"Cho nên mình nghe tiếng chửi,
tiếng mắng, tiếng thị phi của người đó thì mình tự nói trong tâm như vầy: “Chính
người này không phải thị phi nói xấu, nhưng vì tâm lượng từ bi của mình ít quá,
thành ra mình không hóa giải nổi cái này, thì ra mình còn phải tu nhiều nữa”..."
Tác giả: Thích Tịnh Từ
Xử lý vi tính: Diệu Danh
Ngược lại trong gia
đình mình mà có nghiệp lành, nghiệp tốt, vấn đề dâu, vấn đề rể nhiều khi mình
không chọn nhưng mà những cái nghiệp lành từ trong quá khứ nó tìm tới nó làm
dâu, làm con, làm rể chuyện đó không phải chọn theo cặp mắt thường tình mà
được, nhưng mà thông thường chúng ta khi đi chọn dâu, chọn con, chọn rể chỉ
nhìn bề ngoài mà thôi: nào là có công ăn việc làm, nào là có bằng cấp, nào là
mặt mũi sạch sẽ, nào là phải có lễ, có nghi v.v…chỉ nhìn được hình thức bề
ngoài mà thôi, còn cái hình thức nghiệp thiện hay nghiệp ác để mà đến với mình
thì không thể thấy được.
Trong khi đó hóa thân của Đức Di Lặc hay đến nhà ông Tưởng Tôn Bá (Ma Ha
cư sĩ)
Ông Ma Ha cư sĩ nói rằng: “vả chăng giàu sang như lùm mây nổi, như giấc
chiêm bao có cái gì lâu bền chắc chắn đâu nên tôi nguyện cho con cháu tôi đời
đời được miên viễn mà thôi. (miên viễn là có đạo hạnh, là có phúc đức)” Ngài
bèn lấy túi thọc tay vào móc ra, lấy một cái túi nhỏ, một cái hộp và một sợi
dây liền cho ông Ma Ha cư sĩ mà nói rằng: “ta cho ngươi vật này và ta sẽ từ
biệt, xong căn dặn người phải giữ gìn vật đó cho kỹ càng, đó là điều kín những
việc hậu vận của nhà ngươi”. Ông Ma Ha cư sĩ vâng lời lãnh lấy món ấy chẳng rõ
được ý gì. Cách vài bữa sau Ngài trở lại nhà ông mà nói rằng: “ngươi có hiểu
được ý ta không?”. Ông thưa: “thưa Ngài, đệ tử chẳng rõ”. Ngài nói rằng: “đó là
ta cho cái vật muốn cho con cháu nhà người sau này có đạo hạnh và đầy đủ phúc
đức”, nói xong rồi Ngài bèn đi. Và quả tình ông cư sĩ này ông đã dạy con dạy
cháu không những giàu sang phú quí mà còn có một đời sống đạo đức rất là cao và
một số con cháu ông sau này xuất gia làm tu sĩ .
Quí vị chịu khó về đọc cái này nói rất là nhiều, Thầy chỉ nói một vài
điểm mà thôi. Không những Ngài giáo hóa ở những người bình dân, người nghèo mà
Ngài giáo hóa luôn cả Vua.
Có một hóa thân khác rất là lý thú, có thể nghe một chút. Hồi đời Lục
Triều thì Đức Di Lặc lại ứng Tích Đại Sĩ ở chùa Song Lâm một thời kỳ nữa, khi
Ngài ra mặt vua Lương Võ Đế, vua liền hỏi Ngài
rằng xin đại sĩ cắt nghĩa cho quả nhân nghe làm sao được gọi là đạo? Ngài liền
bạch rằng: “tâm thiện là đạo, tôi xin chứng nghiệm như vầy, xin bệ hạ lắng
nghe, như khi bệ hạ chưa lên tại điện này thì trong tâm lúc ban đầu chưa khởi
niệm, bổn trí vẫn tự nhiên mà được diệu tịnh quang huy bác, sáng suốt hiện buổi
nay rực rỡ đến thuở trước và đầy lấp tất cả thái hư. Khi tịnh quang ấy muôn đời
không sinh vĩnh kiếp không diệt, chẳng phải thánh chẳng phải phàm không thúc phược
mà cũng không giải thoát đó là tâm thể rất màu nhiệm và rất vắng lặng Ngài
không có tâm nào phân biệt nữa vì thế cho nên mới gọi là tâm đạo. Vua Lương Võ
Đế hỏi rằng: “vậy chớ Đại Sĩ tôn ai làm thầy không?” Nói: “Thầy thì không có ai
làm thầy của bần đạo, còn tôn thì bần đạo cũng không tôn ai hết đến việc tùng
sự thì cũng không tùng sự với người nào cả. Vua Lương Võ Đế nghe Ngài nói như vậy
biết đây là một vị Bồ Tát lâm phàm nên càng tôn quí Ngài một cách đặc biệt.
