Wednesday, January 08, 2014
Chùa Phật Huệ
"Nếu việc mình không thể làm, khi thấy người khác làm được mà sanh lòng
ganh ghét, đó là tâm hạnh của kẻ tiểu nhơn. Như thế, quyết định phải bị mất
phước tổn thọ, không được kết quả tốt, cần để ý răn chừa..."
Ấn Quang Ðại Sư
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Một bức thư phúc đáp khắp nơi
Lời văn tuy quê thuật, nhưng nghĩa
lý vẫn căn cứ trong kinh
Nếu có ai y theo đây mà làm, sự lợi ích sẽ
rộng lớn vô cùng!
Ấn Quang pháp sư
- 1
-
Pháp
môn Tịnh Độ trùm khắp cả ba căn, gồm thâu hàng lợi độn, là đại pháp của đức Như
Lai, để mở phương tiện cho tất cả thánh phàm đều được giải thoát sanh tử, lên ngôi Bất Thối
ngay trong hiện đời. Với pháp mầu nhiệm đặc biệt nầy mà không tin không tu,
thật là đáng thương, đáng tiếc!!
Pháp môn Tịnh Độ lấy tín, nguyện, hạnh làm tông chỉ.
Tín là ta phải tin cõi Ta Bà có vô lượng sự khổ; tin cõi Cực Lạc có vô
lượng điều vui; tin ta là phàm phu đầy nghiệp
lực, quyết không thể nương cậy vào sức mình để
dứt hoặc chứng chơn, thoát sanh tử ngay trong hiện đời; tin Phật A Di Đà
có lời thề nguyền rộng lớn, nếu chúng sanh nào niệm danh hiệu Ngài, cầu về nước
Ngài, khi mạng chung sẽ được Ngài tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.
Nguyện là ta
nên nguyện mau ra khỏi thế giới nầy, nguyện sớm sanh
về cõi vui kia.
Hạnh là ta
phải chí thành khẩn thiết niệm câu Nam Mô A Di Đà
Phật, mỗi thời mỗi khắc đừng để tạm quên, tùy theo hoàn cảnh gấp hoãn lập một
khóa trình, sớm tối lễ bái trì tụng trước bàn Phật. Ngoài thời khóa
tụng, những khi đi, đứng, nằm, ngồi và làm những công việc không dụng tâm, đều
nên niệm Phật. Lúc ngủ nghỉ phải niệm thầm, không nên ra tiếng và chỉ niệm bốn
chữ A Di Đà Phật để dễ nhiếp tâm. Lại, những khi y phục không chỉnh tề, hoặc
giặt rửa, tắm gội, đại tiểu tiện, cho đến lúc đi ngang qua chỗ không sạch sẽ,
cũng đều phải niệm thầm. Chí tâm niệm thầm, công đức cũng đồng như niệm ra
tiếng. Trong những lúc ấy nếu niệm ra tiếng thì chẳng hợp nghi thức và có lỗi
không cung kính. Không luận niệm lớn tiếng, nhỏ tiếng, niệm Kim Cang hoặc niệm
thầm, đều phải trong tâm ghi nhớ rành rẽ rõ ràng, miệng niệm rành rẽ rõ ràng và
hai tai nghe rành rẽ rõ ràng. Niệm như thế thì tâm không còn dong ruổi theo
cảnh ngoài, vọng tưởng lần dứt, câu niệm Phật lần thuần, công đức rất lớn.
