Kẻ xuất gia hôm nay, đồ mặc thức ăn đều
nhờ
tín thí, thuốc men giường chiếu cũng của đàn na. Người nhọc
sức
cày vẫn còn kém thiếu.
Ta ngồi không thọ hưởng sao nở an lòng? Kẻ dệt may gian khổ chẳng kể đêm hôm. Ta
y phục dư thừa, há
không mến tiếc?
Người nhà lá vách phên, trọn đời bận rộn.
Ta nền cao đền rộng thong thả quanh năm. Đem công cực nhọc để cung
cấp cho ta sự an nhàn, lòng nào vui được? Lấy tài lợi riêng để giúp cho
ta được no đủ, lý
có hợp không?
(Thật Hiền Đại sư
soạn)
Từng nghe: Cửa yếu vào đạo, phát tâm làm đầu. Việc
gấp tu hành, lập nguyện ở trước. Nguyện lập, tất chúng
sanh có thể độ. Tâm phát, thì Phật đạo mới kham thành. Nếu không phát tâm rộng lớn.
Lập
nguyện vững bề, thì trải kiếp số như vi trần, vẫn còn trong
vòng sanh tử. Dù
có tu hành siêng khổ,
chỉ luống
công khó nhọc mà thôi!
Kinh Hoa Nghiêm
nói: “Nếu quên mất tâm bồ-đề mà tu các pháp
lành đó là nghiệp ma”.
Quên mất còn như thế, huống là chưa
phát ư? Cho nên, muốn học
Như-Lai thừa, trước phát bồ-đề nguyện,
điều
này vẫn không thể lần lửa
vậy.
Nhưng sự sai biệt của tâm nguyện, tướng trạng có rất nhiều.
Nay xin vì đại chúng, mà ước lược tỏ bày. Phát tâm gồm tám tướng: là tà, chánh, chân, ngụy, đại, tiểu, thiên, viên. Tám tướng ấy
như
thế nào ?
1. Trong
đời có người tu chỉ một bề hành theo sự tướng, không xoay vào tham cứu chân tâm.
Hoặc theo việc bên ngoài, ưa thích hư
danh, mong cầu lợi dưỡng.
Hoặc đắm mê huyển
cảnh, tham dục lạc hiện tại, cầu phước
báo đời sau. Phát tâm như thế
gọi là Tà.
2. Bậc không cầu lợi dưỡng, cũng chẳng thích hư danh, vui hiện thế không màng, phước vị lai chẳng tưởng. Chỉ vì sống chết, mong cầu
đạo
Bồ-đề. Phát tâm như thế
gọi
là Chánh.
3. Niệm niệm trên cầu Phật đạo, tâm tâm dưới độ chúng sanh.
Nghe thành Phật lâu xa chẳng khiếp lui, thấy chúng
sanh khó độ không chán mỏi.
Như
leo cao muôn dặm, quyết trèo tận đỉnh. Như
lên tháp báu chín cấp, đến ngọn chót cùng.
Phát tâm như thế gọi là Chân.
4. Có tội không sám hối, có lỗi chẳng biết trừ. Trong trược mà ngoài
thanh, trước siêng nhưng sau trể. Tuy
có lòng tốt, song xen lẫn
với
lợi danh. Dù tu pháp lành, bị tội nghiệp làm ô nhiễm. Phát tâm
như thế gọi là Ngụy.
5. Chúng sanh độ
hết, bản nguyện mới cùng, Phật đạo tròn
nên, thề nguyền mới mãn. Phát tâm như thế gọi
là Đại.
6. Xem ba cõi như tù ngục, nhìn sống chết tợ oan gia. Chỉ
mong tự độ, không
muốn độ người. Phát tâm như thế
gọi là Tiểu.
7. Thấy ngoài tâm có chúng sanh mình phải
độ.
Hiểu
ngoài tâm có Phật đạo rồi
nguyện thành. Công
tu tập chẳng sạch quên, sự kiến giải không tiêu mất. Phát tâm như thế
gọi là Thiên (lệch).