Đoạn nói rồi Ngài thưa rằng: “Bệ Hạ ngày nay đặng phước tôn vinh như vậy nguyên
nhân cũng là một vị Bồ Tát giáng thế cứu quần sanh, vậy xin Bệ Hạ phải mở thông
lý địa nên tự lượng nơi mình tâm để cho thanh tịnh đừng trước nhiễm vật gì lấy
đó làm căn bản, rồi cần nhất là phải làm chỗ hư linh cơ sở cầu cho đạt được
Niết Bàn diệu quả. Nếu Bệ Hạ thi thố những phương pháp trị quốc thì phải dùng
chánh pháp mà sửa trị thế gian và thi hành những điều nhân đức đặng cho lê dân
cảm hóa, trong triều thì trọng dụng những người hiền tài mà trừ khử mấy kẻ cưu
lòng gian nịnh. Còn ngoài thì lấy nhân chính để hướng dẫn những kẻ cô độc, bỏ
hình phạt trừng trị nặng nề và ban lệnh, chánh lịnh cho nghiêm mật để mà giữ
dân trị nước. Nếu Bệ Hạ trị vì trong thiên hạ và thi nhân bố đức được như thế
thì kẻ xa người gần đều thuần gội ân đức vô cùng tận, chừng đó việc can quan
phải dứt mà trong đội ngũ lại ninh bình thì ngôi trời được hùng tráng, am hiểu
như thế thì Bệ Hạ thiên cơ đã thành diệu lại còn nối ngôi Phúc Tổ được lâu dài,
đó là bần đạo hy vọng Bệ Hạ nên làm như thế, và Vua Lương Võ Đế đã xây chùa, đã
nuôi tăng độ chúng mà ông làm rất nhiều việc mà chính là một trong hóa thân của
Ngài Di Lặc đã giáo hóa cho ông.
Nhưng mà ở trong truyện, nhất là quí vị đã đọc kinh Lương Hoàng Sám cũng
có nói vua Lương Võ Đế thì rất là hiền đức và có duyên với hóa thân đức Di Lặc,
nhưng mà bà vợ không có duyên, nghĩa là vua làm lành bao nhiêu, tu tập bao
nhiêu, làm việc Phật sự bao nhiêu thì bà chống đối, bà buồn rầu, bà gây gỗ.
Không có duyên! Sau khi bà chết bà làm con mãng xà, rồi sau đó hòa thượng Chí
Công là một người đắc đạo trong đương thời mới bàn với Lương Võ Đế lập đàn
tràng để giải oan, rồi sau đó con rắn mà thường vô trong cung nó mới giải thoát
được. Sau đó Vua cảm nghe được rằng bà đã được giải thoát theo cái phương pháp
thiền định. Cho nên cái người mà làm Vua uy quyền như thế mà tu tâm dưỡng tánh
rất là sâu sắc gần gũi với chư tăng như thế mà bà vợ bà ấy chống đối. Và vua
ngày xưa quyền lắm, vua nói đầu rơi là phải rơi, vua bảo sống là sống, vua bảo
chết là chết mà bà vợ bà chống lại đến nỗi vua phải nhường bà nhưng mà đến khi
nghiệp quả bà đến thì bà cũng chết làm con rắn, nghiệp quả là như vậy.