- 2 -
Người niệm Phật phải hiếu dưỡng cha mẹ, phụng thờ sư
trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành (Thân không sát
sanh, trộm cướp, tà dâm; miệng không nói dối, nói thêu dệt, nói đôi chiều, nói
hung ác; ý không tham dục, giận hờn, ngu si, tà kiến). Lại cần phải: cha lành, con thảo, anh em thương kính, chồng vợ thuận hòa,
chủ nhân, tớ trung, mỗi người đều giữ tròn bổn phận. Ta chỉ nên làm hết nhiệm vụ mình, đừng so đo phiền
trách người khác đối với mình có trọn cùng không. Nếu người nào đối với gia đình xã hội làm tròn thiên chức, đó là
người lành. Người lành mà niệm Phật thì dễ có
cơ cảm, quyết định khi lâm chung được Phật tiếp dẫn sanh về Tây Phương vì tâm
hạnh hợp với Phật. Trái lại, những ai miệng tuy
niệm Phật, song lòng không nhiễm đạo, đối với cha mẹ, anh em, vợ chồng, con
cái, bạn bè làng xóm không tròn bổn phận thì tâm hạnh trái với Phật, khó được
vãng sanh. Tại sao thế? Bởi người ấy tâm không điềm tịnh thuần hòa, tự
sanh ra mối não phiền chướng ngại, nên khó được cảm thông với Phật, đó cũng là
lẽ tất nhiên.
- 3 -
Người
niệm Phật nên khuyên thân bằng quyến thuộc và tất cả đồng nhân đều niệm Nam Mô
A Di Đà Phật và Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. (Mỗi ngày như niệm Phật 1.000 câu
thì niệm Quán Âm 500 câu, niệm Phật 10.000 câu thì niệm Quán Âm 5.000 câu. Niệm
nhiều ít so theo đây mà gia giảm). Ta đã tìm được con đường giải thoát yên ổn,
lại nỡ nào để cho đấng sanh thành, người quyến thuộc cùng tất cả đồng nhân mất
sự lợi ích lớn, chìm trong biển khổ ư? Huống chi giữa cõi đời nhiều hoạn nạn,
khó tránh sự hiểm nguy như hiện nay, nếu có thể thường niệm Phật và Quán Âm,
tất sẽ được lượng từ bi ủng hộ, gặp dữ hóa lành. Giả sử không tai nạn mà chí tâm trì
niệm, cũng sẽ được nghiệp tiêu trí sáng, chướng hết phước nhiều. Hơn nữa, khuyên người niệm Phật cầu sanh Tây Phương, tức là
thành tựu kẻ phàm phu làm Phật, công đức rất lớn, đem công đức ấy hồi hướng
vãng sanh tất sẽ mãn nguyện.
- 4 -
Người niệm
Phật khi tụng kinh, trì chú, lễ bái, sám hối, cứu tai nạn, giúp kẻ nghèo, tất
cả công đức lành đều phải hồi hướng vãng sanh Tây Phương, không nên cầu hưởng phước báo ở cõi trời, cõi
người, trong hiện tại hoặc đời sau. Nếu có tâm niệm ấy thì mất phần vãng sanh
và phải bị chìm đắm trong biển luân hồi khổ não. Nên biết, hưởng phước càng nhiều tất gây nghiệp càng lớn,
qua một đời sau nữa quyết khó khỏi đọa vào đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
Chừng ấy muốn trở lại làm thân người, được nghe pháp hiện đời giải thoát của
môn Tịnh Độ, còn khó hơn lên trời. Phật dạy
chúng sanh niệm Phật cầu về Tây Phương, là vì chúng sanh mà giải quyết vấn đề
sanh tử ngay trong hiện kiếp. Nếu chỉ cầu đời sau hưởng phước báo ở cõi nhân
thiên tức là trái với lời Phật dạy, như đem hạt bảo châu vô giá đổi lấy
một thẻ đường để ăn, há chẳng đáng tiếc lắm ư? Kẻ tối tăm niệm Phật không cầu
vãng sanh mà cầu hưởng phước báo, cũng như đây không khác.
