còn thế giới
Tây Phương là thật sự đối diện. Do vậy,
chúng tôi nói: Khoa học còn thua thế giới Cực Lạc
rất xa! Tôi không ngừng cổ vũ, khuyến khích các khoa
học gia hãy tới thế giới Cực Lạc du học,
A Di Đà Phật là đại khoa học gia, thật sự
lỗi lạc, phải theo Ngài học tập. Thấy Phật
có lợi gì? Nghe Phật thuyết pháp chúng ta sẽ khai ngộ,
“đắc vô thượng ngộ”,
vô thượng ngộ là khai ngộ viên mãn đến tột
cùng. Đó là gì? Minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật;
vì vậy, tới thế giới Cực Lạc thành Phật
rất dễ dàng. Quý vị có quá nhiều cơ hội, mỗi
ngày đều tiếp xúc vô lượng vô biên chư Phật
Như Lai, cúng dường các Ngài, lễ bái, tu phước
báo, nghe kinh là khai trí huệ. Đến thế giới Cực
Lạc để làm gì? Chính là để làm hai chuyện ấy!
“Do hữu niệm nhi nhập vô niệm,
nhân vãng sanh nhi khế vô sanh” (do hữu niệm mà nhập
vô niệm, do vãng sanh mà khế nhập vô sanh). Hữu niệm
là phàm phu, vô niệm là Phật; hữu niệm là có niệm
gì? Khởi tâm động niệm, kinh Đại Thừa gọi
khởi tâm động niệm là Vô Minh phiền não, phân biệt
là Trần Sa phiền não, chấp trước là Kiến
Tư phiền não. Vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước là hữu niệm, những thứ này chẳng
còn nữa thì người ấy đã thành Phật. Lục
căn của Phật đối trước cảnh giới
lục trần chẳng khởi tâm, chẳng động niệm,
quý vị chẳng thể nói Ngài vô niệm. Ngài giảng
kinh, thuyết pháp giáo hóa chúng sanh, chẳng thể nói Ngài hữu
niệm. Do nguyên nhân gì? Chẳng khởi tâm, chẳng động
niệm là thanh tịnh tịch diệt, tự tánh bản
thể hiện tiền; chúng sanh có cảm, Phật bèn có ứng.
Ứng là khởi tác dụng, tác dụng có thể hiện
tướng. Quý vị có thể thấy Phật, Bồ Tát,
có thể thân cận Phật, Bồ Tát, hễ có nghi hoặc,
Phật, Bồ Tát có thể giúp quý vị giải quyết,
đấy là từ Thể khởi Dụng. Thể là thật,
vĩnh hằng bất diệt; Tướng là giả, sanh
diệt trong từng sát-na. Vì thế, chẳng thể nói Tướng
là có, chẳng thể nói Thể là không! Những khái niệm
này đều là sự tưởng tượng hư vọng
của lục đạo chúng sanh, chúng ta quá quen thuộc với
chúng, cứ tưởng chúng là những chuyện rất bình
thường. Thật ra, hoàn toàn sai lầm! Do vì những thứ
này, nên không thoát khỏi luân hồi trong lục đạo, hãy
nên buông xuống; nói dễ, làm khó! Tịnh Tông thuận tiện,
tức là dùng một câu danh hiệu “A Di Đà Phật” để
thay thế tất cả những quan niệm hư huyễn.
Ý niệm vừa mới dấy lên, bèn A Di Đà Phật, chẳng
cho có ý niệm thứ hai. Vì sao? Phật hiệu là tín hiệu
liên lạc giữa chúng ta ở nơi đây và Tây
Phương Cực Lạc thế giới đạo
sư A Di Đà Phật. Quý vị niệm câu Phật hiệu
này để liên lạc với Ngài. Liên lạc mỗi ngày,
thời thời khắc khắc liên lạc, vứt bỏ
hết những thứ khác, chúng ta dùng đường dây
[liên lạc] này sẽ thông suốt, ắt có cảm ứng
đạo giao. Nay chúng ta dùng một câu A Di Đà Phật là
hữu niệm, khi tới Tây Phương Cực Lạc thế
giới sẽ chứng đắc vô niệm. Do vãng sanh mà
khế nhập vô sanh, do phương pháp này ta bèn vãng sanh, tới
thế giới Cực Lạc bèn chứng đắc vô sanh.
Vô sanh là chẳng còn sanh tử, Tây Phương Cực Lạc
thế giới quả thật là như vậy. “Đốn ngộ thử tâm, bổn
lai bình đẳng” (đốn ngộ cái tâm này vốn bình
đẳng), bình đẳng là Phật tâm, quý vị thật
sự tìm được chính mình.
“Đường Hải Đông Nguyên
Hiểu sư vân” (sư Nguyên Hiểu ở Hải Đông
vào đời Đường đã nói), Đường là
nhà Đường, Hải Đông là Hàn Quốc hiện thời.