8. Biết chúng sanh có tánh minh, nên nguyện
độ thoát. Rõ Phật đạo là tánh minh,
nên nguyện viên thành. Lìa ngoài nguồn tâm thể,
không thấy có pháp chi.
Rồi dùng tâm rỗng như hư không,
phát nguyện lớn như hư không,
tu hạnh rộng như hư
không. Kết cuộc chứng
quả vô-chứng đắc như hư không, cũng chẳng thấy có tướng Không. Phát tâm như thế gọi là Viên.
Tám cách phát tâm trên đã biết rành rẽ.
Nên tự xét kỷ, xem mình
phát tâm thuộc về cách nào? Nếu thấy Tà, Ngụy, Tiểu, Thiên phải lập tức sửa đổi. Như thuộc Chánh,
Chân, Viên, Đại nên bền chắc thêm lên.
Như thế mới gọi
là chân chánh phát tâm Bồ-đề.
Bồ-đề tâm này là vua trong các pháp lành, phải có nhân duyên mới phát khởi được.
Nhân duyên ấy
đại lược có mười thứ:
1. Vì nghĩ đến ơn Phật:
Đức Thích-Tôn khi mới phát tâm, vì độ chúng ta, tu Bồ-tát đạo,
trải
vô lượng kiếp chịu đủ sự khổ.
Lúc ta tạo
nghiệp, đức Phật xót thương, phương tiện giáo hóa mà ta ngu si
không chịu tin theo. Ta đọa ác đạo, Phật lại càng thương, muốn thay chịu khổ.
Nhưng ta nghiệp nặng không thể cứu vớt. Ta
sanh làm người, Phật dùng phương
tiện, khiến gieo căn lành, nhiều kiếp theo dõi,
lòng không tạm bỏ. Phật
mới ứng thế,
ta còn trầm luân, nay được thân người, Phật đã diệt độ. Tội chi mà không thấy kim thân?
May
gì mà được gặp Thánh tượng?
Rồi tự suy nghĩ:
Nếu
đời trước chẳng trồng căn lành thì làm sao
được nghe Phật Pháp? Không nghe chánh pháp, đâu biết mình
thường thọ Phật ân?
Ân đức này, bể thẳm khôn cùng, non cao khó
sánh! Nếu không phát tâm bồ-đề, tu hạnh Bồ-tát, giữ vững chánh pháp, cứu độ chúng sanh.
Thì dù nát thịt tan xương cũng không
đền đáp được! Đây là nhân duyên thứ nhứt.
2. Vì nhớ ơn cha mẹ:
Than ôi! Cha mẹ sanh ta ra khó nhọc.
Mười tháng mang thai nặng nhọc, ba năm bú sữa mớm cơm.
Khi được nên người, chi mong ta nối dõi tông đường, tự thừa tiên tổ. Ngờ đâu ta đã xuất gia, lạm xưng Thích tử, không dâng cơm nước, chẳng đở chân tay.
Cha mẹ còn,
ta không thể nuôi dưỡng thân già. Cha mẹ mất, ta chưa thể dắt dìu thần thức. Chừng hồi tưởng lại thì, nước trời
đà cách biệt từ dung, mồ biếc
chỉ hắt
hiu thu thảo. Như thế, với đời
là sự tổn lớn, với đạo lại không ích chi, hai đường
đã lỗi, khó tránh tội
khiên!
Nghĩ như thế rồi, làm sao chuộc lại?
Chỉ
có trăm kiếp nghìn đời, tu Bồ-tát hạnh, mười phương ba cõi độ khắp chúng sanh.
Được như vậy, chẳng những
cha mẹ một đời, mà cha mẹ nhiều
đời
đều nhờ độ thoát. Chẳng những cha mẹ một người, mà cha mẹ nhiều người, cũng được
siêu thăng. Đây là nhân duyên thứ
hai.
3. Vì tưởng ơn Sư
trưởng:
Cha mẹ tuy sanh dục sắc thân, nhưng nếu không có thầy thế gian, thì ta chẳng hiểu biết nghĩa nhân.
Không có thầy xuất thế, tất ta chẳng am tường Phật Pháp.