- 5 -
Người niệm
Phật không nên tập theo lối tham cứu của nhà
tu Thiền. Vì kẻ tu Thiền hầu hết đều không chú trọng về việc tín nguyện vãng
sanh. Dù có niệm Phật, họ chỉ chú trọng vào câu 'Niệm Phật đó là ai?' để
cầu khai ngộ mà thôi. Ta chỉ nên niệm Phật cầu
sanh Tây Phương, khi được thấy đức A Di Đà lo gì không khai ngộ? Nếu ở
cõi này tu Thiền, như hoặc nghiệp dứt hết thì có thể thoát sanh tử; thảng như
hoặc nghiệp chưa dứt thì đã không thể cậy vào sức mình để giải thoát, lại vì
không tín nguyện nên không được nương nhờ sức Phật ra khỏi luân hồi. Hai bên tự
lực và Phật lực đều không nhờ cậy được, người ấy đâu thể nào thoát khỏi trần
lao? Nên biết bậc pháp thân Bồ Tát khi chưa
thành Phật đều phải nhờ oai lực của Phật, huống chi ta là phàm phu đầy nghiệp
chướng mà ưa luận về sức mình, không cầu sức Phật ư? Lời ấy tuy cao, song xét lại hành vi thật là thấp kém! Sự
hơn kém của Phật lực và tự lực khác xa nhau như trời vực, nguyện đồng nhân nên
thể tất nghĩa nầy!
- 6 -
Người niệm
Phật không nên bắt chước kẻ ngu tối, làm những việc hoàn thọ sanh, gởi kho. Bởi
sự hoàn thọ sanh trong Kinh Phật không có nói, do người sau bày đặt ra. Còn gởi kho là muốn cho mình khi chết rồi thành quỷ, nên mới
sắm trước tiền của đồ vật cho thân quỷ dùng. Đã có tâm niệm muốn làm quỷ thì
khó được vãng sanh. Như người nào chưa làm thì thôi, nếu đã làm, phải
bạch rõ trước bàn Phật như vầy: 'Đệ tử là... chỉ cầu vãng sanh, những đồ minh
khố đã gởi khi trước, xin đem chẩn tế cho cô hồn.' Như thế mới không chướng
ngại cho sự sanh về cõi Phật.
Lại những
thứ kinh: Thọ Sanh, Huyết Bồn, Thái Dương, Thái Âm, Nhãn Quang, Táo Vương, Thai
Cốt, Phân Châu, Diệu Sa... đều là kinh ngụy tạo, không phải kinh của Phật nói,
không nên trì tụng. Những kẻ quê tối, không chịu tụng Kinh Đại Thừa (như các
kinh: A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Quán Vô Lượng Thọ, Tâm Kinh, Kim Cang, Pháp Hoa,
Dược Sư, Lăng Nghiêm, Hoa Nghiêm, Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm v.v...) mà chỉ tin
các thứ kinh ngụy tạo ấy, muốn làm những việc hoàn thọ sanh, phá địa ngục, phá
huyết hồ, mới yên tâm. Nếu có người hiểu Phật Pháp khuyên bảo nói đó là những
kinh ngụy tạo, họ cũng không nghe lời. Nên biết, làm các Phật sự, chỉ có niệm
Phật là công đức rộng lớn, nên đem số tiền hoàn thọ sanh, phá địa ngục, phá
huyết hồ ấy, thỉnh những vị tăng chơn chánh niệm Phật cho thì được lợi ích rất
nhiều.
Người niệm Phật nên ăn chay trường, như chưa được thế, thì giữ lục
trai hoặc thập trai, để lần lần bỏ hẳn các thứ thịt của chúng sanh, mới là hợp
lý. Lục
trai là các ngày: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30; nếu thêm vào đó mấy ngày: mùng 1,
18, 24, 28 thì thành ngày thập trai. Những tháng thiếu, nên ăn trước một ngày.
Lại, tháng giêng, tháng năm, tháng chín là ba trai nguyệt, nên ăn chay trường
và làm các việc công đức. Dù chưa ăn chay được,
cũng nên mua thịt cá đã làm sẵn, chớ sát sanh trong nhà. Nếu mỗi ngày
sát sanh thì cái nhà ấy đã thành lò sát sanh, là chỗ oan quỷ tụ hội, không được
an lành. Cho nên sát sanh trong nhà là điều rất cấm kỵ.