Hàn Quốc có một vị pháp sư tên là Nguyên Hiểu (Wonhyo)[3],
Ngài sang Trung Quốc học, thân cận Thiện Đạo
đại sư, làm đệ tử của Thiện Đạo
đại sư, sau khi trở về nước giáo hóa một
phương, là bậc đại đức của Tịnh
Tông Hàn Quốc. Ngài nói như sau: “Tứ thập bát nguyện, tiên vị phàm phu, kiêm vị
tam thừa thánh nhân” (Bốn mươi tám nguyện trước
là vì phàm phu, sau là vì kèm thêm thánh nhân trong tam thừa). Nói rất
hay, nếu chẳng khế nhập cảnh giới sẽ
không thể nói ra lời này! Từ cảnh giới này, chúng
ta cảm ơn Phật Di Đà, Phật Thích Ca vô hạn, vì
sao? Không do pháp môn này, lũ phàm phu chúng ta chẳng thể
thành tựu; do pháp môn này mà thành tựu của chúng ta vượt
trỗi tam thừa thánh nhân. “Tam
thừa”: Đại Thừa là Bồ Tát, Trung Thừa là
Bích Chi Phật, Tiểu Thừa là A La Hán; vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới vượt trỗi
các vị ấy. Các Ngài gặp nhiều khó khăn hơn
chúng ta, vì sao? Các Ngài có chấp trước, có Sở Tri Chướng,
chẳng tin tưởng pháp môn này. Tuy chúng ta có chướng
ngại, nhưng do thiện căn đời trước
sâu dầy, nói thật thà là chúng ta vừa nghe pháp môn này bèn hoan
hỷ, vừa nghe đã muốn thật sự học, thật
sự muốn sang thế giới Cực Lạc. Tuyệt
đối chẳng phải chỉ trong một đời này,
mà là trong quá khứ chắc chắn đã học pháp môn này.
Vì thế, vừa tiếp xúc, chủng tử thiện
căn trong A Lại Da bèn dẫn khởi sự tu tập
trong đời trước, nên mới sanh khởi sức
mạnh khiến tín nguyện kiên cố. “Khả kiến Tịnh Độ Tông chi diệu, thủ
vi phàm phu đắc độ” (Có thể thấy điều
mầu nhiệm của Tịnh Độ Tông là làm cho phàm
phu đắc độ trước tiên). Đây là sự
hay khéo của Tịnh Tông.
Chúng ta xem
tiếp đoạn thứ ba: “Tha
lực diệu pháp, thiện hộ hành nhân” (diệu pháp
tha lực, khéo hộ trì hành nhân). “Kỳ tha pháp môn toàn bằng tự lực, mạt thế
tu hành đa chư chướng nạn” (những pháp môn
khác hoàn toàn cậy vào tự lực, tu hành trong đời Mạt
có lắm chướng nạn). Chúng ta phải ghi nhớ câu
nói gồm mười sáu chữ này! Tám vạn bốn ngàn
pháp môn, pháp môn nào cũng đều phải cậy vào tự
lực, tự lực là gì? Đoạn phiền não, chứng
Bồ Đề. Trong thời đại Mạt Pháp hiện
tại, từ nay về sau, tu hành quả thật khó
khăn. Kế đó, sách nêu ra thí dụ: “Lệ như Lăng Nghiêm trung, quảng minh hành nhân
ư Thiền Quán trung chi ngũ thập chủng Ấm Ma
can nhiễu” (Chẳng hạn như trong kinh Lăng
Nghiêm đã giảng tường tận người tu Thiền
Quán bị năm mươi thứ Ấm Ma quấy nhiễu).
Lần này, chúng tôi không giảng về năm mươi thứ
Ấm Ma nữa; nếu giảng năm mươi thứ Ấm
Ma, có lẽ mất hai mươi tiếng đồng hồ
vẫn chưa giảng xong. Nếu quý vị muốn biết,
hãy xem kinh Lăng Nghiêm. Đọc kinh Lăng Nghiêm không hiểu
thì coi chú giải. Chú giải kinh Lăng Nghiêm rất nhiều;
tương đối đơn giản, dễ hiểu thì
có thể đọc bộ Giảng Nghĩa của pháp
sư Viên Anh trong thời cận đại. “Hành nhân chánh kiến sảo thất,
tiện hãm ma võng” (hành nhân hơi mất chánh kiến, liền
vướng vào lưới ma), chúng ta phải đặc biệt
lưu ý câu này. Năm mươi thứ Ấm Ma, Ấm là
Ngũ Ấm, tức Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
trong mỗi Ấm có mười thứ ma, [nên thành] năm
mươi thứ. Quý vị thấy Sắc chính là cảnh
giới hữu hình bên ngoài, cũng có thể nói là ngoại
giới dụ dỗ, mê hoặc; bốn mươi thứ
kia là phiền não trong nội tâm quý vị. Hễ quý vị bị
dụ dỗ, mê hoặc, sẽ bị mắc lừa, chánh
kiến vừa bị mất đôi chút bèn biến thành ma tuy
quý vị vốn là Phật. Chánh kiến là gì? Mỗi tông
phái khác nhau, mỗi pháp môn khác nhau, mỗi tông phái, pháp môn có
chánh kiến khác biệt! Chánh kiến trong pháp môn Tịnh Tông
là một câu Di Đà, chánh tri, chánh kiến. Quên mất A Di
Đà Phật, tiếng tăm, lợi dưỡng dấy
lên, xong rồi! Quý vị rớt vào ma giới. Quý vị phải
biết: Đi theo con đường Tây Phương Cực
Lạc thế giới này, nếu bước vào ngõ rẽ
mà chẳng lập tức quay lại, chắc chắn sẽ
mê mất phương hướng, đúng là muôn kiếp chẳng
trở lại được! Trong một vạn kiếp,
quý vị có thể tìm đường trở về hay chăng?
Có vấn đề, chưa chắc đã có thể tìm được
lối về. Bởi lẽ, trong quá khứ, lòng người
thiện lương, phong tục xã hội thuần hậu,
tu hành rất dễ dàng, bên ngoài chẳng dụ dỗ, mê hoặc
như trong hiện tại. Hiện thời, sức dụ
dỗ, mê hoặc không chỉ cao hơn quá khứ một trăm
lần, đáng sợ quá! Các đồng tu học Phật đã
lâu, đã từng học kinh Lăng Nghiêm, học kinh Đại
Thừa đều biết [điều này], nhưng có thể
đối phó những cảnh giới ấy hay không, rất
khó nói! Vì thế, người tu hành bị đọa trong cảnh
giới ma quá nhiều!
Ở đây,
cụ Hoàng nêu một ví dụ, quý vị phải từ ví dụ
này mà răn dè, đây là nói về cảnh giới hiện
tiền, khi cảnh giới Phật hiện tiền: “Bất tác thánh tâm, danh thiện cảnh
giới, nhược tác thánh giải, tức thọ quần
tà” (Nếu [thấy cảnh giới thù thắng hiện
tiền] tâm chẳng nghĩ là đã chứng thánh thì cảnh
giới ấy gọi là cảnh giới tốt lành. Nếu
cho là ta đã chứng thánh quả, liền rớt vào các loài
tà ma, ngoại đạo). Nêu ra thí dụ này để nói điều
gì? Vừa hơi mất chánh niệm, quý vị liền đọa
lạc. Trong xã hội hiện thời, cảnh giới này rất
nhiều, thấy tướng lành, thấy A Di Đà Phật,
thấy các cõi Phật, thật sự có người trông thấy,
chẳng giả, thậm chí có mấy người cùng thấy.
Trong xã hội hiện tại, còn có những trường hợp
quỷ thần dựa thân rất nhiều, Trung Quốc lẫn
ngoại quốc đều là như thế, những hiện
tượng do ảo giác sanh ra cũng rất nhiều.
Trong ấy có rất nhiều cảnh giới Phật, đó
là thật hay giả? Sau khi quý vị thấy mà chẳng động
tâm thì cảnh giới ấy là thật. Nếu khi quý vị
thấy cảnh giới ấy bèn động tâm, cho là thật
thì sai mất rồi! Quý vị phải biết: Hết thảy
cảnh giới hiện tiền, quý vị vẫn như
như bất động, những cảnh giới ấy
sẽ là thật. Nếu cảnh giới hiện tiền,
tín tâm dao động, khởi vọng tưởng, quý vị
đã sai mất rồi, bị lừa rồi, cảnh giới
ấy là cảnh giới ma! Do vậy, cảnh giới là ma
hay là Phật chẳng do bên ngoài, mà do nội tâm quyết
định. Nội tâm quý vị vẫn là Giới - Định
- Huệ làm chủ thì cảnh giới bên ngoài đều là
cảnh giới Phật; cảnh giới ma vẫn là cảnh
giới Phật. Nếu quý vị khởi tâm động niệm,
hoặc sanh tâm hoan hỷ, hoặc sanh tâm chán ngán, đều
sai cả! Tâm quý vị bị động, hoặc dấy lên
tham, sân, si, mạn, sai mất rồi! Đừng nên bị
cảnh giới bên ngoài lay động. Người ta nói quý
vị là vị Phật nào tái lai mà quý vị thật sự
nghĩ đúng như vậy thì xong mất rồi, đã đọa
vào cảnh ma mất rồi!
Do vậy,
trong giáo pháp Đại Thừa Trung Quốc đã có những
tiền lệ, Bồ Tát có thể ứng hóa trên thế
gian hay không? Có thể! Có thật hay chăng? Nếu là thật,
hễ thân phận bị bộc lộ, bèn đi ngay lập
tức, thật đấy, chẳng giả đâu! Thân phận
bị bộc lộ mà vẫn không tịch, dùng lời lẽ
yêu mị để mê hoặc người khác, đó là đồ
giả, chẳng thật! Thuở Ấn Quang đại
sư tại thế, có người nói Ngài là Đại Thế
Chí Bồ Tát tái lai, lão nhân gia quyết liệt phủ nhận,
cảnh cáo nghiêm khắc. Đó là một cô bé, chẳng tin Phật,
là học trò Sơ Trung (cấp Hai, Trung Học đệ nhất
cấp), mộng thấy Quán Thế Âm Bồ Tát bảo cô
ta: “Gần đây, Đại Thế Chí Bồ Tát đang giảng
kinh ở chỗ các ngươi”, bảo cô ta hãy đến
nghe. Cô bé hỏi Đại Thế Chí là ai? Pháp sư Ấn
Quang! Do vậy, cả nhà hoan hỷ đến gặp pháp
sư Ấn Quang, kể lại giấc mộng, bị pháp
sư Ấn Quang quở mắng một trận: Sau này mà ngươi
còn nói như vậy nữa, chẳng cho ngươi vào cửa,
nên chẳng dám nói nữa! Tới khi pháp sư Ấn Quang viên
tịch, cô ta viết một bài, được in trong bộ
Ấn Quang Đại Sư Vĩnh Tư Lục, thật đấy,
chẳng giả! Quán Âm Bồ Tát bảo cô ta, pháp sư Ấn
Quang trụ thế gần như chỉ còn bốn năm.
Quả thật, bốn năm sau Ngài vãng sanh, nên cô ta mới
nói ra chuyện này. Vào thời cổ, ở Trung Quốc, thật
sự có Bố Đại hòa thượng là người đời
Tống, ở chùa Tuyết Đậu huyện Phụng Hóa,
tỉnh Chiết Giang. Đây là một nhân vật truyền
kỳ, vì chẳng ai biết tình hình lúc Ngài chưa xuất
gia, chẳng ai biết cả! Chỉ thấy có một vị
hòa thượng như thế, thường hóa duyên bên ngoài,
cầm một chiếc túi lớn, được người
khác cúng dường, Ngài cũng không phân loại, mà cũng
chẳng nhìn tới, hễ được cúng dường
bèn tống vào túi, vác đi, cho nên người ta gọi Ngài
là Bố Đại hòa thượng (hòa thượng túi vải).
Chẳng ai biết pháp danh của Ngài, [nên cứ kêu là] Bố
Đại hòa thượng. Khi vãng sanh, Ngài bảo mọi
người Ngài là Di Lặc Bồ Tát tái lai; nói xong, Ngài tịch,
thật sự ra đi! Vì thế, người Hoa tạc tượng
Di Lặc Bồ Tát đều tạc tượng Bố
Đại hòa thượng, Ngài thật sự có bản lãnh!
Quý vị thấy các vị Hàn Sơn, Thập Đắc, Phong
Can ở chùa Quốc Thanh núi Thiên Thai: Phong Can là A Di Đà Phật
tái lai, Hàn Sơn, Thập Đắc là Văn Thù, Phổ Hiền.
Khi thân phận bị vạch trần, hai vị Hàn Sơn và
Thập Đắc chạy lên núi, rất nhiều người
hướng về các Ngài lễ bái, núi bèn nứt ra, các Ngài
đi vào, núi bèn khép lại, chẳng thấy đâu nữa!
Hòa thượng Phong Can là A Di Đà Phật, sau khi thân phận
bị bộc lộ, bèn mất tăm tung tích, chẳng biết
đi đâu rồi! Cổ nhân có những trường hợp
như thế nhằm giữ chữ tín với đời
sau!
Ứng
hóa thân đúng là thường có, trăm ngàn ức hóa thân; một
vị Phật, một vị Bồ Tát có vô số hóa thân. Vì
thế, quý vị gặp các Ngài, nếu giống như giáo
pháp Đại Thừa đã nói “chớ nên nghĩ các Ngài là
có, mà cũng đừng nghĩ các Ngài là không”, tâm quý vị
vĩnh viễn giữ được sự thanh tịnh,
vĩnh viễn giữ được lòng cung kính, đó là
đúng. Vì sao? Đức Phật nói rất hay: “Hết thảy chúng sanh vốn là
Phật”. Chúng ta cung kính A Di Đà Phật, cung kính Quán Âm Bồ
Tát như thế nào, hãy dùng tấm lòng cung kính giống hệt
như vậy để cung kính hết thảy chúng sanh, vì
sao? Họ đều là Phật! Quý vị nói tới bậc
tái lai, có ai chẳng phải là bậc tái lai? Người vào
trong cõi Phật đều là bậc tái lai, người từ
ngạ quỷ đạo thoát ra cũng là bậc tái lai; ai
cũng là bậc tái lai, có gì hiếm lạ đâu? [Chỉ
khác nhau ở chỗ là] từ đường nào tái lai! Trong
hiện tại, điều mấu chốt thật sự quan
trọng là chúng ta đừng đánh mất chánh niệm, trong
mười hai thời, Phật hiệu chẳng gián đoạn,
sẽ chẳng mất chánh niệm. Hễ Phật hiệu
bị gián đoạn sẽ gọi là “thất niệm” (mất chánh niệm), bỏ lỡ
chánh niệm. Đại Thế Chí Bồ Tát dạy chúng ta:
“Đô nhiếp lục căn,
tịnh niệm tương kế”, nhiếp trọn sáu
căn, thâu hồi cái tâm phan duyên lại, đó chính là “phản văn văn tự tánh,
tánh thành vô thượng đạo” (xoay cái Nghe lại để
nghe tự tánh, tánh thành vô thượng đạo) của Quán
Thế Âm Bồ Tát. “Tịnh niệm”:
Tịnh là “tịnh” trong “thanh tịnh”, chẳng hoài nghi, chẳng
xen tạp là Tịnh, “tương
kế” là chẳng gián đoạn. Vĩnh viễn giữ
gìn tịnh niệm tiếp nối, đó là chánh niệm
trong Tịnh Tông. Đối với bất cứ cảnh
giới nào hiện tiền, kinh Kim Cang có một câu nói rất
hay: “Phàm những gì có hình tướng
đều là hư vọng”, chẳng bị ngoại cảnh
nhiễu loạn, đó là đúng! Do vậy, bất cứ
cảnh giới Phật hay Bồ Tát nào hiện tiền, đều
biết: “Phàm những gì có hình
tướng đều là hư vọng”, sẽ là thiện
cảnh giới, hảo cảnh giới. Tâm quý vị chẳng
bị cảnh giới ấy xoay chuyển thì sẽ là cảnh
giới tốt đẹp. Nếu quý vị nghĩ: “Ta trông
thấy, tức là công phu của ta ngon lành lắm, các ngươi
thua ta, ta thấy Phật, ta trông thấy Phật, tuy các ngươi
tu hành nhưng vẫn chưa thấy!”, tự nghĩ mình ghê
gớm lắm, bị lừa mất rồi, đã bị
ma chuyển rồi!