Không biết lễ
nghĩa, liêm sỉ, nào khác chi loài cầm thú? Không tường nhân quả Phật Pháp,
đâu
khác gì hàng ngu mông? Nay
ta biết chút ít lễ nghĩa,
hiểu
đôi phần Phật Pháp là nhờ đâu? Huống nữa, thân giới phẩm đã
nhuận
phần đức hạnh,
áo ca-sa thêm rạng vẻ phước điền, thực ra đều
do ân sư trưởng mà được.
Đã biết như thế, nếu ta cầu tiểu quả thì chỉ có thể lợi riêng cho mình. Nay phải phát
đại tâm, mới
mong độ các loài hàm thức. Như vậy, thầy thế gian mới dự hưởng phần lợi ích, mà xuất thế cũng thỏa mãn vui lòng. Đây
là nhân duyên thứ ba.
4. Vì
nghĩ ân thí chủ:
Kẻ xuất gia hôm nay, đồ mặc thức ăn đều
nhờ
tín thí, thuốc men giường chiếu cũng của đàn na. Người nhọc
sức
cày vẫn còn kém thiếu.
Ta ngồi không thọ hưởng sao nở an lòng? Kẻ dệt may gian khổ chẳng kể đêm hôm. Ta
y phục dư thừa, há
không mến tiếc?
Người nhà lá vách phên, trọn đời bận rộn.
Ta nền cao đền rộng thong thả quanh năm. Đem công cực nhọc để cung
cấp cho ta sự an nhàn, lòng nào vui được? Lấy tài lợi riêng để giúp cho
ta được no đủ, lý
có hợp không?
Thế nên tự nghĩ: Phải vận lòng bi trí, tu phước huệ trang nghiêm
để
đàn tín được phước duyên, chúng sanh nhờ lợi ích. Bằng
chẳng vậy
thì chút hạt cơm
tấc
vải đền đáp
có phần, thân nô dịch súc sanh, nợ nần phải trả.
Đây là nhân duyên thứ tư.
5. Vì biết
ơn chúng sanh:
Ta cùng chúng sanh từ vô thỉ đến nay, kiếp kiếp đời
đời
thay đổi làm quyến thuộc,
kia đây
đều có nghĩa với
nhau. Nay dù cách đời đổi thân, hôn mê không nhớ biết, song cứ lý suy
ra, chẳng thể không đền đáp.
Vậy loại
mang lông đội sừng ngày nay, biết
đâu
là con của nó trong kiếp trước?
Loài bướm ong trùng dế trong hiện tại, biết đâu là thân sinh tiền thế của
mình? Đến như tiếng rên xiết trong thành ngạ quỷ, giọng kêu la dưới cõi âm ty, ta tuy không thấy chẳng nghe,
họ vẫn van cầu cứu
vớt. Ngoài kinh ra, nơi đâu bày tỏ việc này? Không Phật nói, chẳng ai hiểu rành
điều
ấy, cho nên Bồ-tát xem ong kiến là
cha mẹ quá khứ, nhìn thú cầm là chư Phật vị
lai. Thương nẻo
khổ lâu dài, hằng
lo cứu vớt. Nhớ nghĩa xưa sâu nặng, thường
tưởng báo ân. Đây là nhân duyên thứ năm.
6. Vì tuởng khổ sanh tử:
Ta cùng chúng sanh nhiều kiếp đến
nay hằng trong vòng sanh tử, chưa từng
được thoát ly. Khi ở cõi này, lúc
thế giới khác, khi sanh lên thiên cảnh, lúc sống ở nhơn gian, siêu đọa phút giây, xuống lên muôn nẻo. Cửa quỉ sớm đi rồi chiều lại âm ty, nay thoát bổng mai vào.
Lên non đao rừng kiếm, thân thể đứt rời.
Nuốt sắt
nóng dầu sôi, ruột gan rã cháy.
Khóc than trong lửa, rên xiết
trong băng.