- 8 -
Người niệm
Phật nên khuyên cha mẹ niệm Phật cầu sanh Tây Phương. Muốn cho cha mẹ khi lâm
chung quyết định được vãng sanh thì phải dặn trước người quyến thuộc về cách
trợ niệm và chớ nên khóc lóc cùng bày vẽ những
điều vô ích. Lại, lúc bình thời phải vì cha mẹ giảng rõ sự lợi ích của môn niệm
Phật khiến cho song thân thường niệm không quên. Thế thì chẳng những cha
mẹ được lợi ích, mà quyến thuộc hiện tại hoặc con cháu đời sau cũng được ảnh
hưởng giải thoát an lành. Về phương pháp trợ niệm khi lâm chung, không luận già
trẻ, đều phải làm đúng như thế.
- 9 -
Người nữ khi
sắp sanh thường bị đau khổ không kham, có khi vài ngày sanh không được, hoặc
chết vì sản nạn. Có người tuy sanh được nhưng lại bị
huyết băng và nhiều bệnh nguy hiểm. Đứa con sanh ra thì bị các chứng cấp nạn,
kinh phong v.v... Cho nên, người nữ lúc sanh sản, nên chí thành khẩn thiết niệm
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Khi niệm cần phải to tiếng, không nên niệm
thầm, vì niệm thầm do tâm lực kém nên sức cảm ứng cũng kém. Lại trong lúc ấy
sản phụ đang dùng sức sanh đứa bé ra, nếu niệm thầm thì nín ép hơi phải mang
bệnh. Nếu chí thành khẩn thiết mà niệm, quyết không có sự đau đớn, khó sanh,
huyết băng, đứa con sẽ khỏi bệnh kinh phong, và các chứng nguy hiểm khác. Dù
gặp trường hợp khó sanh, có nguy hiểm đến tánh mạng, sản phụ cùng những kẻ hộ
sanh cũng phải đồng to tiếng niệm Quán Âm. Người quyến thuộc tuy ở nơi khác đều
phải vì sản phụ niệm giúp. Như thế, không đầy giây phút, sản phụ liền được yên
ổn mà sanh. Kẻ ngoại đạo không rõ lý nầy, chấp chặt một việc cung kính, chẳng
biết căn cứ theo sự mà luận lý, khiến cho mấy bà lão niệm Phật xem sanh sản là
việc đáng sợ, cho đến dâu con của mình sanh cũng không dám qua săn sóc, huống
chi là niệm Quán Âm? Nên biết Bồ Tát lấy sự cứu khổ làm lòng, lúc sanh sản, tuy
lõa lồ không sạch, nhưng đó là việc dĩ nhiên, không phải mình tự ý buông lung,
nên niệm đã không có tội lỗi, mà lại khiến cho mẹ con sản phụ gieo trồng căn
lành. Nghĩa nầy trong Kinh Dược Sư đã có nói, không phải tự tôi đưa ra điều ức
kiến. Ấn Quang nầy chỉ là người đề xướng mà thôi.
- 10 -
Người nữ từ
mười hai, mười ba tuổi đến bốn mươi tám, bốn mươi chín tuổi đều có nguyệt kinh. Có kẻ bảo: trong lúc nguyệt kinh, chẳng nên lễ bái trì
tụng. Lời này rất không hợp tình lý. Thời kỳ có kinh, mau thì hai ba ngày, lâu
đến sáu bảy ngày mới dứt; người tu trì cần phải niệm Phật không xen hở, đâu nên
vì một chút bệnh nhỏ thiên nhiên mà bỏ lãng thời tu niệm ư? Khi có nguyệt kinh chỉ nên lễ bái ít (lễ bái ít chớ
chẳng phải tuyệt nhiên không lạy), còn sự tụng kinh, niệm Phật đều chiếu theo
lệ thường. Nên thường thay giặt vải dơ, phải rửa tay cho sạch sẽ, đừng dùng tay dơ mà lần chuỗi, lật kinh và đốt
hương. Trong Phật Pháp, pháp pháp đều viên thông, hàng ngoại đạo chỉ
chấp một bên lý, người đời phần nhiều lại ưa tin lời ngoại đạo, không rõ chánh
lý Phật giáo, nên không được thấm nhuần pháp lợi.
- 11 -
Quán Thế Âm
Bồ Tát thệ nguyện rộng sâu, tìm tiếng cứu khổ. Khi gặp những tai nạn: đao binh,
nước lửa, đói kém, cào cào, ôn dịch, khô hạn, cướp bóc, oan gia, thú dữ, rắn
độc, ác quỷ, yêu mị, nghiệp binh, kẻ tiểu nhơn hãm hại v.v... nếu phát tâm sửa lỗi làm lành, lợi mình lợi người, chí thành khẩn thiết
niệm Quán Thế Âm không xen hở thì quyết định sẽ được nhờ sức từ bi ủng hộ tránh
khỏi tai nguy. Nếu vẫn còn giữ lòng bất thiện, dù có xưng niệm, chẳng qua là
gieo chút căn lành về sau, không được sự cảm ứng hiện tại, vì chư Phật, Bồ Tát
thành tựu niệm lành cho người, tuyệt không thành tựu niệm ác cho người. Như
không phát tâm sửa lỗi làm lành, lầm lạc muốn đem công đức niệm Phật, Bồ Tát,
để cầu cho việc ác của mình thành tựu thì quyết không được cảm ứng. Rất không
nên phát tâm điên đảo ấy.
Đã niệm
Phật, cần phải giữ trọn nhơn luân, gìn lòng thành
kính, dứt các điều dữ, làm các việc lành, giữ lòng tốt, nói lời tốt, làm việc
tốt. Việc nào mình làm được thì thiết thật mà làm, như không làm được cũng nên
phát lòng lành ấy, hoặc khuyên người có thế lực làm, hoặc thấy người làm sanh
tâm vui đẹp. Thốt lời khen ngợi việc lành cũng thuộc về công đức của tâm và
miệng. Nếu việc mình không thể làm, khi thấy người khác làm được mà sanh lòng
ganh ghét, đó là tâm hạnh của kẻ tiểu nhơn. Như thế, quyết định phải bị mất
phước tổn thọ, không được kết quả tốt, cần để ý răn chừa. Rất không nên giả mặt hiền lương để mua danh chuốc lợi,
tâm hạnh ấy quỷ thần đều ghét, có thì mau cải, không thì nên cố gắng làm
lành.
- 12 -
Có nhiều người nữ vì không rõ chánh lý, hoặc bất hiếu với cha mẹ
chồng, khi dễ chồng, quá cưng yêu chiều chuộng con, ngược đãi tôi tớ, hoặc là
mẹ ghẻ hiếp đáp, hành hạ con riêng của chồng. Những người ấy đâu biết rằng: hiếu thảo với cha mẹ chồng, kính trọng chồng, dạy dỗ
con cái, ra ân huệ cùng hàng tôi tớ, an ủi nuôi dạy con riêng của chồng, chính
là đạo thánh hiền ở thế gian mà cũng là phép
tắc đầu tiên của đạo Phật. Nếu có đủ công đức
ấy mà tu Tịnh Độ thì quyết định danh dự thêm nhiều, phước thọ bền vững, khi
mạng chung được Phật tiếp dẫn về chín phẩm sen. Nên biết đã có nhân phải có
quả, nếu ta gieo nhân hiếu kỉnh, từ ái, tự nhiên sẽ được quả hiếu kỉnh từ ái. Vì người tức là vì mình, hại người còn quá hơn hại
mình, cho nên mỗi người đều phải làm tròn bổn phận, Phật trời tất sẽ chứng tri.
