Nay con do pháp Bát quan trai này, không rơi vào địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng không rơi vào chỗ bát nạn, không ở biên địa,
không rơi chỗ hung ác, không theo ác tri thức; thờ phụng cha mẹ, chuyên chánh
không tập tà kiến, sanh vào trung tâm của quốc gia, nghe pháp lành này, phân
biệt suy nghĩ, thành tựu từng pháp; đem công đức giữ gìn trai pháp này,
nhiếp thủ điều lành cho tất cả chúng sanh; đem công đức này bố thí
người ấy, khiến thành đạo Vô thượng Chánh chơn; đem phước báu
thệ nguyện này bố thí cho hàng Tam thừa khiến không thối chuyển nửa chừng...
(Trích Kinh Tăng Nhất A Hàm - QUYỂN III
PHẨM
THIÊN TỬ MÃ HUYẾT HỎI BÁT CHÁNH )
Tôi nghe như
vầy:
Một thời
Phật ở nước Xá-vệ, rừng Kỳ-đà, vườn Cấp Cô Ðộc.
Bấy giờ, Thế
Tôn bảo các Tỳ-kheo:
- Nay Ta sẽ
nói về pháp Bát quan trai Hiền Thánh, các Thầy khéo suy nghĩ ghi nhớ, tùy hỷ
vâng làm.
Bấy giờ các
Tỳ-kheo nghe lời Phật dạy.
Thế Tôn bảo:
- Thế nào
gọi là pháp Bát quan trai? Một là không sát sanh. Hai là không trộm cắp. Ba là
không tà dâm. Bốn là không vọng ngữ. Năm là không uống rượu. Sáu là
không ăn phi thời. Bảy là không nằm giường cao rộng. Tám là xa lìa
hát xướng, hương hoa thoa thân.
Này Tỳ-kheo!
Ðó là pháp Bát quan trai Hiền Thánh.
Khi ấy,
Ưu-ba-ly bạch Phật:
- Làm thế
nào tu hành pháp Bát quan trai?
Ðức Phật
bảo:
- Ở đây
này Ưu-ba-ly! Thiện nam tử, thiện nữ nhơn vào các ngày mùng tám, mười bốn,
rằm, đến chỗ các Sa-môn, hoặc Tỳ-kheo trưởng lão, tự xưng tên, từ sáng đến
chiều, như A-la-hán, giữ tâm không thay đổi, không lay động, không dùng dao gậy
với quần sanh, lòng từ khắp tất cả. 'Nay ta thọ trai pháp, không phạm
một điều, không khởi tâm sát, tập theo lời dạy của bậc chân nhân, không
trộm, không dâm, không vọng ngữ, không uống rượu, không ăn phi thời, không nằm
giường cao rộng, không tập hát xướng đánh đàn, hoa hương xoa thân'.
Nếu người có
trí tuệ, nên nói như thế; nếu người không trí tuệ, nên dạy họ như thế.
Lại, Tỳ-kheo
kia nên chỉ dạy cặn kẽ, đừng để mất, cũng chớ vượt thứ lớp. Lại nên dạy họ
phát thệ nguyện.
Ưu-ba-ly
bạch Phật:
- Nên phát
nguyện thế nào?
Phật bảo:
- Người kia
phát nguyện rằng: 'Nay con do pháp Bát quan trai này, không rơi vào địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng không rơi vào chỗ bát nạn, không ở biên địa,
không rơi chỗ hung ác, không theo ác tri thức; thờ phụng cha mẹ, chuyên chánh
không tập tà kiến, sanh vào trung tâm của quốc gia, nghe pháp lành này, phân
biệt suy nghĩ, thành tựu từng pháp; đem công đức giữ gìn trai pháp này,
nhiếp thủ điều lành cho tất cả chúng sanh; đem công đức này bố thí
người ấy, khiến thành đạo Vô thượng Chánh chơn; đem phước báu
thệ nguyện này bố thí cho hàng Tam thừa khiến không thối chuyển nửa chừng'.