Muôn lần sống chết nội ngày đêm, giây phút khổ đau bằng thế kỷ. Lúc ấy dù biết tội khổ, nhưng ăn năn sao kịp! Khi ra
khỏi vội liền quên mất, vẫn tạo tội
như thường. Tâm không hằng lữ
khách ruổi rong. Thân chẳng định dường cửa nhà thay đổi. Cát bụi
cõi đại thiên không tính nổi
số thân luân chuyển. Nước đầy trong bốn
biển chẳng nhiều bằng giọt
lệ biệt ly. Nếu không lời Phật, việc này ai thấy ai nghe? Ví
chẳng xem kinh, lý ấy đâu hay đâu biết! Thẳng
hoặc luyến mê
như trước, chỉ
y cũ luân hồi.
Rồi
ra muôn kiếp nghìn
sanh, khó hối một lầm trăm lẫn. Giờ
tốt vội qua mà chẳng lại, thân người dễ mất nhưng khó tìm.
Âm cảnh mịt mờ, xót nỗi biệt ly dài dặc!
Tam đồ ác báo, thương cho thống khổ ai
thay ?
7. Vì
tôn trọng tánh linh:
Tâm tánh của ta cùng Thích-Ca
Như Lai không hai không
khác. Tại sao đức Thích Tôn đã thành chánh giác sáng suốt tự tại, mà ta vẫn còn phàm phu điên
đảo
hôn mê? Lại
đức Thế Tôn có đủ vô lượng thần thông trí tuệ, công đức trang nghiêm.
Còn chúng ta thì đầy vô lượng phiền não nghiệp
duyên, lụy trần ràng buộc ?
Tâm tánh tuy vẫn đồng một, vì mê ngộ nên cách vực trời. Ví như hạt bửu châu vô
giá vùi dưới bùn nhơ, người
xem thường đất
đá. Cho nên phải dùng vô lượng pháp
lành
đối
trị phiền não, để tánh đức hiển bày. Như bảo châu được rửa sạch lau khô, treo đề trên tràng cao liền phóng quang rực rỡ. Thế mới không uổng công Phật giáo hóa,
chẳng phụ tánh linh mình, xứng đáng bậc trượng phu. Đây là nhân
duyên thứ bảy.
8. Vì sám hối nghiệp chướng:
Kinh nói: “Phạm một giới nhỏ,
phải đọa vào địa ngục bằng tuổi
thọ Tứ Thiên Vương”. Lỗi nhỏ còn như thế, huống chi tội nặng ư?
Chúng ta mỗi ngày một cử một động thường sai giới luật, lúc ăn lúc uống hằng phạm thi-la (giới). Tính
kỹ trong một ngày cũng đã nhiều tội, huống chi trọn đời, cho đến vô lượng
kiếp
về
trước! Cứ lấy năm
giới mà xét thì mười người đã hết
chín phạm, ít phát lộ nhiều dấu che.
Năm
giới còn như thế, huống là
giới sa-di, tỳ kheo và Bồ-tát ư?
Nay ta phải phát lòng thương mình, thương người,
lệ rơi theo tiếng, thân khẩu thiết tha, cùng với chúng sanh,
cầu xin sám hối!
Chẳng thế thì ngàn đời muôn kiếp
các báo khó trừ, làm
sao thoát khổ? Đây là nhân duyên thứ tám.
9. Vì cầu sanh Tịnh-độ:
Ở cõi này tu tập việc tiến đạo khó khăn, về Cực Lạc hành trì sự thành Phật dễ thuận.
Vì dễ thuận nên một đời liền đắc quả.
Bởi khó khăn nên nhiều kiếp vẫn chưa thành. Cho nên Thánh trước Hiền sau người người xu hướng.
Ngàn kinh muôn luận, chỗ chỗ chỉ quy. Sự tu hành giữa thời mạt pháp thật
không chi hơn pháp môn Tịnh độ. Như kinh nói: Ít
căn lành khó được vãng sanh, nhiều phước đức mới về cõi Tịnh. Nhiều phước đức không gì bằng chấp trì danh hiệu.
Nhiều căn lành chẳng chi hơn phát
ý bồ-đề. Tạm trì danh hiệu thắng hơn bố thí
trăm năm. Một
phát đại tâm vượt quá tu hành nhiều kiếp. Bởi
niệm Phật vẫn mong thành Phật, đại tâm không
phát thì niệm Phật để làm chi?
Còn phát tâm vốn để tu
hành, Tịnh độ chẳng cầu dù phát cũng dễ thối
chuyển. Cho nên gieo hột giống bồ-đề, cày lưỡi cày niệm Phật, đạo quả tự nhiên tăng tiến. Nương chiếc thuyền đại nguyện, vào
biển màu Tịnh-độ.
Tây phương quyết định
sanh về. Đây là nhân duyên thứ chín.
10. Vì
hộ trì chánh pháp:
Đức Thế Tôn vô lượng kiếp đến nay
vì chúng ta mà tu đạo bồ-đề. Ngài
đã
làm việc khó làm, nhịn điều khó
nhịn, công tròn quả mãn, thành đấng Như Lai. Sau
khi thành Phật, duyên
giáo hóa đã xong liền vào Niết Bàn. Nay
chánh pháp đã qua, tượng pháp đã hết, chỉ còn mạt pháp, có kinh giáo mà không kẻ đắc
thành. Thời nay tà chánh chẳng phân, thị phi lẫn lộn, tranh
đua
nhơn ngã, đeo đuổi lợi danh, Tam bảo chẳng
còn thật nghĩa, suy tàn tồi tệ
không nở thốt lời, khi nghĩ
đến đây
khó cầm giọt lệ!
Ta là Phật tử không báo được
ân, trong không ích cho mình, ngoài không ích cho người, sống không ích dương thế, chết
không ích đời sau. Suy nghĩ như vậy đau lòng xót dạ, vội phát bồ-đề, nguyện nguyện độ sanh, tâm tâm cầu Phật, thề hết
báo thân sanh về Cực Lạc.
Những mong sau khi chứng quả trở lại Ta-bà khiến cho Phật nhật
rạng soi, pháp môn rộng
mở. Tăng hải đẹp thanh
nơi cõi trược, nhân
dân tu
đức ở phương Đông.
Kiếp vận nhờ đó mà tiêu trừ, chánh pháp do đây mà bền
vững. Đây là nhân duyên thứ mười.
Như trên tám cách đã thông, mười duyên
đã
biết, phát tâm có chỗ, xu hướng có nơi. Trông mong đại chúng đồng lập đại nguyện, đồng phát đại tâm. Nếu chưa phát thì nay phát,
đã phát nên tăng trưởng, đã tăng trưởng khiến
tương tục. Chớ thấy
khó mà thối khiếp, chớ thấy
dễ
mà khinh thường. Chớ
dục tốc
mà chẳng bền lâu.
Chớ biếng trể mà không tiến ích. Cũng đừng vì tối dốt mà một mặt vô tâm,
đừng vì trí cạn mà tự hiềm vô phận. Ví như trồng cây, trồng lâu thì rễ cạn lần sâu.
Lại như mài dao, mài bền thì lưỡi lụt
lần bén. Đâu nên vì rễ cạn mà bỏ khô không vun tưới, dao lụt mà để luống thành phế hư
!
Còn nếu cho tu hành là khổ, tất chưa biết biếng trể lại càng khổ
hơn! Tu hành tuy siêng nhọc
nhứt thời, nhưng an vui mãi mãi.
Biếng trễ chỉ tạm nhàn một kiếp, song khổ lụy đời đời.
Huống
chi dùng Tịnh Độ làm thuyền bè, đâu lo gì thối chuyển? Lại được Vô-sanh làm sức nhẫn, há còn sợ gian nan?
Chớ
bảo ý niệm vô
thường,
nguyện suông vô ích! Phải biết tâm chân thì sự thật, nguyện
rộng tất hạnh sâu.
Hư
không chẳng rộng lớn bằng nguyện tâm, kim cương
không cứng bền bằng nguyện
lực.
Đại chúng nếu
không chê bỏ lời này thì xin nguyện cùng làm quyến thuộc bồ-đề, bạn lành Tịnh-độ. Nguyện đồng sanh Cực-Lạc,
đồng
thấy Di-Đà, đồng hóa chúng sanh, đồng thành
chánh giác.
(Trích trong tập Mấy Điệu
Sen Thanh do Hòa-Thượng
Thích Thiền Tâm dịch)
0 Kommentare:
Post a Comment