- 13 -
Trẻ con khi vừa khôn lớn, phải dạy cho chúng biết đạo lý
hiếu, đễ, trung, tín, lễ, nghĩa, liêm, sỉ và việc ba đời nhân quả, sáu nẻo luân
hồi. Như thế là làm cho chúng hiểu tâm của mình
cùng tâm chư Phật, Bồ Tát, trời đất, quỷ thần, mỗi hơi thở thông nhau. Nếu khởi một niệm bất chánh, làm một việc không phải thì
các vị ấy thảy đều biết, như đối trước
gương sáng, hình ảnh tốt xấu hiện ra rõ ràng, không che giấu được. Đã hiểu như
thế, tất nhiên chúng sẽ sợ hãi, gắng sức làm lành. Chẳng luận người nào, dù là
con cái tôi tớ trong nhà cũng không nên đánh đập mắng chửi thô tháo.
Phải tìm cách khuyến hóa, khiến cho chúng biết phụng
thờ bậc trên, nhường thuận kẻ dưới, kính trọng giấy chữ, chẳng xài phá
cơm gạo, quần áo, của tiền, yêu tiếc sanh mạng loài
trùng kiến, không ăn vặt vãnh để khỏi mang bệnh. Nếu dạy được như thế,
thì một ngày kia quyết định chúng sẽ thành người lương thiện. Trái lại lúc con
cháu còn thơ ấu, cha mẹ chẳng chịu dạy dỗ, để mặc cho chúng buông lung, khi lớn
lên nếu chúng nó không là kẻ dung ngu, cũng là hàng phỉ loại. Chừng ấy dù có ăn
năn cũng vô ích. Lời xưa nói: 'Giáo phụ sơ lai, giáo tử anh hài' (Dạy con dạy
thuở còn thơ, dạy vợ dạy lúc ban sơ mới về),
tánh tình phần lớn là do ảnh hưởng của tập quán, cho nên phải cẩn thận từ bước
đầu tiên. Cá nhân là phần tử của xã hội, trong thiên hạ bình yên hay
loạn lạc, cội nguồn đều do sự hiền lương hoặc bạo ác của con người. Vậy những
điều trên đây quan hệ, thiết yếu, không phải tôi bàn luận chuyện vô ích, xa
vời...
- 14 -
Ấn Quang tôi
năm nay đã quá già yếu, tinh thần mỗi ngày thêm suy kém, không còn đủ sức để
phúc đáp những bức thơ gởi đến. Chỉ vì sự lưu thông thuận tiện, nên xa gần lầm
nghe chút hư danh, gởi thơ hỏi đạo quá nhiều. Nếu tôi không đáp, vẫn tự hơi có
phụ ý người gởi; như mỗi mỗi đều phúc đáp, thật ra cũng không đủ tinh thần. Vì
thế, tôi cho in bức thơ dài nầy để phúc đáp cùng khắp. Trong đây, những điều
quan hệ về sự tu trì, cách lập thân xử thế, đạo thờ cha mẹ, dạy con cái, tôi
đều nói lược qua. Về sau, ai đưa tin đến hỏi
đạo, tôi đều dùng thơ nầy phúc đáp, hoặc có vài điều đặc biệt, cũng chỉ
nên thêm đôi hàng nơi bức thơ gởi đến mà thôi. Như thế, để cho đạo niệm đôi bên
được thông nhau, mà tôi cũng đỡ bớt sự nhọc mệt. Nếu vị nào muốn hiểu suốt kinh
nghĩa, xin thưa hỏi nơi các bậc Pháp Sư dựng cao tràng pháp, Tông Giáo kiêm
thông. Nhưng nên biết, dù thông suốt kinh pháp, cũng
chưa chắc được thoát sanh tử.
Muốn thoát
sanh tử luân hồi, phải chú trọng nơi sự tín nguyện niệm Phật cầu sanh Tây
Phương!
HẾT
0 Kommentare:
Post a Comment