Nhân đây nói về Ngài Di Lặc Bồ Tát nhưng mà có liên quan chúng ta cũng
biết được cái nhân quả nó rất là thâm diệu, mình không thể coi thường nhân quả,
cho nên mình sinh ra đời mà cái nào mình tu chưa giải được hay là cái nào mình
ăn ở hiền lành mà người ta đối xử mình không có đàng hoàng thì chớ vội trách,
mà nghiệp quả phải trả cho nên phải nhẫn nại đừng có hấp tấp để mà đưa ra tòa
án pháp luật rồi kiếp này không trả xong oan nghiệp kéo thêm, kiếp sau tiếp tục
trả, bởi vì bà Lương Võ Đế trước kia bà là một con giống con dế ở trong chùa, ở
trong một cái chậu như sư bà Đức Viên trồng ngoài đó, khuya khoảng 4 giờ thì nó
kêu reng reng như đánh chuông, mọi người ngồi dậy để ngồi thiền tụng kinh,
nhưng có một bữa thầy lớn đi nên mấy chú ở nhà nghe con dế nó reo như vậy cho
nên bực. Ở chùa nhiều khi làm biếng lắm, thèm ngủ lắm! Thành ra có một cậu làm
thủ chúng nghe con dế nó kêu hoài bởi vì không ai chịu dậy tụng kinh hết thành
ra ông giận quá, ông ra cầm cái dao, dao mà để cắt bông, ông ra nghe cái chỗ có
tiếng kêu, ông xăm xăm làm sao mà đứt cái lưng nó chết. Sau Hòa Thượng về
không nghe con dế nó kêu nữa nên ra tìm moi lên thì thấy con dế bị đứt lưng,
Ngài mới lấy vải điều bọc nó lại đem chôn và Ngài nói với tăng chúng rằng: “đây
là một vong thức rất là lớn, bởi vì kiếp trước cũng đã từng là thầy tu, sau khi
bị đọa bây giờ làm con dế để nghe kinh nữa thế mà không may bị chết sớm, nhưng
mà nhờ ở trong chùa cũng nghe kinh, được cái công đức là lắc chuông buổi khuya
cho chúng đi, thế mà về sau đầu thai làm người con gái rất đẹp và cuối cùng là
vợ của vua Lương Võ Đế. Thế mà cái oan nghiệt ngày trước bị một vị tăng đâm ở
trên lưng mà thù đến cả Phật giáo, thù luôn đến cả chư tăng, cho nên thấy Chư Tăng
là bà không thèm ngó, thấy là bà ghét lắm, thù lắm, bởi vì con dế còn nhỏ thấy
người ta giết như vậy nó không biết ai giết nó, cứ nghĩ là mấy ông thầy chùa
giết mà thôi; thành ra từ đó người nào đội mũ, mang áo thầy chùa là bà giận
rồi, bà không ăn, bà không uống, bà chống đối dữ lắm, cuối cùng vua cũng nể bà
quá cho nên phải nhìn nhượng bà bớt, sau đến cái nghiệp bà chết.
Khi quí vị đọc kinh Lương Hoàng
Sám sẽ biết rằng tội phước rất rõ ràng, rất là phân minh và ở đời mình làm nhân
gì thì mình gặp quả nấy. Tu thì có quả lành, đi nghe pháp thì thay đổi được tâm
tính, uống rượu cờ bạc thì không những thua tiền, mà tâm trí còn lộn xộn và tài
sản sẽ mất mát, tan gia bại sản. Cái nhân quả nó rõ như vậy không có gì phải
phân vân hết. Bởi vậy mình học Phật nghe pháp là một chuyện rất cần thiết, rất
là quí hóa.
Câu chuyện đây còn dài lắm quí vị nên về đọc nó hay lắm, hấp dẫn lắm bởi
vì lâu này Thầy cũng đọc rất nhiều tài liệu nhưng mà chưa có tài liệu ghi lại
đầy đủ về sự tích Đức Di Đà, Đức Di Lặc và các vị Bồ Tát rõ như cuốn này, nên
đọc cho kỹ để chiêm nghiệm.
Chúng ta trở lại để đến với quí vị về nụ cười của Đức Di Lặc. Cái bụng
của Ngài lớn lắm, tượng trưng cho cái lòng thương rộng lớn thì ví như là nước,
nước thì nó có thể ở trong ly, ở trong tô, ở trong ao, ở trong hồ, ở trong
sông, ở trong giếng, ở trong biển. Khi cái ly ở trong nước thì nhỏ quá, nếu
mình bỏ chất dơ đen vô thì ly nước đen thui, nhưng ví dụ như nước ở trong hồ
như vậy nếu mình ném một viên đá, hoặc ném một cục bùn xuống thì hồ đó cáu bẩn
hết, nhưng mà trong khi đó mà nước ở trong cái sông lớn ném cục bùn xuống không
đủ thiếu gì hết, lượng nước lớn quá đi, nước biển xanh ngắt, bao nhiêu vật dơ
cấu ở trên các nẻo đường đều trút về biển, nhưng khi về biển lại thì nó chuyển
hóa thành trong xanh, không có cáu đọng. Tại vì sao? Vì cái lượng nước nó lớn
quá đi, cho nên cái chất gì dơ bẩn bao nhiêu vào một cái thì nó hóa giải đi
hết.
