Thảng-hoặc
có con trai, con gái nào bội-ân, không hiếu-thuận với cha
mẹ, làm cho cha mẹ sinh tâm oán-niệm, mà mẹ bực-bội, thốt
ra một lời nói ác, tức thời con phải sa-đọa theo lời nói
ấy, hoặc vào địa-ngục, hay ngã-quỷ, súc-sinh.
KINH ĐẠI-THỪA
BẢN-SINH TÂM-ĐỊA-QUÁN
Đường, Bát-Nhã dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
Đường, Bát-Nhã dịch chữ Phạn ra chữ Hán.
Thích-Tâm-Châu dịch chữ Hán ra chữ Việt
II. - PHẨM
BÁO-ÂN (1)
Bấy
giờ, đức Thế-Tôn từ chính-định khoan-thai trở dậy, bảo
Đại-Bồ-Tát Di-Lặc(2) rằng: “Quý hóa thay! Quý hóa thay! Đại-sĩ
các Ông, các thiện nam-tử vì muốn thân cận bậc Thế-gian-phụ,
vì muốn nghe pháp xuất-thế, vì muốn suy-nghĩ như-như-lý,
vì muốn tu-tập như-như-trí(3) nên mới đến nơi Phật cung-kính,
cúng-dàng. Nay Tôi diễn nói về TÂM-ĐỊA DIỆU-PHÁP, để
dẫn-dắt chúng-sinh, khiến cho họ chứng-nhập Phật-trí. Diệu-pháp
như thế, chư Phật Như-Lai quá vô-lượng kiếp hợp thời
nói ra. Như-Lai Thế-Tôn ra đời rất khó gặp được, cũng
như hoa Ưu-Đàm! Như-Lai xuất-hiện ra đời nói diệu-pháp
này cũng lại khó gặp! Sở-dĩ thế là sao? - Hết thảy chúng-sinh
xa lìa hành-nguyện của Đại-thừa Bồ-tát, xu-hướng về
Bồ-Đề của Duyên-giác, Thanh-văn, chán-ngán sinh-tử, mong
nhập Niết-bàn mãi, chứ không thích diệu quả thường -lạc
của Đại-thừa. Song, các Như-Lai quay xe pháp, xa lìa bốn lỗi
mà nói pháp tương-ứng(4): Một là, vô-phi-xứ (nói không trái
nơi chốn: hợp hoàn-cảnh). Hai là, vô-phi-thời (không lỗi
thời: hợp thời). Ba là, vô-phi-khí (không trái căn-khí: hợp
trình-độ chúng-sinh). Bốn là, vô-phi-pháp (không trái pháp:
hợp chính-pháp) Hợp bệnh cho thuốc, khiến họ khỏi được,
tức là đức bất-cộng(5) của Như-Lai. Thanh-văn, Duyên-giác
còn chưa được cảnh bất-cộng tự-tại của Bồ-tát-chúng.
Huống là được đức bất-cộng của Như-lai. Bởi nhân-duyên
ấy, nên họ khó thấy, khó nghe được “tâm-địa pháp-môn”
của chính-đạo Bồ-Đề! Nhưng, nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân
nào nghe được diệu-pháp ấy qua tai một lần, trong khoảng
chốc lát, họ nhiếp-niệm quán tâm được, là họ huân-thành
hạt giống Đại-bồ-đề vô thượng, không bao lâu nữa họ
sẽ ngồi trên tòa báu kim-cương, nơi cây Bồ-đề, được
thành vô-thượng chính-đẳng chính-giác.(6)
Khi
ấy, nơi Vương-xá đại-thành có năm trăm ông Trưởng-giả
tên là: Diệu-Đức Trưởng-giả, Dũng-Mãnh Trưởng-giả, Thiện-Pháp
Trưởng-giả, Niệm-Phật Trưởng-giả, Diệu-trí Trưởng-giả,
Bồ-Đề Trưởng-giả, Diệu Biện Trưởng-giả, Pháp-Nhãn
Trưởng-giả, Quang-Minh Trưởng-giả, Mãn-Nguyện Trưởng-giả.
Các Đại-phú Trưởng-giả ấy đã thành-tựu được chính-kiến,
tới cúng-dàng Như-Lai cùng các Thánh-chúng. Các Trưởng-giả
ấy, nghe đức Thế-Tôn tán-thán Đại-thừa tâm-địa pháp-môn,
liền nghĩ rằng: “Chúng ta thấy Như-Lai phóng hào-quang sắc
vàng, ảnh-hiện những sự khổ-hạnh khó làm của Bồ-tát,
chúng ta không có tâm ưa thích làm hạnh khổ-hạnh, ai lại
trong nhiều kiếp ở nơi sinh-tử, vì chúng-sinh chịu mọi khổ-não
được?”. Các Trưởng-giả ấy nghĩ thế rồi, liền từ
tòa đứng dậy, chễ áo vai hữu, gối hữu quỳ xuống đất,
chắp tay cung-kính, tuy khác miệng nhưng đồng âm, bạch trước
Phật rằng: “Bạch đức Thế-Tôn! Chúng tôi không ưa những
hạnh của các Bồ-tát Đại-thừa, cũng không thích nghe những
âm-thanh khổ-hạnh. Sở dĩ thế là sao? - Vì, hết thảy hành-nguyện
tu-hành của các Bồ-tát, đều không phải là những sự “tri
ân, báo ân” (biết ơn, trả ơn). Sao vậy? - Vì các vị ấy
xa lìa cha mẹ, tới chỗ xuất-gia, đem vợ con mình cho những
người ham muốn; cho đến đầu, mắt, tủy, não tùy sự mong
muốn của họ, đều bố-thí cả, mà chịu các sự bức-não;
trong ba vô số kiếp tu các pháp “Độ”, tám vạn bốn nghìn
hạnh Ba-la-mật, vượt dòng sinh-tử, mới đến được nơi
Bồ-Đề đại-an-lạc; chẳng bằng xu-hướng về đạo-quả
Thanh-văn, Duyên-giác, chỉ độ ba đời hay trăm kiếp tu-tập
tư-lương(7), dứt được nhân sinh-tử, chứng quả Niết-bàn,
chóng đến nơi yên-vui, như thế mới gọi là báo ân!”(8)
Đức
Phật bảo năm trăm ông Trưởng-giả: “Quý hóa thay! Quý hóa
thay! Các ông nghe Tôi tán-thán Đại-thừa, các ông sinh tâm
thoái-chuyển. Nhưng, các ông lại phát khởi ra ý-nghĩa nhiệm-mầu,
để đem lại sự lợi-ích an-lạc cho hết thảy chúng-sinh
không biết ân-đức trong đời mai sau. Các ông hãy nghe cho
kỹ, nghe cho kỹ và nhớ nghĩ cho khéo, nay Tôi sẽ vì các ông
phân-biệt, diễn nói những chỗ có ơn của thế-gian và xuất-thế-gian
để các ông hiểu!”.
Thiện-nam-tử!
Những lời các ông nói chưa được chính-lý. Sao vậy? - Ơn
của thế-gian và xuất-thế-gian có bốn bậc: Một là, ơn
cha mẹ. Hai là, ơn chúng-sinh. Ba là, ơn Quốc-vương. Bốn là,
ơn Tam-bảo. Bốn ơn như thế, hết thảy chúng sinh đều bình-đẳng
gánh chịu.(9)
Thiện-nam-tử!
ƠN CHA MẸ: Cha có “từ-ân”, mẹ có “bi-ân”. Bi-ân của
mẹ, nếu Tôi ở đời trong một kiếp để nói về ơn ấy
cũng không thể hết được. Nay Tôi vì các ông nói một ít
phần về công ơn ấy để các ông hiểu: Giả-sử có người
vì việc phúc-đức, cung-kính, cúng dàng một trăm vị Đại-bà-la-môn
tịnh-hạnh, một trăm vị Đại-thần-tiên được năm pháp
thần-thông, một trăm người bạn lành, xếp đặt cho các
vị ấy ở yên trong nhà thất-bảo rất đẹp, đem trăm nghìn
thứ đồ ăn ngon quý, y-phục bằng mọi thứ báu tua rủ các
chuỗi ngọc, dựng các phòng xá bằng gỗ chiên-đàn(10), trầm-hương,
chăn gối, giường nằm trang-nghiêm bằng trăm báu, cùng trăm
thứ thuốc thang chữa khỏi các bệnh và nhất tâm cúng-dàng
trọn trăm nghìn kiếp, cũng không bằng một niệm để tâm
hiếu-thuận, đem chút ít vật nuôi nấng sắc-thân bi-mẫu.
Và, theo chỗ cúng dàng hầu hạ ấy, đem so-sánh với công-đức
trước thời đến trăm nghìn vạn phần cũng không thể nào
xét lường kịp.
Sự
thương nhớ con của bi-mẫu ở thế-gian không gì sánh được.
Ân ấy đến với con ngay từ khi chưa có hình-hài. Nghĩa là
bắt đầu từ khi thụ-thai, trải trong mười tháng, đi đứng,
ngồi, nằm, mẹ chịu mọi khổ-não, không thể dùng miệng
mà nói hết được. Tuy có những sự dục-lạc, ẩm-thực,
y-phục nhưng, mẹ vẫn không sinh tâm ưa thích, mà tâm mẹ
chỉ luôn luôn lo nghĩ đến con không quên nhãng.
Hãy
tự suy-nghĩ: khi sắp sinh-sản, mẹ âm-thầm chịu đựng mọi
khổ, ngày đêm sầu-não. Nhưng, đến lúc lâm-bồn, sự đau-khổ
ấy quá đỗi, như trăm nghìn mũi nhọn bâu vào cắt xé, thực
không thể nào kể xiết được, có khi đến chết. Sinh nở
rồi, mẹ không còn bị khổ-não gì nữa, lúc đó họ hàng
thân-thích vui mừng vô tận, cũng như người đàn bà nghèo
được ngọc Như-ý. Khi đứa con cất tiếng khóc chào đời,
mẹ như là người nghe được âm-nhạc. Mẹ dùng ngực mẹ
làm nơi ngủ-nghỉ của con và trên hai đầu gối mẹ, thường
thường là nơi chơi giỡn của con. Trong nơi ngực mẹ tuôn
ra những dòng sữa như nước suối cam-lộ để nuôi lớn con.
Ơn nuôi lớn ấy nhiều hơn trời đất và đức thương-xót
ấy rộng lớn không gì sánh được. “Thế-gian, núi non là
cao, ơn bi-mẫu còn cao hơn thế - cao hơn cả núi Tu-di. Thế-gian
cõi đất là nặng, ơn bi-mẫu còn nặng hơn thế!”
Thảng-hoặc
có con trai, con gái nào bội-ân, không hiếu-thuận với cha
mẹ, làm cho cha mẹ sinh tâm oán-niệm, mà mẹ bực-bội, thốt
ra một lời nói ác, tức thời con phải sa-đọa theo lời nói
ấy, hoặc vào địa-ngục, hay ngã-quỷ, súc-sinh. Thế-gian,
nhanh gì hơn gió dữ, một chút oán-niệm của cha mẹ còn nhanh
hơn gió ấy, hết thảy Như-Lai, chư Thiên, Kim-cương cùng các
vị Tiên được năm pháp thần-thông… không cứu-hộ được.
Nếu
thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân nào theo lời dạy bảo của
bi-mẫu và thừa-thuận không trái, thời được chư Thiên hộ-niệm,
phúc-lạc vô-tận. Những nam, nữ ấy tức là dòng giống tôn-quý
của Thiên, Nhân, hoặc là Bồ-tát vì độ chúng-sinh, hiện
làm nam, nữ đem lại lợi-ích cho cha mẹ.
Thiện-nam-tử,
thiện-nữ-nhân nào vì báo ơn cha mẹ, suốt một kiếp mỗi
ngày ba thời, tự cắt thịt mình để nuôi cha mẹ, cũng chưa
trả được công ơn một ngày của cha mẹ. Sở-dĩ thế là
sao? - Hết thảy nam, nữ ở trong thai mẹ, miệng nút cuống
vú, uống huyết mẹ, khi ra khỏi bào-thai, trước thời ấu-trĩ,
uống hết một trăm tám mươi hộc sữa của mẹ; mẹ được
chút vị bổ nào đều cho con cả, ngay đến những y-phục
quý tốt cũng đều như thế. Và, dù rằng bị người con ngu-si,
xấu-xí đi nữa, tình yêu con của mẹ cũng chỉ là một không
hai. Xem như xưa kia, có người đàn bà đi chơi xa tại nước
người, bế con lội qua sông Hằng, không ngờ nước sông lên
to, chảy mạnh, sức yếu không vượt qua nổi, lại yêu mến
con quá, không nỡ rời bỏ con, nên cả hai mẹ con đều chết
chìm. Song, bởi sức từ-tâm, thiện-căn ấy, tức thời người
mẹ được sinh lên cõi Sắc-cứu-cánh-thiên, làm Đại-phạm-vương.
Do
nhân-duyên ấy, mẹ có mười đức: Một là, như đại-địa:
vì trong thai mẹ là chỗ nương-tựa của con. Hai là, năng-sinh:
mẹ phải trải qua mọi sự khổ-não mới sinh được con. Ba
là, năng-chính: thường do tay mẹ ve-vuốt, uốn-nắn mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân con. Bốn là, dưỡng-dục: mẹ phải theo
hợp bốn mùa mà nuôi-nấng con khôn lớn. Năm là, trí-giả:
mẹ thường dùng phương-tiện, làm cho con sinh trí-tuệ. Sáu
là, trang-nghiêm: mẹ lấy những chuỗi ngọc đẹp trang-sức
cho con. Bảy là, an-ẩn: mẹ ôm-ấp con, làm cho con nghỉ-ngơi
an-lành. Tám là, giáo-thụ: mẹ dùng phương-tiện khéo dắt-dẫn
con. Chín là, giáo-giới: mẹ dùng lời nói lành để con xa-lìa
những điều ác. Mười là, cho gia-nghiệp: mẹ thường đem
gia-nghiệp giao lại cho con.
Thiện-nam-tử!
“Ở thế-gian này gì là rất giàu? gì là rất nghèo? -Bi-mẫu
tại đường, là giàu; bi-mẫu bất-tại là nghèo; bi-mẫu còn
sống là mặt trời giữa trưa, bi-mẫu mất đi là mặt trời
đã lặn; bi-mẫu còn sống là mặt trăng sáng, bi-mẫu mất
đi là đêm tối! Thế nên, các ông nên siêng-năng tu-tập về
sự hiếu-dưỡng phụ-mẫu thêm, thời như người cúng Phật,
phúc-báo ấy và phúc-báo này bằng nhau không khác! Các ông
nên báo ơn phụ-mẫu như thế!”(11)
Thiện-nam-tử!
ƠN CHÚNG-SINH: Hết thảy chúng-sinh, từ đời vô-thủy đến
nay, luân-chuyển trong năm đường: thiên, nhân, địa-ngục,
ngã-quỉ, súc-sinh, trải trăm nghìn kiếp và ở trong nhiều
đời thường làm cha mẹ lẫn nhau. Vì làm cha mẹ lẫn nhau
nên hết thảy nam-tử là từ-phụ, hết thảy nữ-nhân là
bi-mẫu. Và, trong đời đời kiếp kiếp xưa kia cũng có tâm
đại-bi như ơn của cha mẹ hiện-tại không khác. Như thế,
các ơn xưa chưa trả được, rồi, hoặc nhân vọng-nghiệp
sinh ra các sự thuận, nghịch, vì sự chấp-trước trở lại
thành ra oán-hại lẫn nhau. Sao vậy? -Xưa có trí-tuệ sáng-suốt
nhưng, vì vô-minh che-lấp, không hiểu đời trước mình đã
từng làm cha mẹ lẫn nhau, chỗ đáng trả ơn là làm lợi-ích
lẫn nhau, mà không làm lợi-ích lẫn nhau là bất-hiếu! Bởi
nhân-duyên ấy, các loài chúng-sinh trong hết thảy thời, cũng
có ơn lớn, thực là khó trả. Những sự như thế là ơn chúng-sinh!(12)
ƠN
QUỐC-VƯƠNG: Vị đứng chủ một nước là người có đủ
phúc-đức tối-thắng. Vị ấy tuy sinh trong cõi nhân-gian nhưng,
được tự-tại, các Thiên-tử trong cõi Tam-thập tam-thiên
thường giúp sức, thường hộ-trì và đối với quốc-giới,
sơn-hà, đại-địa, tận cùng bể cả đều thuộc quyền nơi
Quốc-vương. Vị ấy là một người có phúc-đức tối-thắng
hơn hết thảy phúc của chúng-sinh. Vị ấy là vị Đại-thánh-vương
dùng chính-pháp giáo-hóa, khiến chúng-sinh đều được yên
vui. Ví như hết thảy điện đường của thế-gian, trụ (cột)
là căn-bản; nhân-dân thịnh-vượng, vui-vẻ, Quốc-vương là
căn-bản, vì phải y vào chính-pháp của Quốc-vương mới có.
Như ngoại-đạo cho Phạm-vương sinh ra muôn vật, thì đây,
Thánh-vương đặt ra pháp-luật trị nước, làm lợi-ích chúng-sinh
cũng vậy. Như mặt trời soi sáng thế-gian, Thánh-vương cũng
hay quan-sát thiên-hạ, đem lại sự yên-vui cho nhân-dân. Quốc-vương
làm mất chính-trị, nhân-dân không có chỗ nương tựa. Nếu
Quốc-vương đem chính-pháp giáo-hóa, tám sự khủng-bố lớn-lao
không xâm-nhập vào trong nước được. Tám sự khủng-bố
ấy là: nước ngoài xâm-bức, phản-nghịch trong cõi, ác-quỷ
tật-bệnh, đất nước đói thiếu, gió mưa trái thời, gió
mưa quá thời, nhật-thực, nguyệt-thực và tinh-tú biến-quái.
Nhân-vương dùng chính hóa, lợi-ích nhân-dân, tám nạn như
thế không xâm-phạm được. Ví như ông Trưởng giả chỉ
có một con, yêu-mến hơn hết, ông luôn luôn thuơng-xót con,
cho con sự lợi-ích cho con sự yên vui, ngày đêm không rời.
Vị Đại-thánh-vương trong nước cũng như thế, đồng coi
quần sinh như con một, tâm ủng-hộ họ ngày đêm không rời.
Nhân-vương như thế hay khiến chúng-sinh tu mười điều thiện,
nên gọi là “Phúc-đức-vương”, vị nào không làm cho chúng-sinh
tu thiện là “phi-phúc-chủ”. Sở dĩ thế là sao? - Nếu một
người tu thiện ở trong Vương-quốc, sự tác phúc của họ
chia làm bảy phần, người làm thiện được năm phần, Quốc-vương
kia được hai phần. Trái lại, nhân lành của Quốc-vương
tu, nhân-dân cũng đồng được phúc-lợi. Và, nếu tạo mười
nghiệp ác cũng như thế, nghĩa là, cũng đồng như sự ấy.
Hết thảy những vật sinh nơi ruộng đất, vườn, rừng trong
nước đều chia làm bảy phần, cũng lại như thế. Nếu có
Nhân-vương thành-tựu chính-kiến, như pháp dạy đời, thời
gọi vị ấy là “Thiên-chúa” - vì vị ấy đem pháp lành
của cõi Thiên dạy thế-gian -; chư Thiên, Thiện-thần cùng
Hộ-thế-vương thường lại giúp-đỡ và giữ-gìn vương-cung.
Nhân-vương tuy ở nhân-gian nhưng, tu-hành theo nghiệp của cõi
Thiên, nên tâm thưởng, phạt không thiên-lệch. Chính-pháp
của hết thảy Thánh-vương đều như thế!
Thánh-vương
như thế gọi là “Chính-pháp-vương”. Và, bởi nhân-duyên
ấy Chính-pháp-vương thành-tựu mười đức: Một là, soi sáng
(năng-chiếu): đem mắt trí-tuệ soi-sáng thế-gian. Hai là, trang-nghiêm:
đem phúc-đức, trí-tuệ trang-nghiêm đất nước. Ba là, cho
vui (dữ lạc): đem đại-an-lạc cho nhân-dân. Bốn là, dẹp
oán (phục-oán): hết thảy giặc oán tự-nhiên chịu nép. Năm
là, khởi sợ (ly bố): đánh lùi tám nạn(13), lìa khỏi sợ-hãi.
Sáu là, trụ-hiền (ở với người hiền): họp các người
hiền bàn-bạc việc nước. Bảy là, pháp-bản (gốc của chính-pháp):
muôn họ an-cư nương nhờ Quốc-vương. Tám là, trì-thế (giữ-gìn
thế-gian): đem pháp của Thiên-vương giữ-gìn thế-gian. Chín
là, nghiệp-chủ (chủ của mọi nghiệp): các nghiệp thiện-ác
đều thuộc Quốc-vương. Mười là, nhân-chủ: hết thảy nhân-dân,
Quốc-vương là chủ. Hết thảy Quốc-vương, bởi phúc-đức
đời trước thành-tựu mười thắng-đức như thế”.
Vì
thế, Đại-phạm-thiên-vương cùng Đao-lỵ-thiên thường giúp
Nhân-vương hưởng-thụ những sự vui thắng-diệu; các La-sát-vương
và chư Thần… tuy không hiện-thân giúp-đỡ nhưng, ngấm-ngầm
lại vệ-hộ Nhân-vương cùng quyến-thuộc Nhân-vương.
Nhân-vương
thấy nhân-dân tạo các nghiệp ác không ngăn-cấm được,
chư Thiên, Thần…đều xa-tránh. Nếu thấy nhân-dân tu thiện
chư Thiên, Thần…vui-mừng, tán-thán và hết thảy đều xướng
rằng: “Thánh-vương ta!...” long, thiên vui-mừng, rưới nước
mưa Cam-lộ, ngũ-cốc(14) thành-thục, nhân-dân vui-vẻ, thịnh-vượng.
Nếu Nhân-vương không gần những người ác, chăm làm lợi-ích
cho khắp thế-gian đều theo chính-hóa, thời ngọc báu Như-ý
hiện ngay trong vương-quốc, các vua nước láng-diềng đều
quy-phục, nhân, phi-nhân đều khen-ngợi. Và, nếu có ác-nhân
ở trong vương-quốc sinh tâm phản-nghịch, trong chốc-lát,
phúc của người ấy tự suy-diệt, mất đi, phải sa-đọa
trong địa-ngục, qua sang súc-sinh chịu đủ mọi thứ đau-khổ.
Sở-dĩ thế là sao? Bởi vì không biết ân-đức Thánh-vương,
khởi ra những sự ác-nghiệp, nên phải quả-báo như thế.
Nếu có nhân-dân thực-hành thiện-tâm, cung-kính, giúp-đỡ
Nhân-vương và tôn-trọng như Phật, hiện-thế người ấy
được yên-ổn, thịnh-vượng, vui-vẻ, có mong-cầu gì đều
được vừa lòng. Sở-dĩ thế là sao? Hết thảy Quốc-vương
trong thời-gian quá-khứ đã từng thụ-giới cấm thanh-tịnh
của Như-Lai và đã thường làm Nhân-vương hưởng sự an-ổn,
khoái-lạc. Bởi nhân-duyên ấy, quả-báo trái hay thuận đều
như vang ứng tiếng. Ân-đức Thánh-vương rộng lớn như thế!(15)
Thiện-nam-tử!
ƠN TAM BẢO: Ơn Tam-bảo là ơn không thể nghĩ, bàn được,
vì Tam-bảo luôn luôn đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh không
có thời nào và chỗ nào dừng nghỉ.
Thân
chư Phật là chân-thiện vô-lậu, do tu nhân trong vô-số đại-kiếp
mà chứng được. Chư Phật dứt hết nghiệp-quả ba cõi, công-đức
như núi báu rực-rỡ, không gì so-sánh kịp, mà hết thảy
hữu-tình không biết. Phúc-đức chư Phật rất sâu như bể
cả, trí-tuệ vô-ngại như hư-không, thần-thông biến-hóa
tràn đầy thế-gian, ánh sáng soi khắp mười phương ba đời.
Hết
thảy chúng-sinh bị phiền-não nghiệp-chướng ngăn-che không
hiểu biết gì, nên phải chìm-đắm trong bể khổ sinh-tử
vô cùng. Tam-bảo ra đời làm Đại-thuyền-sư, ngăn chặn dòng
ái-dục, để chúng-sinh vượt lên bờ Niết-bàn. Những bậc
có trí ai cũng đều chiêm-ngưỡng!(16)
Thiện-nam-tử!
Duy một ngôi PHẬT-BẢO đầy-đủ ba thân(17): Một là, tự-tính-thân.
Hai là, thụ-dụng-thân. Ba là, biến-hóa-thân.
Phật
thân thứ nhất có ĐẠI-ĐOẠN-ĐỨC(18), là chỗ hiển-lộ nhị-không,(19)
hết thảy chư Phật đều bình-đẳng.(20)
Phật
thân thứ hai có ĐẠI-TRÍ-ĐỨC(21) chân thường vô-lậu, hết
thảy chư Phật đều đồng-ý.(20)
Phật
thân thứ ba có ĐẠI-ÂN-ĐỨC(23) định-thông biến-hiện, hết
thảy chư Phật đều đồng-sự.(24)
Thiện-nam-tử!
Tự-tính-thân của chư Phật vô-thủy, vô-chung, lìa hết thảy
tướng, dứt mọi hí-luận(25), tròn đầy, cùng khắp không còn
bờ mé và lắng-im thường-trụ.(26)
Thụ-dụng-thân
ấy có hai tướng: Một là, TỰ-THỤ-DỤNG-THÂN.(27) Hai là, THA-THỤ-DỤNG
THÂN.(28)
Tự-thụ-dụng-thân
do tu muôn hạnh , đem lại lợi-ích yên-vui cho các chúng-sinh
trong ba vô-số kiếp, được Thập-địa mãn-tâm(29), vận-dụng
thân-lực đi thẳng đến cõi Sắc-cứu-cánh-thiên(30), vượt
quá quốc-độ thanh-tịnh vi-diệu trong ba cõi, ngồi trên hoa
sen vô-số lượng đại-bảo, mà các Bồ-tát số nhiều không
thể nói được, ở trong hải-hội vây quanh trước sau, đem
lụa vô-cấu kết trên đỉnh đầu(31), cúng-dàng cung-kính, tôn-trọng,
tán-thán, như thế gọi là “lợi-ích hậu-báo”(32). Khi ấy,
Bồ-tát nhập Kim-cương-định, dứt bỏ hết thảy sở-tri-chướng,
phiền-não-chướng(33) vi-tế, chứng được vô-thượng chính-đẳng,
chính-giác; diệu-quả như thế gọi là “lợi-ích hiện-tiền”.
Chân-báo-thân ấy hữu thủy (có trước), vô chung (không sau),
thọ mệnh tùy theo sự mong-muốn, kiếp số không có hạn-lượng.
Và, lại từ khi bắt đầu thành chính-giác cho đến lúc tận
cùng thuở vị-lai, các căn-tướng tốt trang-nghiêm cùng khắp
pháp-giới.(34)
Bốn
trí viên-mãn là chân-báo-thân thụ-dụng-pháp-lạc (35):
Một
là, ĐẠI-VIÊN-KÍNH-TRÍ: Chuyển Dị-thục-thức(36), được trí-tuệ
này, như tấm gương tròn lớn hiện đủ các sắc-tướng.
Như thế trong gương trí-tuệ (kính-trí) của Như-Lai, hay hiện
ra các nghiệp thiện, ác của chúng-sinh. Bởi nhân-duyên ấy,
trí-tuệ này gọi là “Đại-viên-kính-trí”. Y vào đại-bi
nên thường duyên với chúng-sinh, y vào đại-trí nên thường
như pháp-tính, quán-sát song-song cả chân-đế, tục-đế(37),
không gián-đoạn, thường chấp giữ căn-thân vô-lậu và là
chỗ y-chỉ của hết thảy công-đức.(38)
Hai
là, BÌNH-ĐẲNG-TÍNH-TRÍ: Chuyển Ngã-kiến-thức(39) được trí-tuệ
này. Vì chứng được ngã-tính tự-tha bình-đẳng không hai,
như thế nên gọi là “Bình-đẳng-tính-trí”.
Ba
là, DIỆU-QUÁN-SÁT-TRÍ: Chuyển Phân-biệt-thức(40), được trí-tuệ
này. Hay quán-sát tự-tướng, cộng-tướng(41) của mọi pháp
và ở trước chúng-hội nói mọi pháp nhiệm-mầu, làm cho
chúng-sinh chứng được Bất-thoái-chuyển. Bởi thế nên gọi
là “Diệu-quán-sát-trí”.
Bốn
là, THÀNH-SỞ-TÁC-TRÍ: Chuyển nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân-thức
được trí-tuệ này, hay hiện ra hết thảy mọi hóa-thân,
làm cho chúng-sinh thành-thục thiện-nghiệp. Bởi nhân-duyên
ấy nên gọi là “Thành-sở-tác-trí”.
Bốn
trí ấy là trí-tuệ trên hết, đầy-đủ tám vạn bốn nghìn
trí-tuệ-môn. Hết thảy các công-đức-pháp như thế gọi
là “Tự-thụ-dụng-thân” của Như-Lai.(42)
Thiện-nam-tử!
Hai là, Tha-thụ-dụng-thân của Như-Lai đầy-đủ tám vạn
bốn nghìn tướng tốt, ở nơi chân-tịnh-độ, nói pháp Nhất-thừa(43),
làm cho các Bồ-tát thụ-dụng được pháp-lạc vi-diệu của
Đại-thừa. Hết thảy Như-Lai vì hóa-độ các Bồ-tát-chúng
nơi Thập-địa, hiện ra mười loại tha-thụ-dụng-thân: Phật
thân thứ nhất ngồi trên hoa sen trăm cánh vì Bồ-tát Sơ-địa
nói về trăm pháp-minh-môn; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông
biến-hóa lớn-lao, cùng khắp trong trăm thế-giới của chư
Phật, đem lại lợi-ích yên-vui cho vô-số chúng-sinh. Phật
thân thứ hai ngồi trên hoa sen nghìn cánh, vì Bồ-tát Nhị-địa
nói về nghìn pháp-minh-môn; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông
biến-hóa lớn-lao, cùng khắp trong nghìn thế-giới của chư
Phật, đem lại lợi-ích yên-vui cho vô-lượng chúng-sinh. Phật
thân thứ ba, ngồi trên hoa sen muôn cánh, vì Bồ-tát Tam-địa,
nói về muôn pháp-minh-môn; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông
biến-hóa lớn-lao, cùng khắp trong muôn quốc-độ của chư
Phật, đem lại lợi-ích yên-vui cho vô số chúng-sinh. Như thế,
Như-Lai tăng-trưởng dần dần, cho đến tha-thụ-dụng-thân
nơi Thập-địa, ngồi trên hoa sen diệu-bảo không thể nói
được, vì Bồ-tát Thập-địa nói về các pháp-minh-môn số
nhiều không thể nói được; Bồ-tát ngộ rồi, hiện ra thần-thông
biến-hóa lớn-lao, cùng khắp quốc-độ vi-diệu của chư Phật,
số nhiều không thể nói được, đem lại lợi-ích yên-vui
cho vô-lượng, vô-biên chủng-loại chúng-sinh với con số nhiều
không thể tuyên-thuyết, không thể tuyên-thuyết được. Mười
thân như thế, đều ngồi nơi cây Bồ-đề bằng bảy báu,
chứng được vô-thượng chính-đẳng, chính-giác.
Các
thiện-nam-tử! Mỗi một cánh hoa đều là một tam-thiên thế-giới,
trong đó đều có trăm ức núi Diệu-cao cùng bốn đại-châu,
mặt-trời, trăng, sao và chư thiên trong ba cõi cũng đầy-đủ
cả. Các Nam-thiệm-bộ-châu ở trên mỗi cánh sen, có tòa Kim-cương,
cây Bồ-đề, có trăm nghìn vạn, đến số nhiều không thể
nói được những hóa Phật lớn, nhỏ, đều ở dưới gốc
cây, phá ma-quân rồi, nhất thời chứng được vô-thượng
chính-đẳng chính-giác. Các thân của các hóa Phật lớn, nhỏ
như thế đều đầy-đủ ba mươi hai tướng,(44) tám mươi thứ
tốt(45), vì các Bồ-tát trong hàng Tư-lương(46) và Tứ-thiện-căn(47)
cùng Nhị-thừa, phàm-phu, tùy nghi vì họ nói ra diệu-pháp
Tam-thừa. Vì các Bồ-tát nói về sáu Ba-la-mật(48) khiến các
vị ấy được Vô-thượng chính-đẳng chính-giác cứu-cánh
Phật-tuệ. Vì các vị cầu Bích-chi-Phật nói về mười hai
pháp nhân-duyên.(49) Vì các vị cầu Thanh-văn nói về pháp Tứ-đế,(50)
qua sinh, lão, bệnh, tử đến cứu-cánh Niết-bàn. Vì các chúng-sinh
khác nói về Nhân-thiên-giáo, khiến họ được diệu-quả
an-lạc trong Nhân, Thiên. Các hóa Phật lớn, nhỏ như thế
gọi là “Biến-hóa thân của Phật”. Thiện-nam-tử! Hai loại
ứng, hóa-thân Phật như thế, tuy hiện ra diệt-độ (nhập
Niết-bàn) nhưng, thân Phật ấy vẫn nối tiếp thường-trụ.
Các
thiện-nam-tử! Như một Phật-bảo có vô-lượng, vô-biên không
thể nghĩ, bàn được những ân-đức rộng lớn đem lại lợi-lạc
cho chúng-sinh như thế, nên cũng bởi nhân duyên ấy mà gọi
là Như-Lai, Ứng-cúng, Chính-biến-tri, Minh-hành-túc (viên-mãn),
Thiện-thệ, Thế-gian-giải, Vô-thượng-sĩ, Điều-ngự trượng-phu,
Thiên-nhân-sư, Phật, Thế-Tôn.(51)
Thiện-nam-tử!
Trong một Phật-bảo đầy-đủ sáu thứ công-đức vi-diệu:
Một là, là ngôi vô-thượng có ruộng công-đức lớn-lao trên
hết. Hai là, là ngôi vô-thượng có ân-đức lớn. Ba là, là
ngôi chí-tôn trong những chúng-sinh không chân, hai chân cho đến
nhiều chân. Bốn là, là bậc rất khó gặp, như hoa Ưu-đàm.
Năm là, là ngôi độc nhất xuất-hiện trong Tam thiên đại
thiên thế-giới. Sáu là, là ngôi đầy-đủ hết thảy nghĩa
trong công đức thế-gian và xuất-thế-gian. Y vào chỗ đầy-đủ
của sáu thứ công-đức như thế và thường đem lại lợi-lạc
cho hết thảy chúng-sinh, thế gọi là ơn “Phật-bảo không
thể nghĩ, bàn được!”
Khi
ấy, năm trăm ông Trưởng-giả bạch Phật rằng: “Bạch đức
Thế-Tôn! Như Phật nói: trong một Phật-bảo có vô-lượng
hóa Phật, cùng khắp thế-giới đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh,
vậy bởi nhân-duyên gì mà nhiều chúng-sinh trong thế-gian này
không thấy Phật, phải chịu mọi khổ-não?”.
Đức
Phật bảo năm trăm ông Trưởng-giả: “Ví như mặt trời
tỏa trăm nghìn ánh sáng soi sáng thế-giới, mà trong đó có
những người mù không thấy ánh sáng mặt trời, thời ý các
thiện-nam-tử nghĩ sao, mặt trời có bị lỗi không? -Các Trưởng-giả
bạch: “Bạch đức Thế-Tôn! Mặt trời không có lỗi! “Đức
Phật dạy: “Thiện-nam-tử! Chư Phật Như-lai thường diễn
nói chính-pháp, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh nhưng, các
chúng-sinh ấy thường tạo nghiệp ác, không hiểu biết gì,
không có tâm thẹn-hổ, không ưa thân-cận Phật, Pháp, Tăng,
chúng-sinh như thế tội-căn sâu nặng, trải vô-lượng kiếp
không được trông thấy, nghe biết tên hiệu Tam-bảo, cũng
như những người mù kia không trông thấy ánh sáng mặt trời
vậy. Nếu có chúng-sinh cung-kính Như-Lai, ưa thích Đại-thừa,
tôn-trọng Tam-bảo, nên biết người ấy nghiệp-chướng tiêu
trừ, phúc-đức, trí-tuệ tăng-trưởng, căn lành thành-tựu,
chóng được thấy Phật, khởi hẳn sinh-tử và sẽ chứng
Bồ-đề”.(52)
Các
thiện-nam-tử! Như một Phật-bảo có vô-lượng Phật, thời
Như-Lai nói ra PHÁP-BẢO cũng thế. Nghĩa là trong một Pháp-bảo
cũng có vô-lượng nghĩa.
Thiện-nam-tử!
Trong PHÁP-BẢO có bốn loại: Một là giáo-pháp. Hai là, lý-pháp.
Ba là, hành-pháp. Bốn là, quả-pháp. Hết thảy những thanh
(tiếng), danh (tên) cú (câu), văn (chữ)(53) thuộc pháp vô-lậu,
phá tan vô-minh, phiền-não, nghiệp-chướng, gọi là “giáo-pháp”.
Các pháp hữu-vi, vô-vi gọi là “lý-pháp”. Giới, Định,
Tuệ-hạnh gọi là “Hành-pháp”. Diệu-quả vô-vi gọi là
“Quả-pháp”. Bốn pháp như thế là PHÁP-BẢO, dẫn-dắt
chúng-sinh ra khỏi bể sinh-tử, đến bờ Niết-bàn.
Thiện-nam-tử!
Thầy chư Phật tức là Pháp-bảo. Sở-dĩ thế là sao? -Chư
Phật trong quá-khứ, hiện-tại, vị-lai do y vào pháp tu-hành,
mà dứt được hết thảy chướng-ngại, thành Bồ-đề, cho
đến tận cùng thuở vị-lai đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh.
Bởi nhân-duyên ấy, Như-Lai trong ba đời thường cúng-dàng
các Pháp-bảo Ba-la-mật nhiệm-mầu, huống là hết thảy chúng-sinh
trong ba cõi chưa được giải-thoát, há không cung-kính Pháp-bảo
vi-diệu!
Thiện-nam-tử!
Kiếp xưa Tôi từng làm vị Nhân-vương cầu pháp, phải gieo
mình vào trong hầm lửa lớn để cầu chính-pháp, mới dứt
hẳn được sinh-tử và chứng được Đại-bồ-đề. Thế
nên, Pháp-bảo phá hết thảy lao-ngục sinh-tử, cũng như Kim-cương
làm hư-hoại muôn vật. Pháp-bảo soi sáng chúng-sinh tăm-tối,
như mặt trời soi sáng thế-giới. Pháp-bảo cứu chúng-sinh
nghèo thiếu, như ngọc Ma-Ni hóa-hiện mọi của báu. Pháp bảo
cho chúng-sinh sự vui mừng cũng như tiếng trống cõi trời
làm vui chư thiên. Pháp-bảo làm thềm báu cho chư thiên, vì
nghe chính-pháp được sinh Thiên. Pháp-bảo là chiếc thuyền
lớn bền vững, vượt qua bể sinh-tử đến bờ Niết-bàn.
Pháp-bảo cũng như Chuyển-luân Thánh-vương, trừ giặc phiền-não
tam độc. Pháp-bảo là y-phục đẹp quý, che phủ sự không
thẹn của các chúng-sinh. Pháp-bảo cũng như giáp-trụ kim-cương,
phá bốn loại ma(54), chứng đạo Bồ-đề. Pháp-bảo cũng như
gươm trí-tuệ sắc, cắt dứt sinh-tử thoát khởi ràng-buộc.
Pháp-bảo chính là xe báu Tam-thừa, chuyên-chở chúng-sinh ra
khỏi nhà lửa. Pháp-bảo cũng như hết thảy đèn sáng, soi
sáng nơi ba đường tối-tăm. Pháp-bảo cũng như cung, tên,
giáo, mác, chấn giữ quốc-giới, dẹp tan oán-địch, Pháp-bảo
cũng như đạo-sư nơi đường hiểm, khéo dẫn chúng sinh đạt
tới Bảo-sở.(55)
Thiện-nam-tử!
Như-Lai trong ba đời nói ra diệu-pháp, có những sự khó nghĩ,
bàn như thế, thế gọi là ơn “Pháp-bảo không thể nghĩ,
bàn được”.(56)
Thiện-nam-tử!
Thế-gian, xuất-thế-gian có ba hạng TĂNG; Một là, Bồ-tát-tăng.
Hai là, Thanh-văn-Tăng. Ba là, Phàm-phu-Tăng.
Như
các Ông Văn-Thù-Sư-lỵ, Di-Lặc…là BỒ-TÁT-TĂNG.
Như
các Ông Xá-Lỵ-Phất, Mục-kiền-Liên…là THANH-VĂN-TĂNG.
Và,
như có những vị chân-thiện phàm-phu, thành-tựu Biệt-giải-thoát-giới(57)
cho đến những vị đầy-đủ hết thảy chính-kiến, thường
rộng-rãi vì chúng-sinh diễn-thuyết, khai-thị mọi pháp của
Thánh-đạo, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh, gọi là PHÀM-PHU-TĂNG.
Tuy rằng các vị ấy chưa được Giới, Định, Tuệ, Giải-thoát
vô-lậu nhưng, cúng-dàng các vị ấy cũng được phúc vô-lượng.
Ba
hạng Tăng như thế gọi là “Chân-phúc-điền-Tăng”.
Lại
có một hạng gọi là PHÚC-ĐIỀN-TĂNG. Hạng này đối với
xá-lỵ(58) Phật, hình tượng Phật cùng các Pháp, Tăng, các
giới Thánh-chế, sinh tâm kính-tín sâu-sa; tự nơi mình không
có tà kiến và làm cho người ta cũng thế. Lại hay tuyên thuyết
chính-pháp, tán-thán Nhất-thừa, thâm-tín nhân-quả, thường
phát thiện-nguyện, tùy theo lỗi mình phạm, mà hối trừ nghiệp-chướng.
Nên biết sức tin Tam bảo của người ấy hơn các ngoại đạo
gấp trăm nghìn vạn lần và cũng hơn cả bốn loại Chuyển-luân
thánh-vương, huống là các loại khác trong hết thảy chúng-sinh.
Như Uất-kim-hoa tuy héo úa nhưng, còn hơn hết thảy các loại
tạp-hoa. Tỷ-khưu có chính-kiến cũng thế, hơn chúng-sinh khác
gấp trăm nghìn vạn lần. Tuy rằng vị ấy hủy giới cấm
nhưng, không hại chính-kiến, bởi nhân-duyên ấy nên gọi
là “Phúc-điền-Tăng”. Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân
nào cúng-dàng các vị Phúc-điền-Tăng như thế, được phúc-đức
không cùng tận, như cúng-dàng ba hạng Chân-thực Tăng-bảo
trước được công-đức thế nào, thời nơi đây được công-đức
cũng bằng thế không khác. Bốn hạng Thánh, phàm Tăng-bảo
như thế, đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh thường không tạm
xả, nên gọi là ơn “Tăng-bảo không thể nghĩ, bàn được”.(59)
Bấy
giờ, năm trăm ông Trưởng-giả bạch Phật rằng: “Bạch
đức Thế-Tôn! Ngày nay chúng tôi nghe pháp-âm của Phật, được
hiểu sự lợi-ích của Tam-bảo tại thế-gian. Song, nay chúng
tôi không biết bởi nghĩa gì mà nói Phật, Pháp, Tăng được
gọi là BẢO? Kính xin Phật giải-thuyết, bầy tỏ để chúng-hội,
cùng hết thảy chúng-sinh đời mai sau kính-tín Tam-bảo, dứt
hẳn lưới ngờ-vực, được lòng tin bất-hoại, làm cho họ
vào được bể bất-tư-nghị(60) của Tam-bảo!”
Đức
Phật bảo các ông Trưởng-giả: “Quý hóa thay! Quý hóa thay!
Các thiện-nam-tử hỏi được những diệu-pháp rất sâu của
Như-Lai như thế, hết thảy chúng-sinh đời mai sau được lợi-ích
yên-vui nhiều lắm! Ví như ngọc báu thứ nhất của thế-gian
có đầy-đủ mười nghĩa, làm trang-nghiêm quốc-giới, lợi-ích
chúng-sinh, thời Phật, Pháp, Tăng cũng thế: Một là, bền
chắc: như ngọc Ma-Ni không ai phá được; Phật, Pháp, Tăng-bảo
cũng thế, ngoại-đạo, Thiên-ma không thể phá được. Hai
là, không nhơ: ngọc báu hơn hết của thế-gian thanh-tịnh
trong sáng không lẫn chút bụi nhơ; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng
thế, đều xa lìa những phiền-não trần-cấu. Ba là, cho vui;
như bình Thiên-đức(61) thường cho sự yên-vui ; Phật, Pháp,
Tăng-bảo cũng thế, thường cho chúng-sinh sự vui trong thế-gian
và xuất-thế-gian. Bốn là, khó gặp: như ngọc báu tốt lành
hiếm có khó gặp; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, chúng-sinh
nhiều nghiệp-chướng, ức kiếp cũng khó gặp được. Năm
là, phá-tán: như ngọc báu Như-ý phá tan sự nghèo cùng của
con người: Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, phá tan những
sự nghèo khổ của chúng-sinh trong thế-gian. Sáu là, uy đức:
như Chuyển-luân-vương có cỗ xe báu, hay dẹp oán-địch; Phật,
Pháp, Tăng-bảo cũng thế, đủ sáu pháp thần-thông, hàng-phục
bốn loại ma. Bảy là, mãn-nguyện: như ngọc Ma-ni tùy tâm
mong cầu, sẽ hóa hiện ra mọi của báu; Phật, Pháp, Tăng
bảo cũng thế, hay làm thỏa-mãn những chúng-sinh muốn tu thiện
nguyện. Tám là, trang-nghiêm: như ngọc-báu thế-gian trang-nghiêm
vương-cung; Phật, Pháp, Tăng bảo cũng thế, trang-nghiêm bảo-cung
Bồ-đề của Pháp-vương. Chín là, tối diệu: như diệu bảo
cõi trời rất vi-diệu; Phật, Pháp, Tăng-bảo cũng thế, vượt
trên các diệu-bảo tối-thắng của thế-gian. Mười là, bất-biến:
ví như vàng thực vào lửa không biến; Phật, Pháp, Tăng-bảo
cũng thế, tám thứ gió(62) của thế gian, không rung động được.
Phật, Pháp, Tăng bảo đầy-đủ vô lượng thần-thông biến-hóa,
đem lại lợi-ích cho chúng-sinh, từng không có khi nào dừng
nghỉ. Vì những nghĩa ấy nên chư Phật, Pháp, Tăng được
gọi là “BẢO”. Thiện-nam-tử! Tôi vì các ông nói qua về
bốn nơi có ơn của thế-gian, xuất-thế-gian như thế để
các ông hiểu. Các ông nên biết: “Tu hạnh Bồ-tát cần phải
trả bốn ơn như thế!”(63)
Khi
ấy, năm trăm ông Trưởng-giả bạch Phật rằng: “Bạch đức
Thế-Tôn! Bốn ơn như thế rất là khó trả, vậy nên tu hạnh
gì để trả được những ơn ấy?”
Đức
Phật bảo các ông Trưởng-giả: “Thiện-nam-tử! Người vì
cầu đạo Bồ-đề cần phải có tâm tu về ba bậc(64) của
mười pháp Ba-la-mật: Một là, mười pháp Bố-thí Ba-la-mật-đa.
Hai là, mười pháp Thân-cận Ba-la-mật-đa. Ba là, mười pháp
Chân-thực ba-la-mật-đa. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân
nào phát tâm vô-thượng chính-đẳng chính-giác, thường đem
bảy báu đầy ngập Tam thiên đại thiên thế-giới, bố-thí
cho vô-lượng chúng-sinh nghèo cùng nhưng, bố-thí như thế
chỉ gọi là Bố-thí Ba-la-mật-đa, chứ không được gọi
là Chân-thực Ba-la-mật-đa. Nếu có thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân
nào phát tâm đại-bi, vì cầu vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề,
đem thê-tử mình bố-thí cho người khác, tâm không sẻn tiếc;
thân, thịt, tay, chân, đầu, mắt, tủy, não, cho đến thân-mệnh,
đem bố-thí cho người lại xin nhưng, bố-thí như thế mới
chỉ gọi là Thân-cận Ba-la-mật-đa, chứ chưa được gọi
là Chân-thực Ba-la-mật-đa. Nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân
nào phát-khởi tâm vô-thượng Đại-bồ-đề, trụ nơi “vô-sở-đắc”,
khuyên các chúng-sinh đồng phát tâm ấy, đem pháp chân-thực
bằng một bài kệ bốn câu, bố-thí cho một chúng-sinh làm
cho họ hướng về đạo vô-thượng chính-đẳng Bồ-đề,
thế mới gọi là Chân-thực Ba-la-mật-đa. Hai bậc bố-thí
trước chưa gọi là báo-ân được, nếu thiện-nam-tử, thiện-nữ-nhân
nào tu bậc thứ ba: Chân-thực Ba-la-mật-đa như thế, mới
gọi là chân-thực báo-đáp bốn ân. Sở-dĩ thế là sao? -
Hai bậc bố-thí trước còn có tâm “sở-đắc”, bậc bố-thí
thứ ba tâm “vô-sở-đắc”, đem chân-pháp bố-thí hết thảy
chúng-sinh, khiến họ phát tâm vô-thượng Đại-bồ-đề, sau
này khi người ấy chứng được Bồ-đề, rộng độ chúng-sinh
vô cùng tận, nối tiếp hạt giống Tam-bảo không đoạn-tuyệt,
bởi nhân-duyên ấy nên gọi là báo-ân”.
Năm
trăm ông Trưởng-giả theo Phật nghe được pháp báo-ân từ
xưa tới nay chưa được nghe bao giờ ấy, tâm sinh hớn-hở,
cho là được sự chưa từng có, các ông liền phát tâm cầu
tới vô-thượng Bồ-đề, được Nhẫn-nhục tam-muội(65), chứng-nhập
trí-tuệ bất-tư-nghị, mãi mãi không thoái-chuyển.
Lúc
đó, tám vạn bốn nghìn chúng-sinh trong pháp hội phát tâm
Bồ-đề, được lòng tin kiên-cố và cũng được Tam-muội
ấy; đại-chúng trong hải-hội đều được Kim-cương nhẫn-nhục
tam-muội, ngộ Vô-sinh-nhẫn và Nhu-thuận-nhẫn, hoặc chứng
Sơ-địa được Bất-khởi-nhẫn. Vô-lượng chúng-sinh phát
tâm Bồ-đề ở ngôi Bất-thoái.(66)
Đức
Phật bảo năm trăm ông Trưởng-giả: “Hết thảy chúng-sinh
trong đời vị-lai nếu nghe được phẩm Tâm-địa-quán báo
tứ-ân này, thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, viết chép,
lưu-bá xa rộng, những người ấy phúc-đức, trí-tuệ tăng
thêm, chư Thiên vệ-hộ, hiện-thân không đau yếu, thọ-mệnh
lâu dài; khi mệnh mất, được sinh lên nội-cung của đức
Di-Lặc, trông thấy tướng bạch-hào của Ngài liền siêu-việt
sinh-tử, trong ba hội Long-Hoa(67) sẽ được giải-thoát và tùy
ý vãng-sinh trong mười phương Tịnh-độ, thấy Phật, nghe
pháp, nhập chính-định-tụ(68) chóng thành trí-tuệ vô-thượng
chính-đẳng chính-giác của Như-Lai.(69)
Ghi chú:
1 Báo-ân: Những người có ơn
đức với mình, mình tận-tâm, chí-lực đền đáp lại.
2 Di-Lặc: Tiếng Phạm gọi là
“Mai-đê-lê” (Maitrya) Tàu dịch nghĩa là “Từ-Thị”. “Di-Lặc” là tên họ, chính tên
là “A-dật-đa” (Adjita), Tàu dịch nghĩa là “Vô-năng-thắng”. Ngài sinh trong họ
Bà-la-môn, thuộc Nam-Ấn-độ. Ngài là vị Bổ-xứ Bồ-tát, nối Phật Thích-Ca làm
Giáo-chủ cõi Sa-bà sau này.
3 Như-như-lý, như-như trí:
“Như-như”: lý-thể của pháp-tính bình-đẳng không hai, nên gọi là “như” và các
pháp này, nọ đều “như”, nên gọi là “như-như”, là chính-trí hợp với lý-thể.
Đại-thừa Nghĩa-chương nói: “Như-như là chính-trí hợp với lý-thể: thể của các
pháp đồng, nên gọi là “như”. Trong “nhất-như”, thể của nó đầy-đủ trong
pháp-giới Hằng-sa Phật-pháp, tùy pháp phân-biệt “như”, thời nghĩa “như” chẳng
phải một, mà này, nọ đều “như”, nên gọi là “như-như”. “Như” không hư-vọng, nên
trong kinh cũng gọi là “Chân-như”. “Như-như-lý” là lý thể như-như.
“Như-như-trí” là trí-tuệ hợp lý-thể như-như.
4 Tương-ứng: Có nghĩa là
khế-hợp với nhau.
5 Bất-cộng : Công-đức của
Phật không cộng đồng với các hàng Nhị-thừa, Bồ-tát nên gọi là “bất-cộng”. Theo
trong kinh thời đức bất-cộng của Phật có 18 pháp: 1/ Thân không lầm. 2/ Miệng
không lầm. 3/ Niệm không lầm. 4/ Không có tưởng khác. 5/ Không có cái gì là
không định tâm. 6/ Không có cái gì là không biết xả. 7/ Lòng mong muốn độ-sinh
không diệt (chữ “diệt” có chỗ lại in là chữ “giảm”). 8/ Tinh-tiến không diệt.
9/ Niệm không diệt. 10/ Tuệ không diệt. 11/ Giải-thoát không diệt. 12/
Giải-thoát tri-kiến không diệt. 13/ Hết thảy nghiệp thân làm theo trí-tuệ. 14/
Hết thảy nghiệp khẩu làm theo trí-tuệ. 15/ Hết thảy nghiệp ý làm theo trí-tuệ.
16/ Trí-tuệ biết được đời quá-khứ không bị chướng-ngại. 17/ Trí-tuệ biết được
đời vị-lai không bị chướng-ngại. 18/ Trí-tuệ biết được đời hiện-tại không bị
chướng-ngại.
6 Đoạn trên từ câu “Bấy giờ,
đức Thế-Tôn…” đến chỗ “chính-giác” là đức Phật khen các Bồ-tát tới nghe pháp và
Ngài nói Ngài sẽ thuyết về diệu-pháp Tâm-địa. Ngài than chúng-sinh không biết
hướng về Đại-thừa. Song, nếu ai biết, nghe qua diệu-pháp này sau sẽ thành Phật.
7 Tư-lương: “Tư” là tư-trợ
(giúp-đỡ), “lương” là lương-thực. Như người đi xa phải nhờ lương-thực giúp đỡ
thân mình. Người tu-hành muốn chứng quả Tam-thừa, cần phải lấy công-đức
thiện-căn làm lương-thực, để giúp-đỡ thân mình.
8 Đoạn trên , từ chỗ “Khi
ấy…” đến chỗ “báo-ân” là nói về các ông Trưởng-giả nghe Phật nói về pháp-môn
Tâm-địa của Đại-thừa khó quá không muốn, chỉ muốn tu về Nhị-thừa chóng và mới
là báo-ân.
9 Đoạn trên từ chỗ “Đức
Phật…” đến chỗ “gánh chịu”, đức Phật khen các ông Trưởng-giả và Ngài nói:
thế-gian, xuất-thế-gian có 4 ơn.
10 Chiên-đàn (Candana): Tên
một thứ gỗ thơm ở núi Ma-la-da, Nam Ấn-độ. Núi này hình đầu. trâu nên gọi là
Ngưu-đầu. Có chỗ gọi là Ngưu-đầu chiên-đàn, Tàu dịch là “dữ-lạc” (cho vui), vì
nó chữa được bệnh.
11 Đoạn trên, từ chỗ
“Thiện-nam-tử ! Ơn cha mẹ…” cho đến chỗ “báo ơn phụ mẫu như thế!” đức Phật
giải-thuyết rõ về ơn cha mẹ; nhất là ơn mẹ đối với con phải báo đáp lại.
12 Đoạn trên, từ chỗ
“Thiện-nam-tử ! Ơn chúng-sinh…” cho đến đây, đức Phật nói rõ về chúng-sinh
trong 3 đời đều là thân-thích với nhau, cần phải làm lợi-ích cho nhau.
13 Tám-nạn: Thấy Phật, nghe
pháp có 8 chỗ chướng-nạn: 1/ Địa-ngục. 2/ Ngã-quỉ. 3/ Súc-sinh. 4/ Bắc
Câu-lô-châu được hưởng quả-báo vui sướng thù-thắng, cho là không có khổ. 5/ Ở
các cõi trời trường-thọ, an-ổn, cho là không có khổ. 6/ Điếc, mù, câm, ngọng.
7/ Trí đời biện-thông. 8/ Sinh trong khoảng giữa đức Phật trước, đức Phật sau.
14 Ngũ-cốc: 5 giống thóc:
lúa nếp, kê, đậu, lúa mì, lúa sạ.
15 Đoạn trên từ chỗ “Ơn
quốc-vương….” “đến chỗ như thế!” đức Phật nói rõ phúc-đức và ảnh-hưởng sự cai
trị của vị Nguyên-thủ chân-chính trong một nước rất lớn lao, cùng ảnh-hưởng về
hành-động của người dân đối với quốc-gia cũng rất hệ-trọng.
16 Đoạn trên, nêu chung chỗ
tu nhân và công-đức Tam-bảo đối với chúng-sinh.
17 Ba-thân: Chư Phật có 3
thân: 1/ Tự-tính-thân: thể-tính chân-như pháp-giới thanh-tịnh, bình-đẳng trong
hết thảy pháp. Còn gọi là “Pháp-thân” là chân-thân của Phật đầy-đủ vô-lượng
pháp-công-đức. 2/ Thụ-dụng-thân hay là “báo-thân”: Do tu nhiều công-đức được
quả-báo sắc-thân thanh-tịnh, trang-nghiêm và được hưởng pháp-lạc rộng lớn
nhiệm-mầu. 3/ Biến-hóa-thân: Do Phật-trí biến hóa nhiều thân, tùy theo căn-cơ
chúng-sinh mà hóa-độ.
18 Đại-đoạn-đức: Đoạn-trừ
hoàn-toàn hết thảy phiền-não; đầy-đủ vô-thượng Niết-bàn.
19Nhị không : Hai thứ
“không”, chia làm 5 loại:
A.- 1/ Nhân không (còn gọi
là ngã-không, sinh-không): người và ta là không. 2/ Pháp-không: các pháp là
không.
B.- 1/ Tính-không: pháp
không có thực-tính. 2/ Tướng-không: pháp không có thực-tính chỉ có giả-tướng,
tướng ấy chẳng phải thực.
C.- 1/ Đản-không: Tiểu-thừa
chỉ cần thấy không. 2/ Bất đản không: Đại-thừa không những thấy không, mà cả
cái thấy không cũng không.
D.- 1/ Nội không: Nội-thân
là không. 2/ Ngoại-không: Khí-vật bên ngoài là không.
E.- 1/ Như-thực-không: thể
chân-như, trong không có các vọng-nhiễm. 2/ Như-thực bất không: thể chân-như
trong đủ hết thảy công-đức vô-lậu.
20 Toàn câu “Phật thân thứ
nhất…” này nói: về tự-tính-thân, thể khắp pháp-giới, bình-đẳng thanh-tịnh, đoạn
diệt hết thảy, nhân-không, pháp-không hiển-lộ, nên chư Phật chứng tự-tính-thân,
là thể-nhập bình-đẳng.
21 Đại-trí-đức: Phá
hoàn-toàn hết thảy sự mê-lầm không biết ; đầy-đủ vô-thượng-giác.
22 Toàn câu “Phật thân thứ
hai…” này nói: Báo-thân do trí-tuệ thành, thành với lẽ chân-thực, thường hằng,
không dò-rỉ, không biến-đổi. Không biến-đổi, là thường-hằng, chân-thực, tức là
không còn sự suy-lường về ngã-tính, mà đồng một ý trong chung cùng và bình-đẳng
tất cả; nghĩa là Phật, Phật đều đồng.
23 Đại-ân-đức: Đầy-đủ
hoàn-toàn tâm đại-bi, cứu giúp hết thảy chúng-sinh.
24 Toàn câu “Phật thân thứ
ba…” này nói: chư Phật đồng một tâm đại-bi, đồng một sự độ-sinh, nên tùy cơ
nhập-định, hiện thần-thông và thị-hiện thân-hình.
25 Hí-luận : Bàn đùa. Là
ngôn-luận phi-lý, vô-nghĩa, là giả-danh không thực.
26 Toàn câu “tự-tính-thân…”
này đại-ý nói : pháp-thể của nó không còn sinh-diệt, tạo-tác, không còn
danh-ngôn giả đặt, không còn cục-hạn, mà nó là như-như và cùng khắp.
27 Tự-thụ-dụng thân: Thân do
tu phúc-đức, trí-tuệ thành, tự được hưởng-thụ sự vui của pháp-vị trong cõi thực-báo
trang-nghiêm.
28 Tha-thụ-dụng-thân: Đem
tính-đức do quả-báo mình được, hiện ra 10 thân, làm cho các Bồ-tát Thập-địa
được hưởng-thụ sự vui của pháp-vị.
29 Thập-địa-mãn-tâm:
Thập-địa là: 1/ Hoan-hỷ-địa 2/ Ly-khổ-địa. 3/ Phát-quang-địa. 4/ Diệm-tuệ-địa.
5/ Nan-thắng-địa. 6/ Hiện-tiền-địa. 7/ Viễn-hành-địa. 8/ Bất-động-địa. 9/
Thiện-tuệ-địa. 10/ Pháp-vân-địa. Mười bậc này đều gọi là “địa”, vì thâu tóm các
công-đức hữu-vi và vô-vi, dùng làm tự-tính, cùng làm chỗ nương tựa chắc-chắn
hơn cả cho sự tu-hành, khiến hay sinh-trưởng, cho nên gọi là “địa”. Thập-địa
mãn-tâm tức là ngôi Đẳng-giác.
30 Sắc-cứu-cánh-thiên: Tiếng
Phạm gọi là A-ca-ni-tra thiên (Akanistha). Tên một cõi trời cao nhất trong 18
cõi của Sắc-giới.
31 Câu này ví-dụ cho địa-vị
tối-cao của Bồ-tát.
32 Hậu-báo: Đây là nói
quả-báo tối-hậu của Bồ-tát.
33 Sở-tri-chướng,
phiền-não-chướng: Đây là hai chướng: 1/ Phiền-não-chướng: Nghiệp buộc
chúng-sinh trong sinh-tử, do đó, làm chướng-ngại lý Niết-bàn tịch-tĩnh. 2/
Sở-tri-chướng: tham, sân, si… làm mê-ám, không hiểu biết được sự-tướng và
thực-tính của các pháp, tức là làm chướng-ngại diệu-trí bồ-đề.
34 Đoạn trên, từ chỗ
“chân-báo-thân…” đến chỗ “pháp-giới” là nói: do diệt-trừ hết phiền-não, thành
diệu-quả, là được chân-báo-thân (tự-thụ-dụng-thân). Được chân báo-thân thời kể
từ đó là đầu, nên gọi là “hữu thủy” nhưng, “vô chung”, nghĩa là sự sống lâu
không cùng-tận. Và, từ khi được chân-báo-thân, chính-báo trang-nghiêm cùng
khắp.
35 Pháp-lạc : Lấy pháp-vị
làm vui tâm-thần gọi là “pháp-lạc”. Làm thiện, tích-đức, để tự vui cũng là
“pháp-lạc”.
36 Dị-thục (Vipaka): Xưa
dịch là “quả-báo”, nay dịch là “dị-thục”. Dị-thục là tên chung của quả-báo do y
vào thiện, ác quá-khứ mà được. Và, nó có tính-chất quả khác nhân mà thành-thục,
như thiện-nghiệp cảm lạc-quả, ác-nghiệp cảm ác-quả v.v…Theo Duy-thức thuật-ký
thời “Dị-thục hoặc khác thời mà chín (dị thời nhi thục), biến khác mà chín
(biến dị nhi thục), khác loại mà chín (dị loại nhi thục). Di-thục-thức là tên
riêng của thức thứ 8.
37 Chân-đế, tục-đế:
“Chân-đế”: thực-nghĩa của chân-lý, là thực-nghĩa mà các bậc Thánh nhận thấy.
Còn gọi là “không-đế” hay “thắng-nghĩa-đế”. “Tục-đế”: thực-nghĩa của việc
thế-tục. Còn gọi là “giả-đế” hay “thế-đế”.
38 Đoạn trên từ chỗ “Một
là”… đến chỗ “công-đức” là nói: do chuyển thức thứ 8 mà thành Đại-viên-kính
trí. Nơi đây bao gồm bi, trí, chân, tục-đế, duy-trì căn-thân vô-lậu và làm chỗ
y-chỉ cho hết thảy công-đức.
39 Ngã-kiến-thức: “Ngã-kiến”
là “chấp-ngã”: thân tâm này do 5 uẩn giả-hợp, lại coi là “thường hằng”, đối với
cái “phi-ngã-chấp”, chấp càn là “ngã” (ta), nên gọi là “ngã-kiến”.
Ngã-kiến-thức tức là thức Mạt-na thứ 7. Thức này phân-biệt, chấp thức thứ 8 làm
“ngã”. Thức này luôn luôn tương-ứng với si, kiến, mạn, ái nên gọi là
“ngã-kiến-thức”. Chuyển thức này, nghĩa là trừ bỏ được chấp-ngã, thành
“Bình-đẳng tính-trí”.
40 Phân-biệt-thức: Tức là
Ý-thức thứ 6. Đối với 6 trần, các cảnh, thức này hay khởi ra sự phân biệt, gọi
là “Phân-biệt-thức”. Chuyển thức này, nghĩa là bỏ được sự phân biệt, thành
“Diệu-quán-sát-trí”.
41 Tự-tướng, cộng-tướng: Các
pháp có hai tướng: Tướng riêng là “tự-tướng”, tướng chung là “cộng-tướng”.
Tướng cục-hạn nơi tự-thể là “tự-tướng”; tướng thông cả với người gọi là
“cộng-tướng”.
42 Đoạn trên, từ chỗ “Hai
là…” đến chỗ “Như-Lai” là nói về chuyển thức thứ 7, thức 6 cùng 5 thức trước
thành trí-tuệ; do 4 trí này thành 84.000 trí. Và, kết-thành cho rằng
tự-thụ-dụng-thân có hết thảy các công-đức.
43 Nhất-thừa: Giáo-pháp
duy-nhất để thành Phật. “Thừa” là cỗ xe, lấy ví-dụ cho giáo-pháp của Phật.
Giáo-pháp hay chở người, đi đến bờ Niết-bàn, nên gọi là “Thừa”.
44 Ba mươi hai tướng: 1/
Lòng bàn chân bằng. 2/ Lòng bàn chân có nghìn vòng xoáy. 3/ Ngón tay thon dài.
4/ Tay chân mềm-mại. 5/ Tay, chân có màng lưới giao-tiếp. 6/ Gót chân đầy-đặn.
7/ Mu chân cao đẹp. 8/ Vế tròn lăm như con hươu. 9/ Tay dài quá gối. 10/
Dương-vật ẩn-tàng như dương-vật con ngựa. 11/Mình cao lớn, từ chân đến đầu cao
bao nhiêu, 2 tay duỗi ra cũng bằng ấy. 12/ Lỗ chân lông sinh sắc xanh. 13/ Lông
trên mình chia xoáy hướng đều. 14/ Thân sắc vàng. 15/ Luôn luôn có hào-quang
phóng xa một trượng. 16/ Da-dẻ mịn bóng. 17/Bảy nơi: 2 lòng bàn chân, 2 lòng
bàn tay, 2 vai và đỉnh đầu đều đầy, bằng. 18/ Hai nách đầy-đặn. 19/ Thân
uy-nghiêm như sư-tử. 20/ Thân hình đoan-chính. 21/ Vai tròn , đầy. 22/ Có 40
cái răng. 23/ Răng trắng, bằng và khít. 24/ Bốn răng nanh trắng sạch. 25/ Má
đầy như má sư-tử. 26/ Nước tân-dịch trong cổ họng có thượng-vị. 27/ Lưỡi dài,
rộng. 28/ Tiếng phạm-âm (thanh-tịnh) vang xa và sâu nhiệm. 29/ Con ngươi mắt
xanh-biếc. 30/ Lông mi mắt cong dài, đẹp như lông mi mắt trâu. 31/ Khoảng giữa
hai lông mày có tia hào-quang trắng. 32/ Đầu có nhục-kế (thịt nổi lên như búi
tóc).
45 Tám mươi thứ tốt: 80 thứ
(giống) tốt này y theo 32 tướng mà phân-biệt tỷ-mỷ ra: 1/ Vô-kiến-đỉnh (tướng
nhục-kế cao không trông thấy được). 2/ Mũi cao không thấy lỗ. 3/ Lông mày như
mặt trăng đầu tháng mới mọc. 4/ Vành tai rủ xuống. 5/ Mình dắn chắc như lực-sĩ.
6/ Chỗ đầu xương giao nhau như vòng câu. 7/ Khi quay lại, nhất thời thân quay
lại như voi quay lại. 8/ Khi đi, chân cách đất 4 tấc, mà đất vẫn có vằn in
xuống. 9/ Móng tay, chân mỏng, bóng và đỏ như đồng đỏ. 10/ Xương đầu gối dắn,
tròn và đẹp. 11/ Thân thanh-khiết. 12/ Thân mềm-mại. 13/ Thân không
nghiêng-vẹo. 14/ Ngón tay tròn, thon, nhỏ. 15/ Vằn ngón tay lặn khuất. 16/ Mạch
sâu không nổi. 17/ Mắt cá chân không nổi. 18/ Thân bóng đẹp. 19/ Thân tự giữ
được không xiên-xẹo. 20/ Thân đầy-đủ. 21/ Dung-nghi bị-túc. 22/ Dung-nghi
đầy-đủ. 23/ Trụ-xứ yên không động. 24/ Uy-đức chấn-động hết thảy. 25/ Hết thảy
chúng-sinh thấy đều vui. 26/ Mặt không dài, lớn. 27/ Dung-mạo nghiêm-chỉnh, sắc
không biến-đổi. 28/ Mặt tròn đầy. 29/ Môi sắc đỏ như quả Tần-bà. 30/ Tiếng nói
vang xa, sâu-nhiệm. 31/ Rốn sâu, tròn, đẹp. 32/ Lông xoáy về bên hữu. 33/ Tay,
chân đầy-đặn. 34/ Tay, chân như ý. 35/ Vằn tay thẳng, rõ. 36/ Vằn tay dài. 37/
Vằn tay không đứt. 38/ Hết thảy chúng-sinh có ác-tâm trông thấy đều vui-mừng.
39/ Mặt rộng đẹp lạ. 40/ Mặt đầy-đặn, trong-trẻo như mặt trăng. 41/ Theo ý
hòa-duyệt của chúng-sinh mà nói. 42/ Từ nơi lỗ chân lông tỏa ra hơi hương. 43/
Từ miệng tỏa ra mùi hương vô-thượng. 44/ Nghi-dung như sư-tử. 45/ Đi, ở như voi
đầu đàn. 46/ Tướng đi như con ngan đầu đàn. 47/ Đầu như quả Ma-đà-na. 48/
Đầy-đủ hết thảy tiếng. 49/ Bốn răng nanh trắng nhọn. 50/ Lưỡi màu đỏ. 51/ Lưỡi
mỏng. 52/ Lông màu đỏ. 53/ Lông mềm sạch. 54/ Mắt dài rộng. 55/ Đủ tướng
tử-môn. 56/ Tay, chân trắng hồng như màu hoa sen. 57/ Rốn không lồi ra. 58/
Bụng không phình. 59/ Bụng nhỏ. 60/ Thân không rung-động, nghiêng-ngả. 61/ Thân
trì-trọng. 62/ Thân to lớn. 63/ Thân cao. 64/ Tay chân mềm, sạch, trơn bóng.
65/ Hào-quang bốn bên phóng ra xa một trượng. 66/ Ánh sáng soi cho thân đi. 67/
Coi chúng-sinh bình-đẳng. 68/ Không khinh chúng-sinh. 69/ Theo giọng tiếng
chúng-sinh, không thêm, không bớt. 70/ Thuyết-pháp không chấp trước. 71/
Thuyết-pháp theo tiếng nói của chúng-sinh. 72/ Cất giọng nói hợp tiếng
chúng-sinh. 73/ Theo nhân-duyên thuyết-pháp lần-lượt. 74/ Hết thảy chúng-sinh
xem dung-tướng mãi không hết. 75/ Xem không thấy chán và đủ. 76/ Tóc dài đẹp.
77/ Tóc không rối. 78/ Tóc cuộn đẹp. 79/ Màu tóc như ngọc xanh. 80/ Tay, chân
coi dáng có đức.
46 Hàng-Tư-lương: Tức
Tư-lương-vị là: Thập- trụ. Thập-hành và nửa phần trong Thập Hồi-hướng.
47 Tứ-thiện-căn: 4 thiện-căn
(tức Gia hành-vị), là 4 môn thiền-định và là mãn-vị của Thập hồi-hướng: 1/
Noãn: hơi nóng, ví cho lửa trí-tuệ sắp phát-khởi. 2/ Đỉnh: ví như đỉnh núi có
thể lên xuống. 3/ Nhẫn: nhẫn-tiến. 4/ Thế-đệ-nhất: pháp tối-thắng hơn đời.
48 Saú Ba-la-mật: 1/ Đàn-na
(bố-thí) Ba-la-mật-đa (Dànapàramità). 2/ Thi-la (trì-giới) Ba-la-mật-đa
(Silapàramità). 3/ Sàn-đề (nhẫn-nhục) Ba-la-mật-đa (Ksantipàramità). 4/
Tì-lê-gia (tinh-tiến) Ba-la-mật-đa (Viryapàramità). 5/ Thiền-na (thiền-định)
Ba-la-mật-đa (Dhyànapàramità). 6/ Bát-nhã (tuệ) Ba-la-mật-đa (Prajnàpà-ramità).
49 Mười hai nhân duyên: 1/
Vô-minh. 2/ Hành. 3/ Thức. 4/ Danh-sắc. 5/ Lục-nhập. 6/ Xúc. 7/ Thụ. 8/ Ái. 9/
Thủ. 10/ Hữu. 11/ Sinh. 12/ Lão tử.
50 Tứ-đế: Khổ, tập, diệt,
đạo.
51 Đây là mười hiệu của Phật
:
1/ Như-Lai: (Đa đà a già đà:
Tathàgata): Noi theo đạo như thực, thành ngôi chính-giác,
2/ Ứng-cúng (A-la-ha:
Arhat): Ứng-thụ sự cúng-dàng của Nhân, Thiên.
3/ Chính-biến-tri (Tam miệu
tam Phật-đà: Samya Ksambuddha): Chính thực biết khắp hết thảy mọi pháp.
4/ Minh-hành-túc (Bệ đa thứ
la na tam bát na: Vidyàcaranampanna): Thực-hành đầy-đủ ba phép minh: a.-
Túc-mệnh-minh: Biết tướng sinh-tử đời trước của thân mình và thân người. b.-
Thiên-nhãn-minh: Biết tướng sinh-tử đời vị-lai của thân mình và thân người. c.-
Lậu-tận-minh: Trí-tuệ biết khổ-tướng hiện-tại, dứt hết thảy phiền-não.
5/ Thiện-thệ (Tu-già-đà:
Sugata): Nghĩa là “đi tốt”. Ý nói: dùng Nhất-thiết-trí làm xe, đi trên đường
bát chính, rảo tới Niết-bàn.
6/ Thế-gian-giải (Lộ-già-bị:
Lokavid): Hiểu rõ những sự thuộc hữu-tình và phi-tình ở thế-gian.
7/ Vô-thượng-sĩ
(A-nốc-đa-la: Anuttara): Trong các pháp, Niết-bàn là hơn cả và, trong hết thảy
chúng-sinh, Phật là vô-thượng.
8/ Điều-ngự trượng-phu: (Phú
lâu sa nẵng miệu bà la đề: Puru-sa-dnmya-sàrathi): Phật tùy thời dùng lời
hòa-dịu, tùy thời dùng lời khổ thiết…trông nom, điều-trị chúng-sinh, làm cho họ
không trái đạo, mà đi vào thiện-đạo.
9/ Thiên-nhân-sư: (Xá đa đề
bà ma nâu sa nẫm: Sastà-deavama-nusyànàm): Phật là bậc Đạo-sư cõi Nhân, cõi
Thiên, thường hay dạy bảo những sự nên làm.
10/ Phật, Thế-tôn (Phật-đà,
Lô-ca-na-tha: Buddha-Locanatha): Phật nghĩa là người giác-ngộ, Thế-Tôn có nghĩa
là được thế-gian tôn-trọng. Thế-Tôn còn có chỗ gọi là Bạc-già-phạm (Bhagavàn).
52 Đoạn trên , từ chỗ
“Thiện-nam-tử!” (trang 38) đến chỗ “chứng Bồ-đề” là nói về Tha-thụ-dụng-thân
của Phật-bảo. Phật-bảo biến-hóa nhiều thân độ cho các Bồ-tát Thập-địa,
Nhị-thừa, Nhân, Thiên chóng được cứu-cánh Niết-bàn. Vì vậy, Phật-bảo có 10
hiệu, 6 công-đức vi-diệu. Và, sở-dĩ chúng-sinh không được thấy Phật-bảo, vì
chúng-sinh tạo nhiều ác-nghiệp.
53 Thanh, danh, cú, văn: Là
tiếng nói của Phật nói ra những giáo-pháp cao-siêu (vô-lậu) nhưng, phải dùng
đến tên gọi, đặt thành từng câu và văn-tự để làm cửa hiển-lộ.
54 Bốn loại ma: 1/ Phiền-não
ma (tham, sân, si ). 2/ Ngũ-ấm-ma (sắc, thụ, tưởng, hành, thức ). 3/ Tử-ma (sự
chết). Tha-hóa-tự-tại-thiên-ma.
55 Bảo-sở: Nơi có những ngọc
báu. Đây ám-chỉ cho Nhất-thừa, Bồ-đề, Niết-bàn.
56 Đoạn trên, từ chỗ “Các
thiện-nam-tử!....” (trang 41) cho đến chỗ “không thể nghĩ, bàn được” là nói về
Pháp-bảo. Pháp-bảo có: giáo, lý, hành, quả. Pháp-bảo là thầy chư Phật, là tất
cả những cái đem lại lợi-ích an-vui cho chúng-sinh và tới chỗ giải-thoát.
57 Biệt-giải-thoát-giới: Là
một trong ba thứ luật-nghi. Trong Dục-giới, y vào sự tác-pháp thụ các
giới-pháp, giới-pháp ấy phát-sinh giới-thể, làm cho thân, khẩu ác-nghiệp được
giải-thoát riêng-biệt.
58 Xá-lỵ (Sarira): Có chỗ
gọi là “Thất-lỵ-la” hay “Thiết-lỵ-la”. Có nghĩa là thân cốt của Phật. Xá-lỵ do
vô-lượng công-đức lục-độ họp thành, là do sự huân-tu của Giới, Định, Tuệ mà
thành. Xá-lỵ có 3 hình sắc: sắc trắng là xá-lỵ bằng xương; sắc đen là xá-lỵ
bằng tóc; sắc đỏ là xá-lỵ bằng thịt. Và, có 2 loại xá-lỵ: 1/ Toàn thân xá-lỵ:
Như xá-lỵ Phật Đa-bảo (trong kinh Pháp-hoa). 2/ Toái-thân-xá-lỵ: Thân đốt vụn
ra như thân đức Phật Thích-Ca. Lại có hai thứ nữa: 1/ Sinh-thân-xá-lỵ: Thân do
tu Giới, Định, Tuệ mà thành, Như-Lai sau khi nhập-diệt lưu lại thân cốt, làm
cho Nhân, Thiên được phúc-đức cúng-dàng mãi-mãi. 2/ Pháp thân-xá-lỵ: Tức là hết
thảy kinh sách Đại, Tiểu-thừa.
59 Đoạn trên, từ chỗ
“Thiện-nam-tử! Thế-gian…” (trang 42) đến chỗ “không thể nghĩ-bàn được”, đức
Phật nói rõ về giới-đức của 3 hạng Chân-phúc-điền-tăng và một hạng
Phúc-điền-tăng. Ai cúng-dàng 4 hạng Tăng ấy đều được phúc-đức vô-lượng.
60 Bể bất-tư-nghị:
“Bất-tư-nghị”: hoặc là lý sâu-sa, huyền-diệu, hoặc là sự hiếm có lạ-lùng, không
thể dùng tâm suy-nghĩ và không thể dùng lời bàn-bạc được. Đây nói Tam-bảo có
nhiều sự, lý bất tư-nghị ấy nên gọi là “bể bất-tư-nghị”.
61 Bình Thiên đức: Cái bình
hiện ra tất cả những thứ theo như tâm mong muốn, như ngọc Như-ý vậy. Kinh
Hoa-Nghiêm nói: “Tâm bồ-đề là bình Thiên-đức, cho đầy-đủ hết thảy sự mong
muốn.”
62 Tám thứ gió: Còn gọi là 8
pháp. Có 8 pháp là chỗ yêu, ghét của thế-gian, nó hay thổi động tâm người, nên
gọi là “tám thứ gió”: 1.- Lợi. 2.- Suy (kém, sút). 3.- Hủy (nói xấu). 4.- Dự
(khen-ngợi). 5.- Xưng (tâng bốc). 6.- Cơ (quở-trách). 7.- Khổ. 8.- Lạc
(vui).
63 Đoạn trên, từ chỗ “Bấy
giờ….” ( trang 43) đến chỗ “như thế”, đức Phật nói: Phật, Pháp, Tăng có 10
nghĩa cao-quý, nên được gọi là “Bảo”. Vậy nên cần báo ân.
64 Ba bậc: Tức là danh-tự,
thân-cận và chân-thực.
65 Nhẫn-nhục tam-muội:
“Tam-muội” là chính-định; “Nhẫn” là nhẫn-khả (an-trụ), tức là y vào pháp-nghĩa
của Như-Lai nói ra, nhẫn-khả nơi tâm được an-lạc. “Nhẫn-nhục tam-muội” là do
sức định an-trụ nơi đạo-lý, tâm không rung-động mà được yên-vui.
Theo các kinh nói thì :
Đẳng-giác Bồ-tát được Kim-cương-nhẫn (an-trụ kiên-cố như kim-cương). Bát-địa
Bồ-tát được Vô-sinh-nhẫn (an-trụ nơi không-lý không sinh, diệt bất động).
Địa-tiền Bồ-tát được Nhu-thuận-nhẫn (tâm nhu, trí thuận, không trái với
thực-tướng). Sơ-địa Bồ-tát được Bất-khởi-nhẫn (an-trụ nơi không-lý không sinh,
không khởi).
66 Bất thoái: Tiếng Phạm là
A-tỳ-bát-chí (Aviniv-artan hay Avaivartika), có nghĩa là công-đức, thiện-căn
càng tăng-tiến mà không lui mất, lui chuyển vậy. Bất-thoái có 3 bậc:
Vị-bất-thoái, hành-bất-thoái, niệm-bất-thoái.
67 Hội Long-hoa: Đức Di-Lặc
sau đây thành Phật ở dưới cây Long-hoa trong vườn Hoa-Lâm, Ngài mở 3 pháp-hội
độ hết chúng-sinh thượng, trung, hạ căn. Cây này cành hoa như đầu rồng nên gọi
là “Long-Hoa”.
68 Chính-định-tụ: Có nghĩa
là tu tập chính-định, quyết định chứng-ngộ.
69 Đoạn trên, từ chỗ “Khi
ấy, năm trăm ông Trưởng-gỉa…” đến chỗ “Như-Lai”. Đức Phật bảo các ông
Trưởng-giả muốn báo tứ-ân cần tu 3 bậc của 10 Ba-la-mật. Đại chúng nghe pháp
chứng-ngộ. Và , ngài khuyên: Ai thụ-trì, tuyên-bá phẩm báo-ân này thời đời này,
đời sau được nhiều lợi-ích.
0 Kommentare:
Post a Comment