Lại nữa,
pháp Bát quan trai này được dùng để học Phật đạo, Bích-chi Phật đạo,
A-la-hán đạo. Người học Chánh Pháp trên thế giới cũng tập nghĩa này. Giả
sử đời vị lai, khi đức Phật Di-lặc xuất hiện, bậc Như Lai Chí Chơn
Ðẳng Chánh Giác, ai gặp hội của Ngài khiến đúng thời được độ.
Thời đức
Phật Di-lặc ra đời, Thanh văn có ba hội. Hội thứ nhất có chín mươi sáu ức chúng
Tỳ-kheo, hội thứ hai có chín mươi bốn ức chúng Tỳ-kheo, hội thứ ba có chín mươi
hai ức chúng Tỳ-kheo, đều là bậc A-la-hán các lậu đã hết. Vua nước ấy và
bậc thầy giáo thọ của quốc gia cũng sẽ dạy những lời như thế, không thể thiếu
sót.
Khi ấy, Tôn
giả Ưu-ba-ly bạch Phật:
- Nếu thiện
nam tử, thiện nữ nhơn kia, tuy giữ pháp Bát quan trai, trong ấy không phát thệ
nguyện, có được công đức lớn chăng?
Ðức Phật
bảo:
-
Tuy được phước, phước ấy không đủ. Vì sao? Nay
Ta sẽ nói.
Thời quá khứ có vua tên Bảo Nhạc, dùng pháp trị dân không cong vạy, thống
lãnh cảnh giới Diêm-phù-đề này. Bấy giờ có đức Phật hiệu là Bảo Tạng Như
Lai, Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô
Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn xuất hiện ở thế
gian. Nhà vua có người con gái tên là Mâu-ni, dung mạo rất đặc biệt thù
thắng, sắc mặt như hoa đào, đều do đời trước cúng dường chư Phật mà được
như vậy.
Bấy giờ, đức Phật kia cũng có ba hội Thanh văn. Hội ban đầu có một ức
sáu vạn tám ngàn chúng. Hội thứ hai có một ức sáu vạn chúng. Hội thứ ba có một
ức ba vạn chúng. Ðều là bậc A-la-hán, các lậu đã hết. Lúc ấy, đức
Phật kia vì các đệ tử thuyết pháp như thế này :
- 'Các Tỳ-kheo! Nên nhớ tọa Thiền, chớ giải đãi, lại cần tìm phương
tiện tụng tập kinh giới'.
Vị thị giả của đức Phật tên Mãn Nguyện, đa văn đệ nhất, như
Tỳ-kheo A-nan của Ta ngày nay đa văn hơn hết. Khi ấy, Tỳ-kheo Mãn Nguyện,
bạch đức Phật Bảo Tạng:
- 'Có các Tỳ-kheo các căn chậm chạp, u tối, cũng không tinh tấn đối với
pháp Thiền định, cũng không tụng tập. Hôm nay Thế Tôn sẽ xếp những người như
thế vào nhóm nào?'
Ðức Phật Bảo Tạng dạy:
- 'Nếu như có Tỳ-kheo các căn ám độn, không kham thực hành pháp Thiền, nên
tu về ba pháp nghiệp của bậc Thượng nhân. Thế nào là ba? Là tọa Thiền, tụng
kinh, siêng năng giúp đỡ việc chúng'.
Như thế, đức Phật kia vì các đệ tử nói pháp vi diệu như
thế. Bấy giờ, có một Tỳ-kheo trưởng lão cũng không kham tu hành pháp
Thiền. Tỳ-kheo kia bèn nghĩ rằng: 'Nay ta tuổi già yếu, không thể tu pháp
Thiền, nay ta nên tìm cách làm theo pháp siêng năng giúp đỡ'. Khi ấy, Tỳ-kheo
trưởng lão kia đi vào thành Dã Mã, xin dầu thắp đèn về cúng
dường đức Phật Bảo Tạng, khiến cho ánh sáng không dứt. Công chúa Mâu-ni
thấy Tỳ-kheo trưởng lão này đi xin trên các đường phố, liền hỏi:
- 'Thầy Tỳ-kheo! Hôm nay Thầy cần gì?'
Tỳ-kheo đáp:
- 'Công chúa nên biết! Tôi tuổi đã già, không kham tu hành pháp Thiền,
nên đi xin các loại dầu để cúng dường Phật, tiếp tục ánh sáng của bậc Tôn
quý.