Do vậy,
vào thời Tấn, Sơ Tổ Huệ Viễn đại
sư hướng dẫn một trăm hai mươi ba người
cùng chung chí hướng, thảy đều tu Tịnh Độ,
đều cầu vãng sanh, lấy Hổ Khê làm giới hạn,
không ra khỏi giới tuyến ấy, phát nguyện vãng
sanh tại nơi ấy. Quả thật, một trăm hai
mươi người ai nấy đều vãng sanh, đúng
là tuyệt diệu! Vãng sanh đương nhiên có kẻ trước
người sau. Khi Viễn Công đại sư vãng sanh, Ngài
thấy A Di Đà Phật và những đồng tu trong Niệm
Phật Đường ấy đã vãng sanh trước
theo A Di Đà Phật cùng đến tiếp dẫn Ngài. Ngài
bảo đại chúng: “A Di
Đà Phật đến đón ta, ta sẽ vãng sanh trong ngày
hôm nay”. Ngài lại bảo mọi người: Trong thời
gian Ngài ở trên núi ấy, trong quá khứ đã ba lần
thấy Tây Phương Cực Lạc thế giới, lần
này là lần thứ tư, nhưng chẳng kể với
ai! Người khác hỏi Ngài: “Thế giới Cực Lạc
như thế nào?” Ngài nói: “Hoàn toàn giống như trong kinh điển
đã giảng”. Quý vị phải biết kinh điển
khi đó chính là kinh Vô Lượng Thọ, Viễn Công đại
sư mở Niệm Phật Đường do dựa theo
một quyển kinh này! Vì sao? Kinh Di Đà và kinh Quán Vô Lượng
Thọ Phật vẫn chưa được dịch ra, có
thể là đã được truyền đến Trung Quốc
rồi nhưng vẫn chưa dịch sang tiếng Hán, cho nên
Ngài chỉ dựa theo kinh Vô Lượng Thọ. Tổ
sư đã nêu gương đúng đắn cho chúng ta, dù
thấy cảnh giới tốt đẹp đến đâu
đi nữa vẫn chẳng nói, trong tâm chính mình như
như bất động, càng thêm dụng công, đấy là
cảnh giới tốt. Công phu của quý vị đạt
mức kha khá, Phật, Bồ Tát bèn thị hiện cảnh
giới để làm gì? Nhằm khảo nghiệm quý vị,
quý vị như như bất động, công phu sẽ tăng
cao. Nếu quý vị động tâm, ngay lập tức bị
giáng cấp: Vẫn chưa chịu nổi khảo nghiệm,
chưa đủ sức qua nổi cái ải này! Vì thế,
hai câu nói này của kinh Lăng Nghiêm rất trọng yếu!
“Khả kiến hành nhân sảo hữu
chấp trước, tiện thất chánh kiến, tức
nhập ma đồ, cầu thăng phản giáng, thậm
chí đọa nhập Nê Lê” (Đủ thấy hành nhân hễ
có chấp trước đôi chút bèn mất chánh kiến, liền
lọt vào đường ma, cầu thăng lên, đâm ra đọa
xuống, thậm chí rớt vào địa ngục). Nê Lê (Naraka,
Niraya) là địa ngục, rất đáng sợ! Hiểu
rõ đạo lý này, người tu hành thật sự sẽ
giữ vững chánh niệm; thuận cảnh, [tức là] cảnh
giới của Phật, Bồ Tát hiện tiền chẳng
động tâm, cảnh giới yêu ma quỷ quái hiện tiền
cũng không động tâm. Quý vị thấy địa ngục
hiện tiền, vẫn là một câu “phàm những gì có hình tướng đều là hư
vọng”, chẳng để ý nó, vẫn giữ chặt
một câu A Di Đà Phật, ngay lập tức cảnh giới
chẳng còn! Chánh niệm là gì? Không bị cảnh giới bên
ngoài ảnh hưởng thì gọi là “chánh niệm”. Người
này xử tốt với ta, ta rất cảm kích, tri ân, báo
ân, hết thảy tùy duyên; chớ nên dấy lên ý nghĩ: “Ta
nhất định phải báo đáp ngươi như thế
nào!”, [nghĩ như vậy] là xong rồi, quý vị lại
bị đọa lạc. Người này có thù oán với
ta, hận ta, chẳng cần phải báo thù. Nói chung, đều
coi những người ấy như chư Phật, Bồ
Tát. Các Ngài xử tốt với ta nhằm khảo nghiệm
ta, xem ta có tham luyến hay không; các Ngài xử tệ với
ta để xem ta có sân hận hay không, đều là cảnh
giới Phật. Vì vậy, Phật và ma là một, chẳng
hai. Phật hay ma nhìn từ chỗ nào? Từ ý niệm! Một
niệm giác thì ma cũng là Phật; một niệm mê, Phật
cũng biến thành ma. Nếu Phật hiện tiền, quý
vị dấy lên tâm ngạo nghễ, ngã mạn: “Các ngươi
thấy ta tu khá quá chớ! Thấy Phật mà, các ngươi
đâu có bằng ta!” Thôi rồi! Đọa lạc rồi!
Vì vậy, quý vị chẳng thấy Phật là vì sao? Công
phu vẫn chưa đủ, chẳng cần phải khảo
nghiệm, quý vị vẫn chưa được. Đến
khi quý vị gần như đạt đủ trình độ,
sẽ có cảnh giới hiện tiền nhằm khảo
nghiệm quý vị, quý vị phải nhớ: Đừng bị
dao động bởi các cảnh giới ấy! Thật
ra, trong cuộc sống thường ngày, mọi người
đều biết năm mươi ba lần tham học
trong kinh Hoa Nghiêm, năm mươi ba tham học là gì? Từ
sáng thức dậy đến tối đi ngủ, trong lúc
ấy, lục căn tiếp xúc cảnh giới chính là
năm mươi ba lần tham học, nam, nữ, già, trẻ,
các ngành, các nghề.