Thì thưa quí vị cũng như vậy, cái
tâm lượng từ bi của mình lớn thì cái thù nào, cái oán nào, cái oan gia nào, cái
xấu nào tới thì nó hóa giải hết, thành ra trong hết, thành ra đẹp hết, thành ra
dễ thương hết. Như vậy người nào đến với mình không dễ thương mà dễ ghét, thì
mình phải hiểu một điều là cái lượng thương yêu của mình nó nhỏ quá, nó ích kỷ
quá, nó hẹp hòi quá, cho nên vừa đến một cái thì tự nhiên cái lượng ở nơi thân
tâm mình nó bị cáu đục liền. Mình biết được như vậy nên phải tập không nói ra
được ngoài thì mình nói trong tâm, người nào đem cái buồn đến cho mình mình nói
rằng: “Rất tiếc rằng cái lượng thương yêu của tôi ít quá thành ra cái buồn của
chị có đủ thiếu gì đâu, nhưng mà tôi cũng không hóa giải được thành ra tôi thấy
tôi phải tu nữa”. Mình tự nói trong tâm như vậy. Cho nên mình nghe tiếng chửi,
tiếng mắng, tiếng thị phi của người đó thì mình tự nói trong tâm như vầy: “Chính
người này không phải thị phi nói xấu, nhưng vì tâm lượng từ bi của mình ít quá,
thành ra mình không hóa giải nổi cái này, thì ra mình còn phải tu nhiều nữa”. Có
nói được như vậy mình mới mỉm cười và nói: “Chị la như vậy là oan cho em chứ em
không có cái đó đâu”, chứ mình không suy nghĩ được cái lượng từ bi của mình hẹp
thì mình nói rằng: “Bộ bà điên hả? Khi không bà tới đây bà gây gổ, đầu năm đầu
tháng, bà muốn tui kêu cảnh sát còng tay không?”. Nhưng mà mình biết cái lượng
từ bi của mình yếu mình không có gây, mình biết nhìn, cái này gọi là mình biết
quán chiếu về cái tâm lượng của mình, thấy rõ bản chất thật của mình và thấy
cái điều không hóa giải được là do cái khả năng quá yếu của mình trong cái hạnh
phát triển trí tuệ và thương yêu, cho nên mặc dầu không hóa giải được nhưng mà
mình không có gây thêm, còn đằng này cái lượng của mình đã không có nhiều về
năng lượng thanh tịnh rồi mà cái lượng vô minh của mình nhiều quá cho nên mình
chỉ đổ tội cho người kia mà thôi. Nào là: “Khi không tôi không có gây gổ với
bà, tôi không có nợ nần bà, tôi không có oan gia với bà, tại sao khi không bà
tới đây bà gây gổ? Tại sao vậy? Bà là cái thứ nào?”. Khi mà mình nói như vậy
là vì mình giận quá đi.
Nhưng mà cái nghiệp nó nói rằng
bà là oan gia của tôi kiếp trước, bây giờ tôi tới tôi đòi đó, bà không lo tu
tôi đòi hoài. Quả tình như vậy! Cho nên ở trong gia đình mình nếu có người mà
luôn luôn gây gỗ làm đau đớn cho mình, thì cái người đó thứ nhất mình hiểu họ
không có cái phương pháp để tu học, mà mình không có tìm cách để hướng dẫn họ
nghe chánh lý, nghe cái nhơn quả thành ra thiếu bổn phận của vợ hay của chồng.
Bởi vậy thử hỏi coi, từ khi mình lấy ông ý cho đến hôm nay mình đã hướng dẫn ông
ấy đi tu thiền lần nào chưa? Hướng dẫn ông ấy đến chùa Đức Viên nghe giảng
được mấy lần? Hướng dẫn ông ấy đi tụng kinh nghe pháp được bao nhiêu? Có vậy thì
mình mới nói ông là cái loại nào, chứ mình không có hướng dẫn chi hết, mình
không có khuyến khích chi hết mà bây giờ cứ nói rằng: “Trời ơi ngày xưa tui
thấy ở Việt Nam được được mà qua đây sao ông mỗi ngày mỗi kỳ cục quá đi”. Qua
đây bao nhiêu cái chuyện khó khăn mà bà không hướng dẫn ông ấy đi tu học gì
hết, thấy ông đi làm mấy job còn mừng nữa chứ, rồi cười nói: “Ông đi làm mấy
job đi để tui đi tu thế cho”. Tu thế sao được! Ông tu thì ông có ý thức tỉnh
giác, còn bà tu thì bà tỉnh giác chứ tu thế sao được. Thế mà cứ nói rằng: “Ông cứ
đi làm đi để tui tu thế cho”. Không có thế, nói như vậy có nghĩa là: “Thôi, ông
nằm chơi để tui ăn dùm cho”. Đâu có được! Thành ra mình đi tu phải hướng dẫn
ông đi tu, hay là ông đi tu ông cũng phải hướng dẫn bà đi tu. Không muốn cạo đầu
như các ni cô, không muốn cạo đầu như quí thầy, ít nhất phải tu cư sĩ, mà muốn
tu cứ sĩ phải nghe kinh, nghe pháp, nghe cái giáo lý đâu ra đó mới phát tâm
được.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment