Bí quyết tham Thiền là "triều
dã tư, tịch dã tư" (ngày tham cứu, đêm cũng tham
cứu). Tham cứu cái gì? Tham cứu "Niệm Phật là Ai?"
Ngày nay tham cứu, ngày mai tham cứu. Ngày ngày tại
Thiền-đường "thực hành Bát-nhã Ba-la-mật thâm
sâu," song không phải chỉ một thời gian ngắn là có thể
nếm được mùi vị Thiền ngay đâu...
Hoà Thượng Tuyên Hoá
Phật-giáo sau khi được truyền sang
Trung Hoa thì phân làm năm tông phái là Thiền, Giáo, Luật,
Tịnh, Mật. Thiền là Thiền-định; Giáo là Giáo-lý; Luật là
Giới-luật; Tịnh là Tịnh-độ; Mật là trì Chú. Lúc này là
lúc đả Thiền-thất, nên chỉ giảng về lý Thiền, còn bốn
tông phái kia thì tạm thời không đề cập đến.
Thiền-na, dịch là "Tư Duy Tu,"
nghĩa là thường tư duy, suy gẫm về một việc. Việc gì? Tức
là thoại đầu. Xem xét "Ai Niệm Phật?" gọi là tham
Thiền. Kỳ thật, tham thoại đầu cũng chỉ là vọng tưởng;
bất quá chúng ta dùng vọng tưởng để chế phục vọng
tưởng, "dĩ độc công độc," tức là lấy một vọng
tưởng để tiêu diệt nhiều vọng tưởng khác. Công phu tham
thoại đầu đòi hỏi phải trải qua thời gian dài thì mới
thành tựu, do đó nói: "Tham cứu lâu mới có
Thiền."
"Tham" cũng giống như lấy
cái khoan đục vào gỗ vậy. Chưa đục xuyên thủng thì chưa
ngừng, chẳng thể nửa đường bỏ phế; bởi nếu thế thì
công phu từ trước hoàn toàn vất bỏ. Tham Thiền, quan trọng
nhất là nhẫn nại được. Khi nhẫn nại đến chỗ tột đỉnh
thì có thể chẳng nảy sinh một vọng niệm nào cả. Khi
"một niệm chẳng sinh" thì có thể khai ngộ. Có câu:
"Ðầu sào trăm thước, dấn thêm một bước."
Nghĩa là khi quý vị ở đầu ngọn
sào dài trăm thước, quý vị vẫn tiếp tục bước thêm một
bước nữa. Lúc ấy, "mười phương thế giới đều hiện
toàn thể." Song, pháp môn này mỗi niệm lúc nào cũng tu
trì thì mới có hiệu quả; không thể lười biếng, không
thể buông lung. Trong Chứng Ðạo Ca có nói rằng:
Ðốn giác liễu Như Lai ThiềnLục Ðộ Vạn Hạnh thể trung viênMộng lý minh minh hữu Lục Thú,Giác hậu không không vô đại thiên.
Nghĩa là:
Thiền Như Lai thoát hiểu rồi.
Lục Ðộ, vạn hạnh, thể tròn đầy.Mộng thì rõ ràng có sáu nẻo,
Ngộ xong trống rỗng, chẳng đại thiên.
"Ðốn" tức là lập tức
giác ngộ một đạo lý. Rằng:
Lý khả đốn ngộ, sự tu tiệm tu.(Lý có thể hiểu ngay lập tức, song sự thì phải từ từ tu.)
Về "sự" thì chúng ta cần
phải tu từng bước một, còn về "lý" thì cần phải
hiểu rõ ngay tức khắc. Khi đốn-ngộ thì chúng ta biết giếng
ở đâu để đi lấy nước; còn lúc chưa đốn-ngộ thì
chúng ta chỉ nghe tiếng dây ròng rọc kéo nước mà không
biết giếng ở đâu. Ví dụ này thuyết minh Phật-tánh từ
đâu lại. Làm sao để chứng đắc Phật-tánh? Chứng
Phật-tánh không có pháp gì khác, chỉ một cách là tham
Thiền, ngồi Thiền.
Lục Ðộ là pháp môn Bồ-tát tu
hành. Bố thí thì "độ" tánh bỏn xẻn và tham lam. Trì
giới thì "độ" việc hủy phạm. Nhẫn nhục thì
"độ" tánh sân hận. Tinh tấn thì "độ" thói
giải đãi, biếng nhác. Thiền định thì "độ" sự tán
loạn. Trí huệ thì "độ" tâm ngu si. Khi Lục Ðộ tu
đến viên mãn thì mới khai ngộ đặng.
Chúng ta lúc nào cũng ở trong
mộng. Rằng:
Nhân sinh nhất trường mộng,Nhân tử mộng nhất trường.Mộng lýthân vinh quý,Mộng tỉnh tại cùng hương,Triều triều thị tác mộng,Bất giác mộng hoàng lương,Mộng trung nhược bất giác,Uổng tác mộng nhất trường.
Nghĩa là:
Người sống: một tràng mộng,
Người chết: mộng một tràng.
Trong mộng thân vinh quý,
Tỉnh mộng vẫn nghèo xơ,
Ngày ngày cứ nằm mộng,
Chẳng biết mộng "kê vàng,"
Nằm mộng mà chẳng biết,
Uổng thay mộng một tràng.
Lúc mộng, chúng ta thấy rõ ràng
có Lục-thú (sáu nẻo: trời, người, A-tu-la, súc sinh, ngạ
quỷ, địa ngục); đến lúc giác ngộ mới thấy tam thiên đại
thiên thế giới đều chẳng có. Vì sao? Vì không còn chấp
trước. Chẳng còn chấp trước thì đem vạn vật "phản
bổn hoàn nguyên"; như thế làm sao còn ngã tướng, nhân
tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng đặng? Mọi thứ
đều chẳng còn! Có người nghe rằng bốn tướng đều hết
thì chẳng dám tu hành, vì ngộ nhận rằng: "Tu đến cực
điểm thì người ta chẳng hiện hữu nữa, chúng sinh cũng
hết sạch, thọ giả cũng không còn, vậy thì sao đây? Lúc
ấy công việc làm cũng hết luôn, e rằng tôi sẽ thất
nghiệp mất!"
Quý vị nhất định cần có việc
làm sao? Vậy thì cứ tiếp tục điên đảo! Khi tu hành đến
chỗ không còn bốn tướng, thì quý vị sẽ "quét sạch
tất cả pháp, xa rời tất cả tướng," chứng đắc
Thực-tướng của mọi sự. Rằng:
Nhất pháp bất lập, vạn pháp giai không.(Một pháp chẳng lập, mọi sự đều không.)
Chẳng thể nói suông là mình hiểu
đạo lý này, mà chúng ta bắt buộc phải chân chính chứng
đắc cảnh giới "một pháp chẳng lập, mọi sự đều
không." Lúc ấy sẽ chẳng còn gì là khổ, chỉ hưởng
thọ sự an lạc.
Người ta ở đời, nếu không
chấp trước danh vọng thì cũng ôm chặt lợi lộc, không
chấp trước tiền tài, thì lại mê đắm sắc đẹp, do đó
không thể nhìn thủng (hiện tượng), chẳng thể buông bỏ
(mọi chấp trước). Muốn nhìn thủng, muốn buông bỏ, song lại
chẳng đặng. Vì sao chẳng kham? Bởi vì trong tâm có "con
quỷ" tinh tế và "con sâu" linh lợi tác quái, do
đó rất nhiều việc mình để lỡ cơ hội, đối diện với
Ðức Quán Âm mà chẳng nhận ra Ngài. Ðức Quán Âm
Bồ-tát ở ngay trước mặt, thế mà cứ đi tìm kiếm khắp
nơi. Ðó chính là bị điên đảo vọng tưởng chi phối vậy.
Chữ "tham" trong tham Thiền
có nghĩa là quán chiếu, quan sát. Quán chiếu cái gì? Quán
chiếu Bát-nhã. Nghĩa là trong mọi ý niệm, mọi thời điểm,
quý vị phải quan sát chính mình ở đây (tự tại),
đừng quan sát kẻ khác (tha tại). Hãy quán sát xem mình
có ở tại đây hay chăng-nếu mình ở đây thì có thể
tham Thiền, dụng công tu hành; nếu mình chẳng ở đây, tức
là mình khởi vọng tưởng lăng xăng, nghĩ ngợi vớ vẩn.
Thân tuy ở trong Thiền-đường, nhưng tâm lại dong ruổi tận
Nữu Ước hay Ý Ðại Lợi. Tới đâu cũng phan duyên, thành
ra không tự tại nữa.
Quán chiếu tự tại tức là
Bồ-tát. Quán chiếu không tự tại tức là phàm phu. Quán
chiếu tự tại là thiên đường. Quán chiếu không tự tại
là địa ngục. Nếu chúng ta quán chiếu với sự tự tại,
tâm không chạy ra ngoài, thì có thể "thực hành
Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu." Lúc tham Thiền, thân ngồi
tại Thiền-đường, tâm miên mật tham cứu liên tục, không
gián đoạn, thì mới đúng là thực hành Bát-nhã thâm
sâu, tìm được trí huệ. Khi đắc đại trí huệ thì mới
tới được bờ bên kia, bờ giải thoát.
Bí quyết tham Thiền là "triều
dã tư, tịch dã tư" (ngày tham cứu, đêm cũng tham
cứu). Tham cứu cái gì? Tham cứu "Niệm Phật là Ai?"
Ngày nay tham cứu, ngày mai tham cứu. Ngày ngày tại
Thiền-đường "thực hành Bát-nhã Ba-la-mật thâm
sâu," song không phải chỉ một thời gian ngắn là có thể
nếm được mùi vị Thiền ngay đâu. Quý vị phải trải qua
thời gian dài lâu mới được. Khi có công phu "thực
hành Bát-nhã Ba-la-mật thâm sâu" thì mới có thể
"soi thấy năm Uẩn đều không."
Năm Uẩn còn gọi là năm Ấm.
"Uẩn" có nghĩa là tụ tập; "Ấm" có nghĩa là
che đậy, bao phủ. Vì sao chúng ta không được tự tại, không
đắc giải thoát? Bởi vì chúng ta bị năm Ấm che phủ! Năm
Uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, và thức.
1. Sắc-uẩn: Có chướng ngại thì
gọi là sắc, có hình tướng cũng là sắc. Sắc-uẩn chẳng
không thì thấy sắc sẽ bị sắc-trần mê hoặc, nghe âm thanh
thì bị thanh-trần mê hoặc, ngửi mùi hương thì bị hương-trần
mê hoặc, nếm mùi vị thì bị vị-trần mê hoặc, tiếp xúc
với vật thì bị xúc-trần mê hoặc. Nếu khiến cho sắc-uẩn
là không, thì bên trong không có tâm, bên ngoài không có
hình tướng, xa gần không có vật thể. "Sắc" cũng
có nghĩa là đủ thứ sắc đẹp, nhan sắc khiến mắt ta hỗn
loạn, không nhận biết rõ ràng, mờ mịt giống như kẻ mù
vậy. Trong Ðạo Ðức Kinh có nói:
Ngũ sắc linh nhân mục manh,Ngũ âm linh nhân nhĩ lung,Ngũ vị linh nhân khẩu sảng.
Nghĩa là:
Năm sắc khiến mắt người mù,
Năm âm khiến tai người điếc,
Năm vị khiến miệng người đờ.
Những thứ ấy đều do bị sắc-uẩn
mê hoặc. Nếu phá được sắc-uẩn rồi, thì núi sông, đất
đai, thành quách, nhà cửa đều rỗng không cả, chẳng
còn gì rắc rối nữa. Do đó, sắc-uẩn chưa không, thì chúng
ta còn chấp trước ở sắc. Khi chấp trước ở sắc thì
không thể trừ khử được kiến-hoặc (sự mê muội
của cái thấy).
Kiến-hoặc là do khi gặp cảnh thì
khởi lòng tham ái. Cảnh giới tức là sắc. Khi đối trước
cảnh giới nào cũng sinh lòng tham lam hay yêu thích, tức là
có chấp trước. Kiến-hoặc có tám mươi tám phẩm; nếu
chặt đứt hết được thì sẽ chứng Sơ-quả A-la-hán.
Người tu Ðạo chúng ta, trước tiên cần phải đoạn tám
mươi tám phẩm kiến-hoặc vốn tồn tại trong Tam-Giới, rồi sau
đó mới đoạn trừ tám mươi mốt phẩm tư-hoặc ở
Tam-Giới.
Tư-hoặc là do mê muội chân lý
nên khởi phân biệt, tức là đối với tất cả đạo lý
mình không nhận thức được rõ ràng. Khi đoạn trừ hết
tám mươi mốt phẩm tư-hoặc thì sẽ chứng Tứ-quả A-la-hán.
2. Thọ-uẩn. "Thọ" là lĩnh
nạp lĩnh thọ, phát sinh cảm giác. Khi cảnh giới đến, chẳng
cần suy nghĩ gì, liền tiếp thụ lĩnh nạp, phát ra cảm giác.
Như ăn món gì, cảm giác thấy ngon, đó là "thọ."
Mặc áo đẹp, cảm thấy vui, cũng là "thọ." Ở nhà
tốt, cảm thấy thích, đó là "thọ." Ngồi xe tốt, có
cảm giác êm ái, đó cũng là "thọ." Khi thân tiếp
thọ bất kỳ thứ gì, cảm giác ra sao, đều gọi là
"thọ."
3. Tưởng-uẩn: tức là tư tưởng,
ý niệm. Vì năm Căn tiếp xúc, lãnh thọ cảnh giới của
năm Trần nên phát sinh ra đủ thứ vọng tưởng, đủ thứ
ý niệm. Chúng thoắt sinh ra thoắt diệt mất, khởi lên tác
dụng suy nghĩ đến sắc, đến thọ.
4. Hành-uẩn. Hành có ý nghĩa
thiên lưu, dời đổi, lúc tới lúc đi, lúc đi lúc tới,
chẳng khi nào ngừng nghỉ, trôi mãi không dừng. Ðộng cơ
làm ác làm thiện là ở trong tâm, song do vọng tưởng, suy
tư chi phối và phản ảnh qua những hành vi, cử chỉ của thân
khẩu ý (mọi hành vi ấy đều thuộc hành-uẩn).
5. Thức-uẩn. Thức có ý
nghĩa phân biệt; cảnh giới tới thì sinh tâm phân biệt. Ví
dụ: Thấy sắc đẹp thì sinh lòng vui thích, nghe lời ác thì
sinh lòng ghét bỏ, v.v...
Nếu phá thủng được năm Uẩn thì
sẽ vượt qua mọi khổ ách, cũng chẳng còn tai ách gì cả.
Vì sao chúng ta có tai ách? Bởi vì chúng ta chưa dẹp bỏ
được hai thứ chấp trước là chấp ngã và chấp pháp
(mọi sự mọi việc).
Trong bài Chứng Ðạo Ca của
Ðại sư Huyền Giác có nói:
Ngũ Uẩn phù vân không khứ lai;Tam Ðộc thủy bào hư xuất một.
Nghĩa là:
Năm Uẩn như mây trôi, chẳng đến đi,Ba Ðộc như bọt nước, giả có, mất.
Năm Uẩn xưa nay vốn không có tự
tánh, hệt như đám mây trôi, thoắt nhiên có, thoắt nhiên
mất. Khi không rõ thấu đạo lý này, chúng ta sẽ mãi bị
năm Uẩn che lấp, không thể tự tại, không đặng giải
thoát. Người tu Ðạo phải phá năm Uẩn. Như mây bay lại,
mặc nó lại; nếu nó trôi đi, mặc nó đi. Không cần chú ý
tới, không cần chấp trước nó. Ba thứ độc tham, sân, si
thì giống như bọt nước, vốn không có thực thể. Chúng
tự sinh ra rồi tự mất đi, nên đừng chấp trước vào
chúng. Bài "Chứng Ðạo Ca" lại nói:
Chứng Thực-tướng, vô nhân pháp,Sát-na diệt khước A-tỳ nghiệp.Nhược tương vọng ngữ cuống chúng sinh,Tự chiêu bạt thiệt trần sa kiếp.
Nghĩa là:
Chứng Thực-tướng, không nhân, pháp,Sát-na rũ sạch nghiệp A-tỳ.
Nếu đem lời dối, gạt chúng sinh,
Tự chịu cắt lưỡi hằng sa kiếp.
"Thực-tướng" tức là
"vô tướng, vô sở bất tướng" (không có hình
tướng gì, song không có gì chẳng phải là nó). Cũng có
nghĩa là "tảo nhất thiết pháp, ly nhất thiết tướng"
(quét sạch tất cả mọi pháp mọi sự; rời bỏ mọi hình
tướng, mọi quan niệm). Có thể nói là "phản bổn hoàn
nguyên, chứng đắc tự tánh thanh tịnh." Tới được
cảnh giới này thì cũng chẳng có người, chẳng có pháp.
Nhân, pháp đều quên hết. Cũng không còn chấp người, hết
luôn chấp pháp (mọi sự mọi việc). Ðó là chứng đắc lý
và thể của Thực-tướng. Lúc ấy chỉ trong sát-na, có thể
tất cả tội nghiệp đọa địa ngục Vô-gián đã tạo ra trong
vô lượng kiếp về trước lập tức tiêu diệt hoàn toàn.
Ðại sư Vĩnh Gia nói rằng: "Nếu tôi đem lời giả dối
để gạt gẫm chúng sinh, tôi xin cam tâm tình nguyện xuống địa
ngục rút lưỡi, chịu khổ trong vô số kiếp nhiều như cát
bụi vậy."
Lúc ở Thiền-đường, quý vị hãy
chân thật tu hành. Giống như kéo tằm, quý vị phải nhẫn
nại, từ từ kéo từng sợi tơ thì mới không bị rối.
Chớ nên tự cho mình là thông minh, muốn tìm đường tắt,
muốn dùng phương pháp khoa học để khai ngộ; đó chỉ là suy
nghĩ vớ vẩn. Nếu khoa học có thể làm cho khai ngộ, thì các
nhà khoa học gia đã không tự chui vào thế kẹt, họ đã
sớm khai ngộ từ lâu rồi và chẳng ai có thể dự phần
để khai ngộ với họ đâu! Chớ nên nghĩ ngợi mông lung mà
phải thành thật, đúng phép mà tham cứu "Niệm Phật là
Ai?" Lưng mỏi cũng phải chịu, chân đau cũng phải nhẫn;
nhẫn nại mãi sẽ tới lúc quý vị khai ngộ. Rằng:
Bất kinh nhất phiên hàn triệt cốt,Chẩm đắc mai hoa phác tỵ hương?
Nghĩa là:
Không qua một lần lạnh buốt xương,
Sao được hoa mai tỏa ngát hương?
Quý vị hãy chú ý! Chớ quá
thông minh rồi lại bị sự thông minh đánh lừa mình. Phải
nhớ: Một phần nỗ lực tu hành là một phần công phu. Tu
hành là chân thật công phu, không phải "khẩu đầu
thiền" (thiền nói suông). Chỉ nói suông mà không thực
hành, thì không ích lợi gì. "Thiền nói suông" chẳng
những không giúp gì việc khai ngộ mà ngược lại còn
chướng ngại là khác. Do đó nói: "Không nói, mới là
Thiền."
Một niệm linh quang có thể triệt
chiếu thiên địa, quý vị cùng mười phương ba đời chư Phật
chẳng hề khác biệt. Vì sao chúng ta không thể chứng đắc Tam
Thân, Tứ Trí, Ngũ Nhãn, Lục Thông? Vì kẻ phàm phu chúng ta
vọng tưởng quá nhiều, do đó trí huệ bị che khuất, chẳng
có quang minh, thành ra vô minh. Cả ngày cứ khởi mê hoặc,
tạo nghiệp, nên thọ nhận quả báo đau khổ trong vòng sinh
tử.
Tam Thân tức là Pháp-thân,
Báo-thân, Ứng-thân (hoặc Hóa-thân).
Tứ Trí tức là Thành-sở-tác
Trí, Diệu-quán-sát Trí, Bình-đẳng-tánh Trí, Ðại-viên-kính
Trí.
Ngũ Nhãn tức là Nhục-nhãn,
Thiên-nhãn, Pháp-nhãn, Huệ-nhãn, Phật-nhãn.
Lục Thông tức là Thiên-nhãn
Thông, Thiên-nhĩ Thông, Tha tâm Thông, Túc-mạng Thông,
Thần-túc Thông, Lậu-tận Thông.
Khi quý vị không có vọng tưởng
gì thì mới chứng đắc những cảnh giới này. Ðây chẳng
phải là thứ triết lý, lý luận huyền diệu bí ẩn gì cả,
chỉ là một thứ hiện tượng tự nhiên, từ chân thật
công phu mà chứng đắc. Chẳng có chút gì kỳ lạ, rất là
bình thường.
Từ vô thủy kiếp đến nay chúng ta
bị vô minh che phủ, chẳng gặp được bậc Thiện-tri-thức dắt
dẫn, không biết thế nào là minh tâm kiến tánh (minh
ngộ tự tâm, triệt kiến bổn tánh), không biết thế nào là
phản bổn hoàn nguyên (trở về nguồn cội). Chúng ta tu
Thiền chính là để minh tâm kiến tánh, để phản bổn hoàn
nguyên vậy. Nếu được giải thoát thì sẽ không còn quái
ngại, ngăn trở, xa rời mọi điên đảo mộng tưởng,
cuối cùng tới đặng Niết-bàn vậy.
Thiền thất
12/1980
0 Kommentare:
Post a Comment