Quý vị
chẳng cần phải hâm mộ Thiện Tài, Ngài gặp nhiều
thiện tri thức dường ấy, ta chẳng gặp
một ai! Từ sáng đến tối, những người
quý vị đã gặp đều là thiện tri thức, nhưng
quý vị chẳng nhận ra! Quý vị thấy kẻ này
làm lành, đó là thiện tri thức, hãy lập tức nghĩ:
Ta có những điều tốt đẹp giống như
kẻ ấy hay chăng? Nếu ta chưa có, phải học
theo kẻ ấy. Nếu ta có, tốt lắm, hãy gìn giữ,
đừng để mất đi! Thấy kẻ làm ác, kẻ
ấy là thầy ta, hồi quang phản chiếu, ta có làm
chuyện ác như kẻ ấy hay chăng? Hễ có, phải
sửa đổi; nếu không có, từ nay ta chớ nên phạm
khuyết điểm ấy. Quý vị thấy đó: Họ
chẳng phải là thầy ta ư? Chẳng đều là Phật
ư? Thiện Tài mỗi ngày gặp gỡ, mỗi ngày không
ngừng nâng cao cảnh giới, thành Phật viên mãn trong một
đời. Chúng ta gặp gỡ mỗi ngày đều bỏ
lỡ, không hiểu biết vốn là [thiện tri thức luôn
hiện diện trong] cuộc sống thường ngày! Phật
pháp là gì? Phật pháp nhằm dạy chúng ta giác ngộ; hễ
ngộ sẽ là Phật, ngộ rồi bèn quay đầu,
ngộ rồi bèn lìa khổ được vui, do mê nên mới
chịu khổ. Những phần tử tri thức, [nhất
là] hạng tri thức bậc cao, Sở Tri Chướng nặng
nề, chấp trước kiến thức của chính
mình, trí huệ chưa mở mang; nếu họ có thể
buông xuống, buông tham, sân, si, mạn, nghi xuống, lòng rỗng
rang học tập kinh điển, từng câu từng chữ
trong kinh điển là những lời lẽ chân thật,
chẳng dối trá. Quý vị có thể tiếp nhận thì
tốt lắm; nếu chẳng thể tiếp nhận thì
có thể còn có nghi vấn, nhưng chẳng phải là hoài
nghi, vì sao? Đạo lý trong kinh điển quá sâu, nay ta chưa
đủ trình độ, đang cầu giác ngộ, cầu
liễu giải. Cách cầu như thế nào? Dùng cái tâm thanh
tịnh để đọc tụng kinh điển, cứ
đọc từng lần một, đừng nên suy tưởng.
Giống như trong Khởi Tín Luận, Mã Minh Bồ Tát đã
bảo: Đọc kinh chẳng chấp trước tướng
văn tự, chẳng chấp trước tướng
danh tự, chẳng chấp trước tướng tâm
duyên; quý vị dùng phương pháp ấy để đọc,
sau một thời gian dài, tâm sẽ định. Vì vậy, đọc
kinh giống như trì giới, nhất định phải
chân thành, cung kính đọc, giống hệt như Phật
đang ở trước mặt ta, cung kính đọc. Đọc
lâu ngày, tâm thanh tịnh hiện tiền. Tâm thanh tịnh sanh
trí huệ, hoát nhiên khai ngộ, sẽ hiểu rõ.
Kinh Hoa Nghiêm giảng về duyên khởi
vũ trụ, các phẩm như Hoa Tạng Thế Giới
và Thế Giới Thành Tựu giảng viên mãn hơn những
nhà khoa học hiện thời. [Vũ trụ] san khởi như
thế nào? “Nhất niệm bất
giác, nhi hữu vô minh” (một niệm bất giác bèn có vô
minh), do nhất niệm bất giác, trong tự tánh bèn biến
ra một huyễn tướng, huyễn tướng ấy
gọi là A Lại Da. A Lại Da lại biến ra vũ trụ,
biến thành thân thể của chính mình. Gần như là xuất
hiện cùng một lúc, tốc độ quá nhanh, Di Lặc Bồ
Tát đã giảng về tốc độ này [như sau]:
Trong một cái khảy ngón tay, có ba trăm hai mươi triệu
niệm, khảy ngón tay một cái thì đã ba trăm hai
mươi triệu niệm trôi qua! Mỗi niệm ấy được
gọi là “nhất niệm”, “nhất niệm bất giác” như
Phật pháp đã nói chính là một niệm này. Trong nhất
niệm có hiện tượng vật chất xuất hiện,
vật chất là vũ trụ; có hiện tượng tinh
thần xuất hiện, tinh thần là Thọ, Tưởng,
Hành, Thức. Ngũ Uẩn xuất hiện, Sắc, Thọ,
Tưởng, Hành, Thức. Sắc là vật chất, tướng
cảnh giới là Tướng Phần của A Lại Da.
Biểu hiện của tinh thần là Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, chúng là Kiến Phần của A Lại Da, [còn
gọi là] Chuyển Tướng. Cách nói này rất hay! Đều
là từ một niệm bất giác; vì thế, một niệm
bất giác được gọi là vô thỉ vô minh, vô thỉ
là gì? Không có khởi đầu. Quý vị phải hiểu cách
nói này có dụng ý rất sâu: Chẳng có khởi đầu
thì là giả, chẳng thật! A Lại Da có thể hiện,
có thể biến là giả, chẳng thật, vũ trụ
được biến [bởi A Lại Da] lẽ đâu có
thật? Chẳng phải là thật! Quý vị mê nên ngỡ
nó là thật; hễ giác ngộ sẽ biết nó chẳng thật.
Vì vậy, cái tâm giác ngộ thanh tịnh, chẳng nhiễm
mảy trần, người ấy chẳng có ý niệm chiếm
hữu hay khống chế, chẳng có ý niệm đối
lập, quý vị nói xem: Người ấy có tự tại
lắm hay không? Đấy là Bồ Tát ứng hóa trong mười
pháp giới, người ta dùng cái tâm thanh tịnh, tâm bình
đẳng, tâm giác, trong tựa đề kinh ghi “thanh tịnh, bình đẳng, giác”,
người ấy sống hạnh phúc lắm, mỹ mãn lắm.
Giác ngộ rồi; hễ giác ngộ bèn thanh tịnh, bình
đẳng, giác; hễ mê thì thanh tịnh biến thành ô nhiễm,
bình đẳng biến thành ngạo mạn, ngạo mạn
là phiền não bẩm sinh, “giác” biến thành hồ đồ,
ngu si.
Quý vị
thấy: Khi giác ngộ sẽ là thanh tịnh, bình đẳng,
giác; khi mê hoặc sẽ là ô nhiễm, ngạo mạn, sân
khuể, ngu si. Đấy là căn nguyên của vạn hữu
trong vũ trụ, tìm được căn cội rồi!
Căn cội ấy là giả, chẳng thật; cái Giả
này từ Chân biến hiện ra. Chân là chân tánh, vĩnh hằng
bất diệt. Tịnh Độ Tông gọi chân tánh là Thường
Tịch Quang Tịnh Độ, nó là thật. Cũng như
khi Huệ Năng đại sư khai ngộ đã nói ra năm
câu để hình dung Thường Tịch Quang; nó thanh tịnh,
vĩnh viễn thanh tịnh, bất sanh, bất diệt, trọn
đủ vô lượng trí huệ, đức tướng,
chưa hề lay động, có thể sanh ra vạn pháp, nhất
niệm bất giác bèn hiện vạn pháp. Liễu giải chân
tướng sự thật này, tâm chúng ta sẽ định,
bất luận trong hoàn cảnh nào, quý vị cũng đều
chẳng bị cảnh giới lay động, đó là hạnh
phúc thật sự. Vì sao chúng ta không làm được? Trên
thực tế, do liễu giải chẳng thấu triệt;
xưa kia, Chương Gia đại sư đã bảo tôi
thế này: “Phật pháp biết
khó, làm dễ”. Quý vị thấy: Hành thì phàm hay thánh ngay
trong một niệm, Huệ Năng đại sư khai ngộ
trong một sát-na, Thích Ca Mâu Ni Phật khai ngộ dưới
cội Bồ Đề cũng là một sát-na, chẳng khó
tí nào, buông xuống là được! Vì sao không buông xuống
được? Chưa thấy thấu suốt! Đối
với kẻ chưa buông xuống, đức Phật bèn dùng
kinh giáo để giúp đỡ kẻ ấy; do vậy, Ngài
giảng kinh thuyết pháp bốn mươi chín năm nhằm
giúp những kẻ chưa buông xuống
được. Nếu vừa giảng liền buông xuống,
đâu cần phải phiền phức như thế, chẳng
cần thiết! Bậc đại đức căn
tánh thượng thượng trong Tông môn nghe một, ngộ
cả ngàn, triệt ngộ ngay lập tức là vì các Ngài
triệt để buông xuống. Vì sao đã buông xuống rồi
mà vẫn phải khởi tu, vẫn phải học tập
kinh giáo? Nhằm rộng độ chúng sanh. Nếu quý vị
chẳng thông hiểu kinh giáo, do căn tánh của chúng sanh không
giống nhau, căn tánh gì cũng đều có, làm sao quý vị
giúp họ được? Do vậy, phải học tràn lan
nhiều kinh giáo, học giáo nhằm giúp đỡ người
khác, chẳng nhằm giúp chính mình. Giúp chính mình thì chúng ta chẳng
tu Thiền, mà tu Tịnh Độ, một câu A Di Đà Phật
là đủ để thành tựu chính mình rồi! Kinh giáo
nhằm giúp người khác, tự lợi, lợi tha! Chúng
ta chưa đại triệt đại ngộ thì kinh giáo
nhằm giúp người khác mà cũng đồng thời giúp
chính mình nâng cao, thấy thấu suốt. Thấy thấu suốt
mới thật sự buông xuống được! Do vậy,
chưa thấy thấu suốt thì phải dốc sức nơi
kinh giáo; nếu đã thấy thấu suốt, chẳng cần
[phải làm như vậy]. Đoạn này đặc biệt
nhắc nhở chúng ta: Chánh kiến rất quan trọng! Người
tu hành bất luận thuộc tông phái hay pháp môn nào, nhất
định phải giữ vững chánh tri chánh kiến. “Thị cố kỳ dư
chư pháp, danh nan hành đạo” (do vậy, các pháp môn khác
được gọi là đạo khó hành), pháp môn này là “dị hành đạo” (đạo
dễ hành).
Chúng ta xem
đoạn tiếp theo: “Đản
Niệm Phật pháp môn, đồng ư Mật pháp, thị
tha lực môn, thuộc ư Quả giáo” (nhưng pháp môn
Niệm Phật giống như Mật pháp, là tha lực môn,
thuộc về Quả giáo). Phật pháp khai ngộ, pháp môn
vô lượng vô biên, nhưng tới cuối cùng, chỉ có
ba môn, ba môn ấy là giác, chánh, tịnh, tới cuối cùng là
ba môn này. Giống như chúng ta tới giảng đường
này, giảng đường có ba cửa, nhưng có rất
nhiều đồng học từ các nước trên thế
giới đến đây theo vô lượng vô biên lộ trình
[khác biệt], bất luận quý vị đi theo lộ trình
nào, khi tới chỗ tôi, muốn vào giảng đường
này phải theo ba cái cửa ấy. Vì thế, tới cuối
cùng là ba môn này. Giác môn dành cho bậc thượng thượng
căn, đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh; Thiền Tông, Tánh Tông theo môn này, chẳng phải là người
thượng thượng căn sẽ chẳng thể hành
theo môn này. Môn thứ hai là Chánh môn, Chánh môn dễ đi, giống
như học hành phải theo thứ tự, từ Tiểu
Học, Trung Học, Đại Học, nghiên cứu sinh mà đạt
được học vị tối cao. Học vị tối
cao là thành Phật, nhưng thời gian rất dài, trong một
thời gian ngắn chẳng thể thành tựu ổn thỏa,
thích đáng. Dẫu có khi ổn thỏa, thích đáng, nhưng
thọ mạng của chúng ta quá ngắn, sợ rằng chẳng
thể thành tựu trong một đời được! Như
vậy thì phiền quá, đời sau chẳng biết khi nào
lại được làm thân người. Được
làm thân người, nhưng có được gặp gỡ
[pháp môn này] lần nữa hay không, vẫn là một câu hỏi!