Khi ấy, công chúa nghe danh hiệu Phật, vui mừng phấn khởi không thể dừng,
liền thưa với Tỳ-kheo trưởng lão:
- Tỳ-kheo ! Nay Thầy đừng đi xin các nơi khác, tôi sẽ tự cung cấp các
loại dầu đèn, thảy đều bố thí đủ hết.
Tỳ-kheo trưởng lão nhận sự bố thí của công chúa, mỗi sáng đến lấy dầu
cúng dường đức Phật Bảo Tạng. Thầy nguyện đem công đức phước nghiệp này, hồi
hướng về đạo Vô thượng Chánh chơn. Miệng tự nói rằng: 'Tuổi đã già lại căn
tánh chậm, không có trí tuệ thực hành được pháp Thiền, đem công đức này,
nơi sanh ra không rơi vào đường ác, khiến đời tương lai được gặp đấng Thế
Tôn như đức Phật Bảo Tạng hiện nay không khác. Cũng được gặp Thánh
chúng như Thánh chúng hiện nay không khác, nói pháp cũng như hiện nay
không khác'.
Khi ấy, đức Phật Bảo Tạng biết ý niệm trong tâm thầy Tỳ-kheo kia,
liền mỉm cười, trong miệng phát ra hào quang năm sắc mà bảo rằng:
- 'Này Tỳ-kheo ! Qua vô số kiếp đời vị lai, Thầy sẽ làm Phật hiệu Ðăng
Quang Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác.'
Khi ấy, Tỳ-kheo trưởng lão vui mừng hớn hở không thể tự kềm, thâm tâm vững
chắc, ý không thối chuyển, nhan sắcđặc biệt không giống ngày thường. Công chúa
Mâu-ni thấy Tỳ-kheo ấy dung mạo đặc biệt hơn ngày thường, liền hỏi:
- 'Tỳ kheo ! Hôm nay sắc diện rất là thù diệu, không giống ngày thường,
có điều đắc ý? '
Tỳ-kheo đáp:
- 'Công chúa nên biết, vừa rồi Như Lai dùng cam lồ rưới lên đảnh tôi.'
Công chúa Mâu-ni hỏi:
- 'Như Lai dùng cam lồ rưới trên đảnh thế nào?'
Tỳ-kheo đáp:
- 'Tôi được đức Như Lai Bảo Tạng thọ ký, nói rằng qua tương
lai vô số a-tăng-kỳ kiếp, tôi sẽ làm Phật, hiệu là Ðăng Quang Như Lai Chí
Chơn Ðẳng Chánh Giác. Thâm Tâm tôi vững chắc, ý không thối chuyển. Như
thế, Công chúa, vì tôi được Như Lai thọ ký'
Công chúa hỏi:
- 'Ðức Phật không thọ ký cho tôi ư?'
Tỳ-kheo trưởng lão đáp:
- 'Tôi cũng không biết có thọ ký cho Công chúa chăng? '
Công chúa nghe thầy Tỳ-kheo nói rồi, liền cỡi xe vũ bảo, đến chỗ đức
Phật Bảo Tạng, cúi đầu lễ chân Phật lui ngồi một bên. Công chúa bạch Phật:
- 'Nay con là đàn việt thí chủ, thường cung cấp các thứ dầu cần dùng.
Mà nay Thế Tôn thọ ký cho thầy Tỳ-kheo, riêng không thọ ký cho con'.
Ðức Phật Bảo Tạng đáp:
- Phát tâm cầu nguyện, phước ấy khó lường, huống gì dùng tài vật bố thí'.
Công chúa Mâu-ni thưa:
- 'Nếu Như Lai không thọ ký cho con, con sẽ tự đoạn mạng sống của
mình'.
Ðức Phật Bảo Tạng đáp:
- 'Làm thân người nữ, cầu làm Chuyển Luân Thánh vương không được, cầu
làm Ðế Thích cũng không được, cầu làm Phạm thiên vương cũng
không được, cầu làm Ma vương cũng không được, cầu làm Phật cũng
không được'.
Công chúa thưa:
- 'Nhất định con không thể thành đạo Vô thượng được ư? '
Phật Bảo Tạng đáp:
- 'Ðược, Công chúa Mâu-ni được thành đạo Vô thượng Chánh chơn.
Song công chúa nên biết, về tương lai qua vô số a-tăng-kỳ-kiếp có Phật ra đời,
đó là thiện tri thức của Cô, đức Phật kia sẽ thọ ký cho Cô'
Khi ấy, công chúa Bạch Phật: - 'Người nhận thanh tịnh, còn thí chủ uế trược
chăng? '
Phật Bảo Tạng đáp:
- 'Những gì Ta nói hôm nay, là tâm ý thanh tịnh, phát nguyện vững chắc'.
Công chúa nói xong, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cúi đầu lễ chân Phật,
đi quanh Phật ba vòng rồi lui ra.
Ưu-ba-ly nên biết! Qua vô số a-tăng-kỳ-kiếp, Phật Ðăng Quang xuất
hiện ở đời tại nước lớn tên là Bát-đầu-ma, cùng với chúng Ðại Tỳ-kheo mười
sáu vạn tám ngàn người câu hội. Quốc vương và nhân dân nước ấy đều đến
kính thờ Phật. Khi ấy, nước kia có vua tên Ðề-bà-diên-na, dùng pháp trị hóa,
thống lãnh cõi Diêm phù-đề. Nhà vua thỉnh Phật và chúng Tỳ-kheo đến để
cúng dường trai phạn.
Bấy giờ, đức Phật Ðăng Quang sáng sớm đắp y mang bát, dẫn chúng
Tỳ-kheo vào thành. Khi ấy, có một Phạm chí tên Di-lặc, gương mặt đoan
chánh, riêng vượt hơn mọi người, như là Phạm Thiên, thông suốt các kinh tạng
thảy đều quán triệt, các sách vở, chú thuật, thảy đều rành rẽ,
thiên văn, địa lý thảy đều biết rõ. Phạm chí kia xa thấy Phật Ðăng Quang đi
đến, dung mạo đặc biệt thù thắng, phi thường hơn đời, các căn vắng lặng,
ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm nơi thân; thấy rồi liền
phát khởi lòng hoan hỷ, sanh lòng lành nghĩ rằng; 'Các sách vở ghi chép việc
Như Lai xuất hiện rất là khó gặp, đúng thời mới xuất hiện như hoa Ưu-bát
đúng thời mới xuất hiện, nay ta nên đến thử'.
Khi ấy, Phạm chí tay cầm năm cành hoa, đến chỗ Thế Tôn, lại khởi nghĩ
thế này: 'Ai có đủ ba mươi hai tướng tốt gọi là thành Phật'. Ông
liền đem năm cành hoa tung lên mình Phật, và mong thấy được ba mươi
hai tướng tốt. Song ông chỉ thấy ba mươi tướng, mà không thấy thêm hai tướng
nữa, liền khởi hồ nghi: 'Nay quan sát Thế Tôn, không thấy được tướng lưỡi rộng
dài và tướng mã âm tàng'.
Ông liền nói kệ:
Nghe có ba hai tướng
Tướng mạo của Ðại nhơn
Nay không thấy hai tướng
Tướng hảo có đủ chăng?
Có tướng mã âm tàng
Trinh khiết không dâm chăng?
Có tướng lưỡi rộng dài
Chấm tai, trùm mặt chăng?
Vì tôi hiện tướng ấy,
Ðể dứt các hồ nghi,
Mã âm và tướng lưỡi
Xin nguyện muốn thấy đó.
Tướng mạo của Ðại nhơn
Nay không thấy hai tướng
Tướng hảo có đủ chăng?
Có tướng mã âm tàng
Trinh khiết không dâm chăng?
Có tướng lưỡi rộng dài
Chấm tai, trùm mặt chăng?
Vì tôi hiện tướng ấy,
Ðể dứt các hồ nghi,
Mã âm và tướng lưỡi
Xin nguyện muốn thấy đó.
Khi ấy, đức Phật Ðăng Quang liền nhập chánh định khiến Phạm
chí thấy được hai tướng ấy. Ðức Phật Ðăng Quang liền bày tướng lưỡi
rộng dài, liếm trùm cả mặt, phóng ánh sáng lớn, trở lại từ đảnh chui vào.
Phạm chí thấy đức Phật có đầy đủ ba mươi hai tướng, thấy rồi vui mừng hớn
hở không thể tự kềm, rồi nói thế này:
- Cúi xin Thế Tôn chứng minh cho con, ngày nay dùng năm cành hoa dâng lên
Như Lai, và đem thân này cúng dường bậc Tôn Thánh.
Khi phát thệ này, năm cành hoa ở trên không trung hóa thành đài báu,
rất thù diệu, có bốn trụ bốn cửa. Phạm chí thấy đài báu, vui mừng hớn hở
không thể tự kềm, phát lời nguyện: 'Xin cho con đời sau được làm Phật
như đức Phật Ðăng Quang, đệ tử đồ chúng thảy đều như thế'.
Khi ấy, đức Phật Ðăng Quang biết ý nghĩ trong tâm Phạm chí
liền mỉm cười. Pháp thường của chư Phật, khi thọ ký thì Phật mỉm cười,
trong miệng phát ra hào quang năm sắc chiếu khắp tam thiên đại thế giới,
mặt trời mặt trăng không còn ánh sáng, ánh sáng ấy lại từ đảnh mà vào. Nếu
khi thọ ký thành Phật thì ánh sáng từ đảnh vào. Nếu khi thọ ký thành
Bích-chi Phật, ánh sáng từ miệng phát ra lại trở vào lỗ tai. Nếu thọ ký thành
Thanh văn, thì ánh sáng trở vào vai. Nếu thọ ký sanh lên Trời, lúc ấy ánh sáng
trở vào cánh tay. Nếu thọ ký sanh loài Người, ánh sáng trở vào hai bên hông.
Nếu thọ ký sanh ngạ quỷ, thời ánh sáng trở vào nách. Nếu thọ ký sanh súc sanh,
ánh sáng trở vào đầu gối. Nếu thọ ký sanh địa ngục, ánh sáng đi vào gót
chân.
Khi ấy, Phạm chí thấy ánh sáng trở vào đỉnh đầu, vui mừng hớn hở không
thể tự kềm, liền trải tóc dưới đất và nói lời này: 'Nếu đức Phật
không thọ ký cho tôi, thì ngay chỗ này tôi sẽ tự hủy hoại các căn'. Khi ấy đức
Phật Ðăng Quang biết ý nghĩ trong tâm Phạm chí, liền bảo:
- 'Ông mau đứng lên. Ðời vị lai sau, sẽ được thành Phật hiệu
Thích Ca Văn Như Lai Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác'.
Phạm chí nghe Phật thọ ký rồi, tâm rất vui mừng không thể tự kềm, lập tức
ngay nơi ấy được biến hiện tam-muội, bay lên hư không cách mặt đất
bảy nhẫn, chắp tay hướng về đức Phật Ðăng Quang.
Này Ưu-ba-ly! Thầy chớ lấy làm lạ. Thầy Tỳ-kheo trưởng lão vào
thời đức Phật Bảo Tạng, đâu phải người nào lạ, chính là đức
Phật Ðăng Quang. Còn công chúa Mâu-ni lúc ấy, chính là Ta hiện nay. Lúc
ấy đức Phật Đăng Quang đặt danh hiệu Ta là Thích-ca Văn. Nay Ta do nhân
duyên ấy, nên nói pháp Bát-quan trai này, nên phát thệ nguyện, không thệ nguyện
không kết quả. Vì sao? Nếu lúc ấy, công chúa phát nguyện như thế, liền ngay nơi
kiếp ấy thành tựu sở nguyện, rốt cuộc không thành Phật đạo. Phước thệ
nguyện không thể xưng kể, được đến chỗ cam lồ, chỗ diệt tận. Như thế, Ưu-ba-ly,
nên học như thế.
Bấy giờ, Tôn giả Ưu-ba-ly nghe Phật dạy xong, vui vẻ vâng làm.
0 Kommentare:
Post a Comment