Rất nhiều kẻ được làm thân người,
nhưng chẳng gặp gỡ, sống uổng phí một đời này, vì thế [liễu
thoát theo Chánh môn] chẳng dễ dàng, phải tốn thời
gian rất dài! Môn thứ ba là Tịnh môn, tu tâm thanh tịnh.
Tu Tịnh môn gồm hai tông, Mật Tông là Tịnh môn, Tịnh
Độ Tông là Tịnh môn, đều dựa vào tha lực,
Phật đến gia trì. Mật Tông cũng là Phật gia
trì, Tịnh Độ Tông cũng vậy, nhưng Tịnh
Tông dễ tu hơn Mật Tông.
Thầy
tôi là Chương Gia đại sư, Ngài là Thượng Sư
bên Mật Tông, sư huynh sư đệ của Ngài gồm bốn vị là Đạt Lại
(Dalai), Ban Thiền (Panchen), Chương Gia, Triết Bố
Tôn Đan Ba (Jebtsundamba), bốn người cùng là đệ
tử của đại sư Tông Khách Ba (Je Tsongkhapa)[4].
Bốn vị này ở biên cương Trung Quốc: Đạt
Lại ở Tiền Tạng (Ü-Tsang),
Ban Thiền ở Hậu Tạng, Chương Gia ở Nội
Mông, Triết Bố Tôn Đan Ba tại Ngoại Mông, người
ta thường gọi họ là
Tứ Đại Lạt Ma, còn gọi là Tứ Tôn Hoạt Phật
(bốn vị Phật sống). Khu vực giáo hóa của ngài Chương Gia lớn nhất:
Từ vùng Đông Bắc của Trung Quốc, Nội Mông
cho tới Cam Túc, Nhiệt Hà, Sơn Tây, Thiểm Tây, lại
còn bao gồm cả phía bên kia như Tân Cương, Thanh Hải,
cả vùng này đều thuộc phạm vi quản hạt
của Ngài. Do vậy, giáo khu của Ngài có phạm vi lớn
nhất. Chúng tôi có duyên phận hiếm có, được thân
cận Thượng Sư, Ngài chẳng dạy tôi học Mật,
mà dạy tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài giảng
cho tôi nghe rất nhiều Mật pháp, nên tôi liễu giải:
Trong Phật môn, Mật pháp là Phật pháp cao cấp trong giáo
pháp Đại Thừa, giống như gì? Chương trình
học của nghiên cứu sinh, kẻ bình thường chẳng
thể tu được! Người bình thường có
thể tu Mật, [thì Mật pháp ấy]
là giả, chẳng thật. Đó là kết duyên, giống
như trong vườn trẻ (ấu trĩ viên, kindergarten)
cho trẻ tốt nghiệp, cũng đội mũ Tiến
Sĩ, chúng ta phải hiểu người bình thường
học Mật cũng giống như vậy. Thầy
bảo tôi: Thật sự học Mật thì ai mới đủ
tư cách? Sơ Địa Bồ Tát, Ngài nói đến [Sơ
Địa trong] Biệt Giáo. Nói theo kinh Hoa Nghiêm, [người
đủ tư cách học Mật] là Sơ Trụ Bồ
Tát, sau khi vượt thoát mười pháp giới, minh tâm kiến
tánh, kiến tánh thành Phật bèn học Mật pháp, dùng Mật
làm gia hạnh, cảnh giới sẽ nâng cao lên rất nhanh.
Nếu quý vị chưa đạt cảnh giới này mà học
Mật sẽ là giả, chẳng thể thành tựu!
Lão cư
sĩ Hoàng Niệm Tổ cũng học Mật, cụ bảo
tôi: “Hiện thời, Mật chẳng dùng được, chẳng
có cách nào đạt được sự thù thắng trong
Mật Tông”. Thiền cũng không được, cụ học
Thiền với lão hòa thượng Hư Vân. Cụ bảo
tôi: “Hiện thời, trừ Niệm
Phật ra, chẳng có cách thứ hai nào để thành tựu!”
Vì thế, lúc cụ vãng sanh, đã cho tôi biết: Mỗi ngày
cụ niệm Phật hiệu mười bốn vạn tiếng.
Sau khi viết xong bản chú giải kinh này, thứ gì cụ
cũng không đọc, chỉ niệm Phật, nhất tâm
cầu sanh Tịnh Độ; vì thân thể cụ không khỏe,
lắm bệnh, tuổi đã cao, nên cầu sanh Tịnh
Độ chẳng giả! Vì thế, Mật Tông ắt phải
là đã thành tựu thật sự trong Hiển Giáo rồi
mới dùng Mật pháp làm gia hạnh. Hiện nay, Tạng Mật
(Mật Tông Tây Tạng) cũng biến hóa theo thời đại.
Do vậy, trên thực tế, so với trước kia đã
thua kém rất nhiều. Tôi từng hỏi thầy, Lạt
Ma chuyển thế truyền thừa trong Mật Tông là thật
hay giả? Thầy bảo:
- Đại khái, ba đời
đầu tiên là thật, từ đời thứ tư trở
đi, không dám chắc! Tuy vậy, chớ nên khinh thường!
Sau khi đã chọn được linh đồng[5],
đứa trẻ ấy có duyên phận được những
vị thầy giỏi nhất kèm cặp; nếu nó dụng
công thật sự tu học, sẽ thành công.
Thật đấy! Người
khác chẳng gặp được duyên phận có các vị
Thượng Sư giỏi nhất chỉ dạy, Ngài nói
thật với tôi như thế. Lại hết thời
gian rồi! Ngày mai chúng ta lại nói tiếp từ câu “Niệm Phật pháp môn, đồng
ư Mật pháp” (pháp môn Niệm Phật cùng với Mật
pháp). Ngày hôm nay học tập tới chỗ này! (còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment