Do vậy, quý vị nhất
định phải biết, trí huệ do đâu mà có? Chính
mình vốn sẵn có. Quý vị cầu trí huệ, chẳng
có chuyện này! Cái mà quý vị cầu được là tri
thức, tri thức và trí huệ là hai chuyện [khác nhau]. Cầu
trí huệ bằng cách nào? Phải định cái tâm, tâm
thanh tịnh sanh ra trí huệ. Tâm chúng ta bất định,
trong tâm có cả đống thứ lộn xộn, vì vậy,
trí huệ chẳng sanh, mà sanh phiền não. Tâm thanh tịnh
sanh trí huệ. Bởi lẽ, trí huệ phát xuất từ
buông xuống, [hễ buông xuống] trí huệ bèn xuất hiện;
không buông xuống, sẽ vĩnh viễn chẳng có trí huệ,
cái mà quý vị học được toàn là tri thức.
Phần
4
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong, Trịnh Vân
và Huệ Trang
Tập 7
Chư vị pháp sư, chư vị đồng
học, xin hãy ngồi xuống. Xin xem trang thứ sáu, hàng thứ
ba trong bản kinh, xem từ câu cuối cùng.
“Ư
thị, tiên sư hội bổn vấn thế dĩ lai, bất
hĩnh nhi tẩu” (do vậy, từ khi bản hội tập
của tiên sư được ra đời đến
nay, không chân mà đi khắp nơi), xem từ câu này. Cụ
Hoàng nói bản hội tập này của cụ Hạ, sau
khi in ra, bèn được lưu thông rất
nhanh, cho nên không có chân mà đi khắp nơi. “Hĩnh” (脛) là bắp
chân (phần từ đầu gối đến bàn chân). “Bất hĩnh”: Mặc dù nó
không có chân, nhưng đi rất nhanh, truyền bá rất lẹ,
[hàm ý bản hội tập này được] truyền bá
rất nhanh chóng. Đấy là tình hình lúc đó. Vì xã hội
chẳng an định, chiến tranh Trung Nhật bùng nổ;
đây là chuyện trước khi chiến tranh nổ ra. Cả
một giải Sơn Đông cũng bị người Nhật chiếm đóng, nên công tác hoằng
pháp của cụ Hạ Liên Cư đương nhiên gặp
trở ngại. Mãi cho đến nay, xã hội cũng không ổn
định, sau khi cả nước thoát khỏi ngoại
xâm, lại trải qua nhiều tai nạn, trong phần sau,
cụ Hoàng sẽ nói đến điều này. Sau cuộc
cải cách khai phóng[1] mới kể như yên ổn, hoạt
động tôn giáo dần dần khôi phục. Vì thế, Hạ
lão cư sĩ bảo cụ Hoàng Niệm Tổ: “Trong tương lai, bản hội
tập này sẽ từ hải ngoại truyền về
Trung Quốc”. Cụ Hạ nói những lời này, các
đồng học nghe xong, đều chẳng nghĩ là
đúng, cảm thấy rất kỳ quái. Mãi sau này, mấy
chục năm sau, quả nhiên như thế. Do vậy biết:
Pháp vận hưng hay suy, lão nhân gia đã thấy hết sức
rõ ràng. Do vậy, thuở ấy, lúc ban đầu in ra không
nhiều lắm. Lần trước tôi đã nói, pháp sư
Từ Châu tại Tế Nam đã giảng bản hội
tập này. Trong lần trước, tôi đã thưa cùng quý
vị, [lúc ấy] bản hội tập này nói chung chưa
có phiên bản cố định, lão nhân gia (cụ Hạ
Liên Cư) đã sửa chữa cả mười lần.
Bản mà pháp sư Từ Châu đã dùng chưa phải là bản
tu đính cuối cùng, chưa phải là bản hoàn chỉnh
cuối cùng. Vì từ bản khoa
phán của Ngài, tôi thấy: Bản hội tập mà lão nhân
đã dùng, toàn bộ kinh văn được chia thành ba
mươi bảy phẩm, có lẽ là dùng ý nghĩa Ba
Mươi Bảy Đạo Phẩm. Tôi có một quyển
khoa phán gồm ba mươi bảy phẩm này. [Bản khoa
phán ấy] chẳng dựa trên bản hiện thời chúng
ta đang dùng. Bản hiện tại là bản hoàn chỉnh
cuối cùng, tổng cộng gồm bốn mươi tám
phẩm; nhưng đối với Đại Kinh, pháp
sư Từ Châu được coi như là người
đã lập ra tiền lệ đầu tiên, đem phần
khoa phán ghép thêm vào cuối kinh. Tôi dựa theo bản khoa phán
của lão nhân gia, nhưng dùng [chánh kinh theo] bản [hội
tập] hiện tại, để viết khoa phán tỉ mỉ
hơn, chia đoạn rất chi tiết. Chúng ta có Khoa Hội,
[tức là] khoa phán và kinh được xếp chung một
chỗ. Bản khoa hội này cũng được lưu
thông với số lượng rất lớn. Phải biết
là ở nơi đây chúng ta không có triệp điệp bản,
mà có trang đính bản[2],
có khoa hội. Còn có một bản in chung kinh văn và lời
mi chú của cụ Lý, khoa hội và mi chú được in
chung thành một bản, bản này cũng in rất nhiều,
có thể giúp [học nhân] học tập, nghiên cứu Đại
Kinh.
“Phật
giới tôn túc đa dĩ hội bổn văn giản, nghĩa
phong” (Các bậc tôn túc trong giới Phật giáo đa số
công nhận bản hội tập văn từ giản dị,
nghĩa lý phong phú). Quả thật, so với các bản dịch
gốc và hai bản hội tập trong quá khứ, văn tự
của bản hội tập này đơn giản và dễ
hơn rất nhiều, ý nghĩa lại còn hết sức
viên mãn. Những điều thiếu sót trong hai bản hội
tập trước đã được cụ Hạ bổ
sung toàn bộ, điều này rất khó có. “Từ sướng, Lý viên” (Từ ngữ lưu
loát, Lý viên mãn): Lý viên mãn chẳng khiếm khuyết, văn
tự hết sức trôi chảy, khiến người
đọc rất thoải mái. “Giảng,
thuyết, tán dương, lưu bá trung ngoại” (giảng,
nói, tán dương, lưu truyền trong ngoài nước),
dùng bản này để giảng kinh Vô Lượng Thọ,
giảng thuật, tán thán, tuyên dương, lưu truyền
trong ngoài nước, chúng tôi rất nỗ lực thực
hiện công tác này, bắt đầu từ lúc nào? Sau khi cụ
Lý Bỉnh Nam
vãng sanh. Khi lão nhân gia còn sống, chúng tôi muốn làm,
nhưng thầy không đồng ý, nói bản này có những
điều bị tranh luận, quả thật có những
điều bị chướng ngại trong Phật môn. Khi
ấy, tôi muốn giảng kinh này, thầy nói: “Chưa
được! Tuổi anh quá trẻ, chưa đủ uy
tín. Nếu giảng kinh này, người khác phê bình, anh sẽ
chống đỡ không nổi”. Vì thế, khi tôi đem bản
này in một ngàn cuốn, tôi nhớ là vào dịp sinh nhật
năm mươi tuổi của Hàn Quán Trưởng, chúng
tôi muốn giảng kinh này để chúc thọ bà ta, thầy
Lý không đồng ý, chúng tôi bèn đổi thành giảng kinh
Lăng Nghiêm, mọi người sẽ chẳng bàn ra nói
vào nữa! Những thứ tranh luận, dị nghị kinh
này quá nửa đều do ganh ghét, chướng ngại, từ
xưa tới nay không thể nào tránh được chuyện
này. Nay chúng ta sanh nhằm thời kỳ Mạt Pháp, bất
luận đức hạnh hay trí huệ đều kém cổ
nhân, ngay cả cổ nhân cũng gặp khó khăn nhiều
dường ấy. Quý vị thấy tại Đại Lục
mấy năm trước lên tiếng phản đối bản
hội tập này, hết thảy mọi người biết.
Nay tiếng phản đối ấy không còn nữa, vì Cục
Tôn Giáo quốc gia khẳng định bản này, mọi
người không còn nói gì được nữa! Vì thế,
chúng ta biết cụ Hoàng Niệm Tổ chú giải bản
kinh này chẳng dễ dàng, vô cùng gian nan. Chúng ta phải hiểu
chân tướng sự thật này.
“Kiến
giả, văn giả, hoan hỷ tín thọ, trì tụng, ấn
hành, lạc dịch bất tuyệt” (Người thấy,
kẻ nghe, ưa thích, tin nhận, trì tụng, ấn hành
liên tục chẳng dứt). Câu này là sự thật. Sau khi
cụ Lý Bỉnh Nam
vãng sanh, khi đó tôi đang ở Mỹ, xướng suất
in bộ kinh điển này tại Mỹ. Do thầy Lý chỉ
có một bản hội tập này, khi giảng giải, cụ
đã tự tay viết lời mi chú bằng bút lông, viết
theo lối Tiểu Khải và Hành Thư[3],
viết hết sức hay. Lão nhân gia cho tôi bản này, tôi gìn
giữ đã nhiều năm như thế, chưa có
người nào khác đọc. Cụ vãng sanh, tôi lấy bản
này ra, phát tâm in một vạn bộ để lưu thông,
nhằm kỷ niệm ngày thầy vãng sanh. Sau khi mọi
người đọc bản này, thật sự, giống
như [cụ Hoàng] đã nói ở đây: “Kiến giả, văn giả, hoan hỷ, tín thọ”
(người thấy, kẻ nghe, ưa thích, tin nhận),
trì, tụng, ấn hành liên tiếp. Vì thế, hiện thời
bản này lưu thông trên cả thế giới với số
lượng rất lớn; trong quá khứ, chúng tôi đã giảng
mười lần, CD/DVD cũng được lưu thông
rất rộng.
Tiếp đó, cụ viết: “Cận thả mông hải ngoại
Phật học giới thâu nhập tân ấn chi Tục Tạng”
(Gần đây, lại còn được giới Phật học
ở hải ngoại đưa bản này vào bản in mới
của Tục Tạng Kinh). Có ý nghĩ này, nhưng mãi cho
đến hiện thời vẫn chưa thể thực
hiện. Tại hải ngoại, đã qua nhiều năm
như thế, họ đã in Đại Tạng Kinh không ít
lần, nhưng chưa đưa bộ kinh này vào Tục Tạng,
chuyện này đợi chúng ta trong tương lai nỗ lực,
nhất định sẽ làm được. “Hành kiến đại kinh quang
minh, thường chiếu thế gian” (khiến cho quang
minh của Đại Kinh thường chiếu trong thế
gian), những điều này đều là thật. “Tích hiền hội tập chi thắng nguyện, hạnh cáo viên
thành” (Ý nguyện hội tập
thù thắng của bậc hiền nhân thuở xưa may sao
đã được thành tựu viên mãn). Trong quá khứ,
đã có nhiều người mong hoàn thành một bản hội
tập cho kinh Vô Lượng Thọ, muốn làm thành một
bản tiêu chuẩn để lưu thông. Vương Long
Thư đã làm, Ngụy Mặc Thâm cũng làm, nhưng
đều có những chỗ đáng tiếc nuối, đều
có khuyết điểm. Vì vậy, cụ Hạ thực hiện
công tác này lần thứ ba, đối với những thiếu
sót của người đi trước cụ đều
có thể sửa chữa viên mãn, trở thành một bản
đúng như cụ Hoàng Niệm Tổ đã nói: “Văn giản, nghĩa phong, từ
sướng, Lý viên” (văn từ giản dị, nghĩa
lý phong phú, từ ngữ lưu loát, Lý viên mãn), giống
như cư sĩ Mai Quang Hy đã nói: “Tuy dục bất vị chi thiện bổn, bất
khả đắc dã” (Tuy muốn bảo chẳng phải
là bản tốt nhất cũng không thể được),
nhân duyên hy hữu khó gặp! Ở đây, cụ Hoàng viết:
“Vô Lượng Thọ Kinh chi
thiện bổn”, [tức là] bản hoàn mỹ nhất, “ư tư khánh hiện, thử
thật vi hy hữu nan phùng chi đại sự nhân duyên dã”
(nay mừng được xuất hiện, đây thật
sự là một đại sự nhân duyên hiếm có, khó gặp
vậy). Chớ nên xem thường, chúng
ta phải có sự nhận thức này! Nay chúng ta may mắn
gặp được bản hội tập này, cũng là
đại sự nhân duyên hiếm có, khó gặp mà chúng ta
đã được gặp! Trong quá khứ, tôi đã giảng
giải mười lần, mấy lần trước, tôi
không đọc bản chú giải này, mà dựa theo lời
mi chú của thầy Lý để giảng giải bộ
kinh này. Tôi nhớ lần đầu tiên giảng giải là
ở Tân Gia Ba, lần thứ hai cũng tại Tân Gia Ba, [hoặc
là] lần đầu tiên tại Mỹ, lần thứ hai tại
Tân Gia Ba, thời gian đã dùng để giảng là sáu
mươi tiếng đồng hồ; vì tôi đến Tân
Gia Ba giảng kinh một tháng, mỗi ngày giảng hai tiếng,
giảng một tháng bèn viên mãn. Băng thâu âm được
lưu thông rất nhanh, phạm vi lưu thông lại còn hết
sức rộng, ai trông thấy cũng đều ưa
thích.
Trong đoạn tiếp theo, cụ
Hoàng Niệm Tổ trình bày nhân duyên vì sao cụ chú giải bản
hội tập này, chúng ta hãy đọc đoạn này: “Niệm Tổ nãi cụ phược
hạ phàm” (Niệm Tổ là phàm phu hạ căn đầy
dẫy triền phược), đây là lão nhân gia khiêm
hư. “Phược” (縛) là phiền não, phiền
não trói buộc phàm phu hạ căn, tức là chẳng phải
phàm phu trung thượng căn, mà là hạ căn. “Mậu mông tiên sư dĩ chú giải
hoằng dương thử kinh chi đại sự
tương chúc” (được tiên sư lầm lẫn
giao phó đại sự chú giải, hoằng dương
kinh này), ở đây toàn là lời lẽ khiêm tốn. “Mậu” (謬) là sai lầm, thầy đã lầm yêu
thương ta, ta không có năng lực, mà thầy mong mỏi
ta làm. Chuyện này quả thật chẳng dễ dàng, kinh
đã được hội tập, nhất định phải
chú giải. Không có chú giải, dẫu có nghĩa lý huyền
áo rất sâu trong ấy, kẻ mới học chẳng dễ
gì nhận ra! Vì thế, chú giải là chuyện tất yếu;
trong lời tựa ở đầu bản chú giải này,
tôi cũng nhắc đến chuyện ấy. Hoằng
dương kinh này thì dùng chú giải để hoằng
dương, nay chúng ta dùng [phương thức] diễn nghĩa
để hoằng dương bản chú giải này, cũng
đều là đại sự chẳng thể nghĩ bàn. Cụ Hoàng chú giải kinh là do nhận lãnh lời
phó thác của thầy, đấy cũng là mệnh lệnh
của thầy, thầy căn dặn đó là chuyện cụ
phải làm trong một đời này. Đời cụ
Hạ đã hoàn thành công tác hội tập kinh, cụ Hoàng
Niệm Tổ nối tiếp, soạn một bản chú giải
cho Đại Kinh. “Dư tuy
sơ phát đại tâm, đản dĩ chướng thâm
huệ thiển, thừa thử trọng mạng, thật
thâm hoảng cụ” (Tôi thoạt đầu tuy phát đại
tâm, nhưng vì chướng sâu, huệ cạn, vâng lãnh sứ
mạng nặng nề này, thật sợ hãi sâu xa), “hoảng” (惶) là kinh hãi, “cụ”
(懼) là
sợ sệt. Sứ mạng này quá nặng nề! Ở chỗ
này, chúng ta thấy lão nhân gia khiêm hư, có thể là quá khiêm
hư. Lão nhân gia đã hoàn thành nhiệm vụ này, chẳng
cô phụ lời thầy phó chúc, chúng ta phải cảm
ơn cụ.
Tiếp đó, cụ tường
thuật nhân duyên: “Sở hạnh
tằng tham tiên sư giảng tịch, thân văn thử
kinh toàn bộ” (may là đã từng được nghe
tiên sư giảng giải, đích thân nghe giảng toàn bộ
kinh này). Sau khi hội tập, cụ Hạ đã đích
thân giảng bộ kinh này, cụ Hoàng Niệm Tổ có duyên
phận ấy, đích thân nghe thầy giảng toàn bộ
kinh này, chẳng thiếu một buổi giảng nào. “Thả ư nhập tải tùy
thị chi trung” (lại còn theo hầu thầy suốt
hai mươi năm), đây là nói cụ đã theo thầy
hai mươi năm, chẳng phải trong thời gian ngắn
ngủi, hai mươi năm không rời thầy. “Đắc linh Thiền, Tịnh,
Mật các tông huyền áo, thô hiểu tiên sư hội tập
đại kinh chi thâm tâm” (được nghe những
điều huyền diệu, sâu xa trong các tông Thiền, Tịnh,
Mật, hiểu sơ lược thâm tâm hội tập
Đại Kinh của tiên sư). Theo thầy hai mươi
năm, mỗi ngày nghe thầy giảng kinh, thuyết pháp. Cụ
Hạ Liên Cư thông Tông, thông Giáo, Hiển Mật viên dung,
tuy là tại gia, nhưng thật sự
là một vị đại đức trong Phật môn thuở
ấy. Có trí huệ, năng lực, từ bi như vậy
thì mới có thể thực hiện viên mãn chuyện này
để truyền cho những kẻ hữu duyên trong chín
ngàn năm sau trong thời Mạt Pháp. Gặp được
kinh này chính là kẻ hữu duyên, gặp kinh này sẽ có
cơ hội đắc độ, rất khó có!
Đây là nói rõ nhân duyên vì sao cụ được thầy
phó chúc làm đại sự này. Đương nhiên, thầy
hiểu rõ trò. Theo thầy suốt hai mươi năm, trò
có trí huệ hay không, có tâm từ bi hay không, có thể đảm
nhiệm sứ mạng này hay không, đương nhiên thầy
hiểu rất rõ ràng, chọn trúng cụ Hoàng Niệm Tổ.
Do vậy, tôi thường nói: Vừa nghe đến tên họ
của lão nhân gia, tôi liền bảo mọi người, vị
này là truyền nhân của cụ Hạ, khích lệ, cổ
vũ mọi người hãy thân cận cụ cho nhiều.
Duyên phận và phước phần này đều chẳng
thể nghĩ bàn!
“Lục
thập niên đại sơ” (đầu thập niên sáu
mươi), “lục thập
niên đại” là năm 1960, vào đầu
năm 1960. “Tằng thí tả thử kinh huyền nghĩa chi
đề cương nhất sách, trình sư giám hạch, hạnh
mông ấn khả” (từng thử viết một bản
đề cương cho kinh này, trình lên thầy giám định,
may mắn được thầy ấn khả). Cụ chuẩn
bị công tác sơ bộ, viết đề cương,
đề cương là gì? Là phần Khái Luận mà chúng ta
nay đang học tập, cụ gọi phần này là Khái Yếu.
Trong quá khứ, khi tôi giảng kinh đã dùng phần tài liệu
này của cụ để viết đại cương,
có lẽ các đồng học đã đọc, trong quá khứ
tôi đã giảng nhiều lần. Tôi lấy phần Khái Yếu,
trích lục những điểm tinh yếu
trong đó, làm như vậy, trong các buổi giảng sẽ
có thể rút ngắn thời gian. Tuy đã rút ngắn, đại
khái cũng phải giảng mất mười mấy giờ,
nhằm giới thiệu “yếu nghĩa” (ý nghĩa trọng
yếu) của cả bản kinh với đại chúng. Cụ
Hoàng viết đề cương phần Huyền Nghĩa
đưa cho cụ Hạ xem, được đồng
ý, chấp nhận. “Đản
kinh Văn Cách hạo
kiếp, thử cảo dĩ đãng nhiên vô dư”
(nhưng trải qua cơn kiếp nạn Cách Mạng
Văn Hóa to lớn, bản thảo ấy đã mất sạch
chẳng còn). Khi ấy, cụ cũng gặp nạn Cách Mạng
Văn Hóa[4], cũng bị lôi ra “phê đấu” (phê bình, đấu tố), vì cụ
học Phật liền bị chụp mũ là “ngưu quỷ, xà thần” (quỷ
trâu, thần rắn), nhà cửa cũng bị lục soát, tịch
biên, những thứ đã viết lách đều bị
thiêu sạch, trải qua cơn kiếp nạn to lớn ấy.
“Hiện dư niên du cổ hy”
(nay tuổi đã ngoài bảy mươi), cổ nhân gọi
bảy mươi tuổi là “cổ
hy”. Câu “nhân sanh thất thập
cổ lai hy” (xưa nay, hiếm người sống
đến bảy mươi tuổi) là do Đỗ Phủ
đời Đường đã nói. Vì vậy, bảy
mươi tuổi được gọi là “cổ hy chi niên”, “du” (逾) là vượt qua, [“du cổ hy”] là hơn bảy mươi tuổi.
Khi tôi gặp lão nhân gia, cụ đã ngoài bảy mươi
tuổi. “Phục đa túc tật”
(lại lắm bệnh cũ), cũng là do trong thời Cách
Mạng Văn Hóa chịu rất nhiều khổ nạn,
cho nên tuổi già thân chẳng khỏe, rất nhiều bệnh
tật. “Quý thâm ân chi vị báo,
cụ vô thường chi tương chí” (thẹn ơn
sâu chưa báo, sợ vô thường xảy tới), đây
là lời thật, sứ mạng thầy đã giao phó
chưa hoàn thành, làm sao xứng với thầy? Tuổi già,
lắm bệnh, sợ lắm, sợ thọ mạng không
đủ để hoàn thành việc này, thường nặng
lòng vì chuyện này. “Ư thị,
phấn lão bệnh chi tàn thân, kế truyền đăng
chi hoằng thệ” (Do vậy, gắng gượng tấm
thân tàn già bệnh, kế tục hoằng thệ truyền
đăng). Chúng tôi đích thân thấy chuyện này, đêm
nối tiếp ngày, cụ làm chuyện này chẳng nghỉ
ngơi để viết bản chú giải này.
Viết chú giải cũng chẳng
dễ dàng! Sau khi viết xong, không vừa ý lại sửa
chữa, đến cuối cùng khi đã sửa chữa
hoàn chỉnh, tôi đã kể với quý vị, lúc ấy cuốn
sách này chỉ được in bằng ronéo. Nói chung, những
người trẻ tuổi hiện nay chẳng biết in ronéo là gì, người năm sáu
mươi tuổi chắc chắn biết. Chất liệu
rất kém cỏi, in bằng ronéo, chữ in ra không rõ ràng.
Tôi tin bản do cụ đem sang Mỹ tặng cho tôi, phải
là bản in ronéo rõ ràng nhất, tốt nhất, cụ
tặng cho tôi một quyển. Sau khi tôi đọc xong một
lượt, hết sức vui thích, vô cùng bội phục, rốt
cuộc kinh Vô Lượng Thọ có một bản chú giải
hay như thế, đúng là khó có! Tôi bèn thỉnh giáo lão nhân
gia: “Cụ có giữ bản quyền hay không?” Cụ bảo:
“Không giữ bản quyền!” Không giữ bản quyền
thì tôi bèn in lại. Do vậy, tại Đài Loan, tôi in lần
đầu một vạn cuốn, in thành một quyển
đóng bìa cứng. Bản của cụ vốn là bốn cuốn,
in thành bốn cuốn, chúng tôi đổi thành một cuốn
đóng bìa cứng, chính là bản hiện thời quý vị
đang cầm trên tay. Bản này đã được in mấy
lượt; bản gốc chúng tôi dùng để in một
vạn cuốn nay vẫn rất dễ tìm thấy, nguyên bản
ở phía trước có rất nhiều ảnh chụp, có
hình lão pháp sư Huệ Minh chứng minh cho cụ Hạ
Liên Cư, tôi đều đem in ở đầu sách. Tinh
thần ấy khó có lắm!
“Dĩ
thử thân tâm, cúng dường Tam Bảo, bế môn tạ
khách, toàn lực chú kinh” (Đem thân tâm này cúng dường
Tam Bảo, đóng cửa, không tiếp khách, dốc toàn lực
chú giải kinh), không gặp ai, đem hết thảy tinh lực,
thời gian, tinh thần dồn vào việc chú giải kinh.
Chú giải kinh phải sưu tập tài liệu tham khảo,
khó có lắm! Tôi cho rằng cụ được Phật,
Bồ Tát che chở, gia trì; hễ cụ nghĩ phải cần
những tài liệu nào, đều có người tặng
cho. Tôi từng xem những tài liệu trong thư phòng của
cụ, tôi cũng phải than là quá tuyệt diệu,
đúng là chẳng dễ dàng, từ đâu mà tìm được
nhiều thứ như thế? Âm thầm được
oai thần gia trì, những tài liệu cụ cần đều
có thể tìm được. “Ký
báo tiên sư kỵ thập phương tam thế thượng
sư Tam Bảo, dữ pháp giới chúng sanh chi thâm ân ư vạn
nhất” (mong báo một phần trong muôn phần ơn
sâu của tiên sư, mười phương ba đời
thượng sư, Tam Bảo và pháp giới chúng sanh). Chân
thành, thanh tịnh, từ bi, tâm báo ân, trên báo ơn Phật,
báo ơn thầy, dưới báo đáp ơn của hết
thảy chúng sanh và pháp giới chúng sanh. Đọc đến
chỗ này, chúng ta phải biết cảm ơn, cụ viết
bộ sách này khổ cực quá! Vì ai mà viết? Nay chúng ta có
được quyển sách này thì cụ vì tôi mà viết,
quý vị có được một quyển sách này tức
là cụ đã vì quý vị mà viết, thật đấy,
chẳng giả đâu! Quý vị đã có, có thể đọc
hiểu bản chú giải này, đoạn nghi hoặc, buông
xuống tạp niệm, nhất tâm niệm Phật,
tương lai vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới, ai tiếp dẫn? Hoàng lão cư sĩ tiếp dẫn,
quý vị mới hiểu công đức to lớn này!
Chúng tôi thiếu trí huệ, không
có năng lực này, viết không được, bèn phát
tâm; hiện thời ấn hành lưu thông thuận tiện
lắm. Đây chính là chúng ta báo đáp một phần trong
muôn phần ân đức của lão nhân gia, tuyên truyền bản
chú giải của cụ. Trên thế giới này, càng có nhiều
bản này càng tốt, vì sao? Trong kinh này, đức Phật
đã nói, trong tương lai, đến lúc Phật pháp bị
diệt, tức là vào chín ngàn năm sau, Phật pháp bị
diệt trên thế gian này, kinh Vô Lượng Thọ bị
diệt cuối cùng. Sau khi hết thảy các kinh bị diệt,
kinh Vô Lượng Thọ còn tồn tại trên thế gian
này một trăm năm. Một trăm năm sau đó,
kinh Vô Lượng Thọ cũng chẳng còn, hãy còn một
câu “Nam-mô A Di Đà Phật”. Gặp được danh hiệu
này cũng là có duyên phận đặc biệt, có thể
đắc độ. Pháp môn chẳng thể nghĩ bàn!
Đức Thế Tôn nhiều lần tuyên giảng chẳng
thể nghĩ bàn, phiên dịch chẳng thể nghĩ bàn,
hội tập chẳng thể nghĩ bàn, chú giải cũng
chẳng thể nghĩ bàn. Chúng ta y giáo phụng hành, chính mình
được lợi ích; bản thân ta được lợi
ích, mà cũng sẽ ảnh hưởng tới người
khác, người ta thấy quý vị như thế sẽ bị
cảm động, tự nhiên học theo quý vị. Do vậy,
quý vị tự hành là hóa tha. Huống chi, nếu quý vị
có thể giảng giải, diễn nói cho người khác,
đây là tài liệu tham khảo để quý vị diễn
thuyết, quý vị có thể ấn hành lưu thông.
Hiện thời, khoa học kỹ
thuật phát triển, chúng ta học Phật cũng phải
vận dụng linh hoạt. Quý vị đem một quyển
sách to như vậy tặng cho người khác, người
ta vừa nhìn thấy: “Dày quá! Tôi không có thời gian đọc!”
Thật đấy, chẳng giả đâu! Tuyên
dương Tịnh Tông, quả thật là trong thời
đại hiện tại, so với bất cứ tông nào
khác cũng dường như thuận lợi, hưng
vượng hơn, do nguyên nhân nào? Đắc lực nhờ
công cụ khoa học kỹ thuật! Chúng ta học tập
ở đây, mười lần giảng diễn trong quá khứ,
chúng ta có CD/DVD, có vệ tinh, có Internet, có nhiều thứ thuận
tiện như thế, cho nên tiếp dẫn nhiều
người hơn. Trong quá khứ không có, trong quá khứ phải
nhờ vào sách, số lượng sách ít ỏi, lại còn
phải phụ thuộc vào người đọc, người
ta không đọc thì làm gì được nữa? Đĩa
CD/DVD lưu thông với số lượng lớn. Hiện
thời, khoa học ngày càng tiến bộ, lúc ban đầu
chúng tôi giảng kinh, một đĩa CD chỉ thâu
được một giờ. Lần giảng tại Tân
Gia Ba, được lưu thông tại Trung Quốc Đại
Lục là sáu mươi đĩa CD, chẳng
ít! Hiện tại thì sao? Hiện thời chừng hai đĩa,
[từ sáu mươi đĩa] biến thành hai đĩa,
ngày càng tiến bộ. Tôi tin là sau đôi ba năm nữa,
một đĩa sẽ thâu được sáu mươi
giờ, đối với mọi người, học tập
quá thuận tiện. Tôi còn đề xướng đọc
tụng kinh Vô Lượng Thọ, quý vị không muốn
đọc bản này, bèn mở TV sẽ có tiết mục
đọc tụng. Trong phần đọc tụng ấy
có kinh văn, có âm thanh, nhưng không có hình ảnh ai cả!
Có kinh văn, có âm thanh đọc tụng, giúp đỡ quý
vị! Lần này, chúng tôi giảng Diễn Nghĩa, hoàn toàn
giảng bản chú giải của cụ Hoàng Niệm Tổ
nhằm báo ân cụ. Lão nhân gia tuổi già nhọc nhằn
như vậy, chính mắt tôi thấy, chớ nên phụ bạc
cụ! Chúng ta có thể làm thành đĩa CD/DVD, mà cũng có
thể ghi thành văn tự để đọc tụng.
Có văn tự, có giảng giải, không cần phải có
hình ảnh con người. Đây là nói về nhân duyên lão
cư sĩ chú giải kinh.
Tiếp theo đó là giới thiệu
kinh này khế Lý, khế cơ, khó có nhất. “Phục dĩ bổn kinh chi thù
thắng tại ư khế Lý, khế cơ” (lại nữa,
kinh này vốn thù thắng ở chỗ khế Lý, khế
cơ). Lý là gì? Lý là tự tánh. Huệ Năng đại
sư là người Trung Quốc, chúng ta nói tới Ngài là một
nhân vật đặc biệt thân thiết, nhất là đối
với người Quảng Đông, chúng ta đang ở
địa bàn tỉnh Quảng Đông, đặc biệt
thân thiết! Lão nhân gia khai ngộ khi chưa tròn hai
mươi bốn tuổi. Chúng ta gọi Ngài là “lão nhân gia”, vì Ngài có đức
hạnh; thật ra, Ngài chưa già, hai mươi bốn tuổi
mà! Khi khai ngộ, Ngài đã nói năm câu, hai mươi chữ:
“Hà kỳ tự tánh”, [nghĩa
là] không ngờ tự tánh, tự tánh như thế nào? “Bổn tự thanh tịnh” (vốn
tự thanh tịnh), đây là câu đầu tiên; “bổn bất sanh diệt”
là câu thứ hai, “bổn tự
cụ túc” (vốn tự đầy đủ), “cụ túc” là như Thích Ca Mâu
Ni Phật đã nói trong kinh Hoa Nghiêm: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ và
đức tướng của Như Lai”, vốn tự
trọn đủ, “cụ túc”
là trí huệ viên mãn, đức năng viên mãn, tướng
hảo viên mãn, đấy là những thứ có trong tự
tánh. “Bổn vô dao động,
năng sanh vạn pháp” (vốn chẳng lay động,
có thể sanh ra vạn pháp). Có thể sanh ra vạn pháp là có
thể hiện vũ trụ, có thể hiện vạn vật.
Ta do đâu mà có? Do tự tánh biến hiện! Vì thế, [tự
tánh] có thể sanh, có thể hiện, có thể biến; hết
thảy vạn pháp là cái được sanh, cái được
hiện, cái được biến. Cái có thể sanh là Lý,
cái được sanh chính là Sự; Khế Lý! Tự tánh vốn
sẵn có trí huệ Bát Nhã, tự tánh vốn sẵn có đức
năng, đấy là Lý. “Cơ”
(機) là
nói về chúng sanh, về đối tượng, tức
đối tượng của bộ kinh này, [nghĩa là] ai
có thể học? Bất cứ ai cũng đều có thể
học, thích hợp khắp ba căn thượng, trung, hạ,
lợi căn lẫn độn căn đều thâu tóm
toàn bộ. Hai đoạn tiếp theo đây sẽ nói về
vấn đề này.
Trước hết, nói về
Lý, “Lý giả, Thật Tế Lý
Thể, diệc tức Chân Như Thật Tướng, chân
thật chi bổn tế dã” (Lý là Thật Tế Lý Thể,
cũng tức là Chân Như Thật Tướng, là gốc
rễ chân thật). Câu này giảng về Lý. Lý là gì? Tôi vừa
mới trình bày một cách dễ hiểu cùng quý vị, [những
ý nghĩa ấy] hoàn toàn giống với ba câu nói [của cụ
Hoàng] ở nơi đây. “Thật”
(實) là
chân thật, “Thật Tế” (實際) là
quyết định chẳng giả, nó là Lý Thể, còn gọi
là Tự Tánh, tức là cái được gọi là Năng Sanh, Năng Hiện, Năng Biến (cái
có thể sanh, hiện, biến). Lý ở nơi đâu? Không
chỗ nào chẳng tồn tại, không lúc nào chẳng tồn
tại. Nó chẳng phải là tinh thần, mà cũng chẳng
phải là vật chất, nó không có hình tướng, sáu
căn chẳng thể tiếp xúc được, chúng ta
không thể tưởng tượng được. Hễ
quý vị suy tưởng là trật mất rồi! Đến
khi quý vị điều gì cũng không suy tưởng nữa,
nó bèn hiện tiền. Vì vậy, trong kinh Phật thường
gọi chuyện này là “chẳng
thể nghĩ bàn”, [nghĩa là] quý vị chẳng thể
tưởng, mà cũng chẳng thể nói, nói không
được! Nó còn được gọi là Chân Như Thật
Tướng, Thật Tướng là chân tướng, Chân Thật
Bản Tế, nói theo cách bây giờ, trong Triết Học gọi
bản thể chân thật là Bản Thể Luận
(Ontology). Trong Triết Học, cho đến hiện thời
vẫn chưa thể giảng rõ khái niệm “bản thể”
(noumenon) này, chưa thể luận định chắc chắn,
nhưng trong Phật pháp đã giảng rõ ràng, minh bạch,
chẳng có mảy may nào mơ hồ. Vì sao? Nhiều người
đã chứng đắc. Thích Ca Mâu Ni Phật chứng
đắc đầu tiên dưới cội Bồ Đề.
Trong số các học trò [của Ngài], cũng có nhiều vị
chứng đắc, chứng đắc bèn gọi là “thành Phật”. Tại Trung Quốc,
lịch đại tổ sư đại đức thật
sự chứng đắc cảnh giới này có đến
mấy ngàn vị. Trong Truyền Đăng Lục của
Thiền Tông, có một ngàn bảy trăm công án, đấy
chính là có tới một ngàn bảy trăm người chứng
đắc, chẳng phải là một người. Ngoài ra,
còn có Giáo Hạ, “đại khai viên giải” cũng là cảnh
giới này. Tịnh Độ Tông niệm đến Lý nhất
tâm bất loạn cũng là cảnh giới này. Lý nhất
tâm bất loạn là minh tâm kiến tánh. Vì thế, chuyện
này chẳng giả. Sau khi chứng đắc, quý vị
để các Ngài trình bày, tức là để cho mỗi một
vị đã chứng đắc giải thích [cảnh giới
chứng đắc, sẽ thấy] ý nghĩa tương
đồng, đại đồng tiểu dị, tuy lời
lẽ không hoàn toàn giống, nhưng ý nghĩa hoàn toàn
như nhau. Chuyện này chẳng phải giả, mà là hội
đủ tinh thần khoa học trong ấy. Họ không cần
tới các dụng cụ khoa học để cầu chứng
đắc, họ dùng công phu Thiền Định. Thiền
Định là gì? Buông xuống! Buông vọng tưởng xuống,
buông phân biệt xuống, buông chấp trước xuống,
bèn chứng đắc.
Trên thực tế, chúng ta và hết
thảy chư Phật Như Lai chẳng khác gì nhau. Vì thế,
trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn thường nói: “Hết thảy chúng sanh vốn
là Phật”, lời này là thật, chẳng giả tí nào!
Nay vì sao biến thành như vậy? Mê rồi, mê mất tự
tánh, trọn chẳng phải là tự tánh không có, tự
tánh vẫn tồn tại, nhưng quý vị đã mê rồi!
Trong kinh Lăng Nghiêm có một tỷ dụ rất hay: “Diễn Nhã Đạt Đa, mê
đầu nhận ảnh” (chàng Diễn Nhã Đạt
Đa soi gương, thấy đầu mình chiếu trong
gương bèn mê cuồng), đức Phật đã kể
chuyện này. Nói rõ điều gì? Nói rõ phàm phu chúng ta mê mất
nơi hình dáng của Tự Tánh. Nếu dựa theo kinh Phật
để kể câu chuyện này mà chúng ta vẫn chưa hiểu
lắm, chúng tôi còn có một câu chuyện dễ hiểu
hơn mà vẫn có cùng ý nghĩa. Thuở chúng tôi còn là học
trò, nhằm lúc người Nhật gây chiến, trong thời
gian kháng chiến, học trò Tiểu Học lớp lớn,
tức lớp Năm, lớp Sáu, phải học
chương trình huấn luyện quân sự, có môn học ấy,
đến bậc Trung Học càng chẳng cần phải
nói nữa! Đây là một môn học rất quan trọng.
Trong huấn luyện quân sự có tập hợp khẩn cấp,
hạn định trong ba phút phải trang phục chỉnh
tề phải đến thao trường tập hợp,
thường có chuyện “Diễn
Nhã Đạt Đa, mê đầu nhận ảnh” xảy
ra. Khẩn cấp tập hợp khiến mọi người
bối rối, căng thẳng. Hễ căng thẳng bèn
mê, mũ đã đội ngay ngắn trên đầu, mặc
trang phục chỉnh tề ra ngoài tập hợp, tìm khắp
nơi, hỏi người khác, hỏi bạn học: “Bạn
có thấy cái mũ của tôi hay không?” Hoang mang tở mở
đi kiếm mũ, mê rồi! Bạn học liền chỉ:
“Chẳng phải bạn đang đội mũ trên đầu
đó sao?” Sờ thử, quả nhiên mũ ở trên đầu!
Có mất hay chăng? Không mất, mà là mê rồi! Đức
Phật nêu tỷ dụ này nhằm bảo chúng ta: Tự
tánh của chúng ta và tự tánh của Phật chẳng khác,
nay có tồn tại hay không? Tồn tại! Vì sao tìm không được?
Mê rồi! Khi nào giác ngộ, quý vị liền được
gọi là Phật. Khi quý vị đang mê thì gọi là phàm
phu. Giống như lúc tập hợp khẩn cấp,
đúng là mũ đang đội trên đầu mà chính mình
không biết, tìm khắp nơi, tình huống như vậy
đó!
Trong kinh điển, thường
thấy ba danh từ này, rất khó giải thích, coi từ từ
sau này sẽ hiểu. Tâm quý vị càng thanh tịnh, càng hiểu
sâu hơn. Hời hợt, bộp chộp là chướng ngại
lớn nhất trong sự học tập của chúng ta. Nếu
không diệt trừ hời hợt, bộp chộp, sẽ
vĩnh viễn không thể thấu hiểu. Cái mà quý vị
có thể học được chỉ là ngôn từ! Ngôn từ
là bề ngoài, là văn tự, danh tướng, quý vị học
những thứ này, không có cách nào nhận biết đạo
lý chân thật. Tâm quý vị càng thanh tịnh, càng hiểu
sâu; đến khi tâm bình đẳng hiển hiện, gần
như là chưa khai ngộ thì cũng mấp mé khai ngộ!
Thanh tịnh là Kiến Tư phiền não mỏng nhẹ.
Đoạn Kiến Tư phiền não, tâm thanh tịnh thật
sự hiện tiền; Trần Sa phiền não đoạn rồi,
tâm bình đẳng hiện tiền. Tâm chúng ta bất bình đẳng thì làm gì được? Vì
sao chẳng bình đẳng? Có Ngã! Có Ngã sẽ chẳng bình
đẳng; nói chung, [sẽ nghĩ] ta giỏi hơn
người khác một chút, đó là ngạo mạn.
Chư vị phải biết: Hễ có Ngã, bèn có ngạo mạn,
quý vị chẳng thừa nhận cũng không được!
Đức Phật nói rất hay, vì sao? Quý vị có Ngã là có
Mạt Na Thức, bốn đại phiền não thường
phụ thuộc Mạt Na Thức. Bắt đầu có từ
khi nào? Trong pháp Đại Thừa, có một câu mà hết thảy
mọi người đều biết: “Phụ mẫu vị sanh tiền bản lai diện
mục” (diện mạo vốn có trước khi
được cha mẹ sanh ra). Đó chính là Ngã, chẳng
phải là được cha mẹ sanh ra rồi mới có
Ngã. Trước khi được cha mẹ sanh ra đã có
Ngã. Người bình thường chúng ta gọi Ngã là “linh hồn”. Nói theo Phật
pháp, không gọi là linh hồn, mà gọi là “linh tánh”. Kẻ ấy có Ngã Chấp hay không? Có! Có
Ngã Chấp thì gọi là “linh hồn”, không có Ngã Chấp sẽ
gọi là “linh tánh”. Vì sao? Không gian hoạt động của
kẻ ấy không ra khỏi lục đạo luân hồi,
kẻ ấy chuyển vần trong lục đạo, không
thoát ra được. Vì sao? Mê rồi! Nếu kẻ ấy
giác ngộ, sẽ vượt thoát lục đạo; chẳng
gọi là “linh hồn” nữa, mà gọi là “linh tánh”, hoạt
động trong không gian lớn hơn, không gian hoạt
động của kẻ ấy là mười pháp giới.
Vì sao kẻ ấy vẫn chưa vượt thoát mười
pháp giới? Còn có khởi tâm động niệm, do chưa
phá vô minh. Sau khi phá vô minh, danh từ “linh tánh” cũng chẳng
còn, mà gọi là “tự tánh”, đã trở về nguồn, tức
là trở về tự tánh. Khi ấy gọi là gì? Gọi là
Phật, chân Phật, chẳng phải giả Phật. Một
thứ mà có tới ba danh từ (linh hồn, linh tánh, tự
tánh), một mà ba, ba mà một!
Như vậy thì chúng ta chỉ
cần một niệm bị mê, hễ mê thì tự tánh của
chúng ta biến thành A Lại Da Thức. Trong ba tế tướng
của A Lại Da Thức, Chuyển Tướng chính là Mạt
Na Thức. Cái đầu tiên trong Mạt Na Thức là Ngã Kiến.
Ngã Kiến là chấp trước có Ngã. Lấy gì làm Ngã? Chấp
trước một phần của A Lại Da Thức, nói
theo kiểu bây giờ sẽ là “một phần năng
lượng”, mọi người dễ hiểu hơn. Nói
theo danh từ hiện tại là một phần vật chất,
có lẽ chúng ta không nói “năng lượng”, mà nói rõ ràng
hơn một chút là “một phần thông tin”. Mạt Na là
thông tin[5], A Lại Da là năng lượng,
tướng cảnh giới là vật chất. Theo khoa học
hiện đại, trong vũ trụ chỉ có ba thứ là
năng lượng, vật chất, và thông tin. Ba tế
tướng của A Lại Da (chuyển tướng, vô
minh nghiệp tướng và cảnh giới tướng)
có cùng một ý nghĩa [với năng lượng, vật
chất và thông tin trong cách diễn giải của khoa học],
nhưng họ (các khoa học gia) giảng không rõ ràng lắm.
Vật chất do đâu mà có? Thông tin do đâu mà có? Năng
lượng do đâu mà có? Họ chẳng nói được!
Trong Phật pháp nói đến Nhất Thể, đó chính là
Tự Tánh. Khi chẳng mê là nhất thể, quý vị chẳng
thể chia ra phần nào là năng lượng, phần nào
là vật chất, phần nào là thông tin, chia không được!
Đấy chính là [ý nghĩa của] câu nói thứ ba của
Huệ Năng đại sư: “Hà
kỳ tự tánh, bổn tự cụ túc” (nào ngờ tự
tánh vốn tự trọn đủ), nó có, nhưng chẳng
hiện. Khi nó hiển hiện, tức là có duyên phận, tức
là một niệm vọng động, khởi lên một niệm,
nó bèn hiện, có thể sanh vạn pháp. Có thể sanh vạn
pháp thì ta là chánh báo, hoàn cảnh là y báo. Y báo và chánh báo đồng
thời khởi lên, không có trước sau. Trong sách Hoàn
Nguyên Quán đã giảng chuyện này rất rõ ràng, từ nhất
thể khởi ra nhị dụng. Nhị dụng gồm:
- Một là chánh báo của chúng ta, Ngã xuất
hiện.
- Thứ kia là hoàn cảnh sống xuất
hiện; đó là vũ trụ.
Đối với chuyện này, khoa học
lẫn Triết Học hiện đại đều
chưa thể nói rõ ràng. Trong kinh Phật từ ba ngàn
năm trước đã giảng rõ ràng dường ấy!
Hết sức đáng tiếc là các nhà khoa học thiếu
phước báo, chưa đọc kinh Phật. Nếu họ
xem kinh Phật, tôi tin là những người đó rất
thông minh, cảnh giới của họ nhất định
sẽ được nâng cao trên một mức độ rộng
lớn. Vì sao nói quý vị có phiền não? Mạt Na Thức
có Ngã Kiến, dính dáng Ngã Ái. Ngã Ái là tham, ngã mạn. Ngã mạn
là sân khuể, ngã mạn và sân khuể dính liền, ta bèn si.
Do vậy, Ngã Kiến, Ngã Ái, ngã mạn, và ngu si, bốn
đại phiền não thường nương theo [Mạt
Na Thức]. Lẽ nào quý vị chẳng ngạo mạn? Ngạo
mạn là bẩm sinh, tự nhiên có! Một niệm bất
giác bèn mê, mê rồi bèn sanh ra hiện tượng này, chứ
trong Thật Tế Lý Thể không có hiện tượng
này, Thật Tế Lý Thể hiện ra những hình tướng
nào? Trí huệ, đức năng, tướng hảo. Một
niệm dấy lên sẽ mê, biến thành tham, sân, si; thông tin
ấy bèn phát sanh.
Thật Tướng Lý Thể
còn gọi là Chân Như Thật Tướng, Chân là nói về
Thể, có thể sanh. [Chân] là cái bản thể có thể
sanh, có thể hiện. “Như”
là nói về tướng, tức hiện tướng
(tướng được biến hiện). Hiện
tướng là tướng được biến hiện
từ bản thể. Hiện tướng và Thể chẳng
tách rời; cho nên nói “Tánh Tướng
bất nhị”. Điều này cũng chẳng dễ hiểu.
Xưa nay, tổ sư đại đức, trong kinh Phật
cũng có nói, thường dùng vàng và các vật chế bằng
vàng để làm tỷ dụ, đem vàng ví với Thể.
Đúng vậy! Vàng làm thành các món đồ;
đó gọi là Như. Vì sao gọi là Như? Nó là vàng. Quý vị
nói xem: Đem vàng ròng làm thành tràng hạt. Tràng hạt ấy
có phải là vàng hay không? Là vàng! Đem vàng làm thành nhẫn,
làm vòng đeo tay, làm thành chén trà, đều có thể làm
được. Do vậy nói: “Tướng
cũng như Tánh, Tánh cũng như Tướng, Tánh và
Tướng chẳng hai”. Từ Tướng, quý vị
thấy được vàng, tức là quý vị thật sự
biết giá trị. Nếu quý vị chẳng biết giá trị,
sẽ tách rời vàng và những món đồ này. Tôi để
cho quý vị chọn lấy vàng, quý vị nhìn vào hết thảy
những món đồ này: “Không có, ở đây không có vàng!”
Vòng đeo tay có phải là vàng hay không? Cái chén có phải là
vàng hay không? Cái tô có phải là vàng hay không? Toàn là vàng làm thành.
Bảo quý vị lấy vàng ra, quý vị tìm không được,
đó là gì? Mê rồi! Mê mất tự tánh. Hễ ngộ, [bảo
quý vị] lấy vàng ra, bèn thuận tay cầm lấy, thứ
gì cũng đều là vàng! Do vậy, Tánh - Tướng chẳng
hai! Tánh không có hình tượng được biến hiện
(hiện tướng), tuy nó hiện ra hình tượng,
nhưng Tướng là huyễn tướng, chẳng thật!
Vì thế, trong giáo pháp Đại Thừa thường nói: “Vạn pháp đều là không, trọn
chẳng thể được”. Đó là thật. Kinh
Kim Cang nói: “Phàm những gì có hình
tướng đều là hư vọng”, “hết thảy pháp hữu vi,
như mộng, huyễn, bọt, bóng”, đều là nói lời
thật với quý vị. Đấy là Chân Như.
Thật Tướng: Thật
Tướng là chân tướng. Quý vị phải nhận
biết chân tướng. Chân tướng là gì? Trong Tướng
có Tánh, Tánh và Tướng không tách rời, thật đấy!
Tánh không thể được, mà Tướng cũng không
thể được. Nếu Tánh đã là không thể
được, làm sao có thể đạt được
Tướng ? Do vậy, trong một bộ Đại Bát
Nhã sáu trăm quyển, đức Phật giảng điều
gì? Chính là giảng “Nhất thiết
pháp vô sở hữu, tất cánh không, bất khả đắc”
(hết thảy các pháp vô sở hữu, rốt ráo không,
không thể được). Hiện tại, phiền não của
chúng ta từ đâu mà sanh? Đã là “chẳng thể
được” mà cứ nhất định muốn đạt
được, chẳng phải là quý vị đã tự
chuốc phiền đó sao? Khổ não không có bờ mé. Hễ
giác ngộ, khổ não bèn chẳng còn nữa; đã hiểu
rõ chân tướng, chẳng còn chấp trước, chẳng
còn dấy vọng tưởng. Thọ, Tưởng, Hành,
Thức đều không thể được, đều
là giả. Thọ, Tưởng, Hành, Thức do đâu mà có?
Do tự tánh mà có. Tự tánh có bốn tịnh
đức “thấy, nghe, hay, biết”, chúng là thật. Sau
khi mê, từ “thấy, nghe, hay, biết” sẽ biến thành
Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Chúng ta gọi Thọ,
Tưởng, Hành, Thức là “tâm lý”. Tâm lý là giả, chẳng
thật. Chân tâm là thanh tịnh; “thanh
tịnh, bình đẳng, giác”. Đó là chân tâm. Vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước nhất
định là vọng tâm.
Trong kinh nói “huệ dĩ chân thật chi lợi”,
“huệ” (惠) là ban tặng.
Chư Phật Như Lai, Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
trong bộ kinh này đã ban cho chúng ta lợi ích chân thật,
cho nên là thuần nhất chân thật. Bộ kinh này “trụ chân thật huệ, khai
hóa hiển thị chân thật chi tế, huệ dĩ chân
thật chi lợi, thuần nhất chân thật dã” (trụ
trong chân thật huệ, khai hóa, hiển thị Chân Thật
Tế, ban cho lợi ích chân thật, thuần nhất chân thật).
Đây là nói kinh này khế Lý; không chỉ khế Lý, mà còn khế
Lý viên mãn. “Hựu bổn kinh
xưng vi trung bổn Hoa Nghiêm Kinh” (kinh này còn được
gọi là kinh Hoa Nghiêm bản trung). Câu này do Bành Tế Thanh
nói, ông ta là người sống trong thời Càn Long nhà Thanh
trước kia, là một vị đại đức trong
Phật môn, thông Tông, thông Giáo, Hiển Mật viên dung, rất
lỗi lạc. Ông ta nói: Kinh Vô Lượng Thọ chính là
trung bổn Hoa Nghiêm. Nói cách khác, A Di Đà Kinh là tiểu bổn
Hoa Nghiêm, Hoa Nghiêm Kinh là đại bổn A Di Đà Kinh. Một
mà ba, ba nhưng một, kinh Hoa Nghiêm giảng tỉ mỉ,
kinh Di Đà nói vắn tắt, thuận tiện cho khóa tụng.
Vì thế, thuở trước, tôi giảng kinh thường
khuyên những đồng học
trẻ tuổi: Nếu thật sự muốn giảng giải
thấu triệt Tịnh Độ ngũ kinh nhất luận,
nhất định phải học Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm là chú
giải tỉ mỉ của ngũ kinh nhất luận, là
một, không hai.
Ở đây, cụ Niệm Tổ
dẫn câu nói này, cụ bảo: “Kinh
trung sở thuyên”, tức là những điều
được trình bày trong kinh này, “nhất thiết Sự Lý, tức Hoa Nghiêm chi Sự
Lý vô ngại, Sự Sự vô ngại chi Nhất Chân pháp giới”
(hết thảy Sự Lý chính là Nhất Chân pháp giới Sự
Lý vô ngại, Sự Sự vô ngại trong kinh Hoa Nghiêm).
Đây là nói rõ: Nội dung của kinh Vô Lượng Thọ
và kinh Hoa Nghiêm chẳng khác nhau. Kinh Hoa Nghiêm nói tỉ mỉ,
còn ở đây (tức kinh Vô Lượng Thọ) nói những
điều giản yếu, tức là nói đơn giản,
chú trọng những chỗ quan trọng, mấu chốt.
Sau khi đọc bộ kinh này, tôi chẳng giảng kinh Hoa
Nghiêm nữa. Tôi thuở trẻ học kinh giáo, trong những
kinh được thầy Phương Đông Mỹ tiên
sinh giới thiệu cho tôi đọc có kinh Hoa Nghiêm. Hơn
nữa, thầy hết sức coi trọng kinh Hoa Nghiêm. Thầy
yêu thích, tiên sinh Phương Đông Mỹ ưa thích bộ
kinh này, đặc biệt giới thiệu với tôi, giới
thiệu bản chú giải của Thanh Lương đại
sư, có lý lắm. Tôi nhớ lúc Hoằng Nhất đại
sư tại thế, giới thiệu kinh giáo Đại Thừa
cho những phần tử tri thức học tập, Ngài cũng
giới thiệu bản chú sớ kinh Hoa Nghiêm của Thanh
Lương đại sư. Sau khi tiếp xúc, nếu quý vị
kiên nhẫn thâm nhập, sẽ có pháp hỷ sung mãn, có thể
thụ dụng, nhưng kinh này quá dài! Trước kia, Hoàng
lão cư sĩ vào đầu thập niên sáu mươi [chuẩn
bị chú giải kinh Vô Lượng Thọ], vào đầu
thập niên sáu mươi, tôi cũng bắt đầu giảng
kinh Hoa Nghiêm, cũng giảng suốt mười mấy
năm, chỉ giảng được phân nửa. Sau này,
giảng kinh Vô Lượng Thọ, giảng rất hoan hỷ.
Kinh Vô Lượng Thọ đã là trung bổn Hoa Nghiêm, tôi
chẳng cần phải giảng Hoa Nghiêm nữa. Chính mình
đọc kinh Hoa Nghiêm là được rồi. Vì thế,
ngưng lại [không giảng nữa]. Tôi cũng thật sự
từ kinh Hoa Nghiêm mà nhận thức Tịnh Độ, chết
sạch so đo, khăng khăng tu học pháp môn này. Chuyện
này trong các buổi giảng trước đây, tôi đã từng
thưa bày cùng quý vị.
Giảng kinh Hoa Nghiêm lần này
là nhân duyên đặc thù, do có ba người khải thỉnh.
Người thứ nhất là pháp sư Khai Tâm ở Đài
Loan, Sư đã vãng sanh. Thuở trước, khi còn sống,
mỗi lần gặp tôi, Sư đều khuyên tôi giảng
kinh Hoa Nghiêm, bảo tôi: “Pháp sư Tịnh Không! Nếu thầy
không giảng, sợ rằng sau này chẳng có ai giảng!”
Không chỉ một lần, mỗi lần gặp mặt
Sư đều nhắc nhở. Tôi rất cảm kích,
nhưng hoàn chẳng động tâm. Lần thứ hai tại
Bắc Kinh, tôi sang thăm lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ,
lão cư sĩ rất nghiêm túc, cũng
rất từ bi, thỉnh tôi giảng kinh Hoa Nghiêm. Tôi cũng
rất cảm kích, cụ cũng nghĩ sau này, người
có thể giảng bộ kinh này không nhiều lắm, nhưng
tôi vẫn chẳng động tâm. Lần thứ ba là khi
Hàn Quán Trưởng của Hoa Tạng Đồ Thư Quán
bệnh nặng, trên thực tế là hai hôm trước khi
bà ta vãng sanh, đã hết sức khẩn thiết yêu cầu
tôi giảng kinh Hoa Nghiêm một lần, giảng hoàn chỉnh
một lần, lưu một bộ băng thâu hình. Khi
đó là băng video, còn chưa có CD, CD chưa phổ biến.
Khi chiếu lên TV, vẫn phải dùng một cái hộp to ngần
ấy (VCR) để chạy băng. Bà ta mong lưu lại
một bộ băng video hoàn chỉnh để người
đời sau tham khảo. Do bà ta đang bệnh, bệnh nặng
như vậy, nhằm an ủi bà, tôi liền nhận lời,
tôi nói: “Được! Chờ bà lành bệnh, tôi sẽ giảng”.
Hai ngày sau, bà ta vãng sanh. Ba lần [được khuyến
thỉnh như vậy].
Sau khi lão nhân gia qua đời,
chúng tôi rời Đài Loan sang Tân Gia Ba, giảng kinh tại
Tân Gia Ba Cư Sĩ Lâm. Tôi và cư sĩ Lý Mộc Nguyên nói
tới chuyện này. Cư sĩ Lý Mộc Nguyên hết sức
hoan hỷ, ông ta nói: “Tôi thay mặt ba người ấy khải
thỉnh pháp sư!” Ông ta sốt sắng như vậy,
được rồi! Lần này, chúng tôi khai giảng kinh
Hoa Nghiêm tại Tân Gia Ba Cư Sĩ Lâm khai giảng, giảng
nhiều năm như thế, giảng tới bốn ngàn
giờ. Giảng được bao nhiêu? Đại khái là
giảng được một phần năm của cả
bản kinh. Như vậy thì để giảng viên mãn bộ
kinh này theo phương pháp mà tôi đã dùng, đại khái cần
bao nhiêu giờ? Hơn hai vạn giờ! Chắc chắn phải
hơn hai vạn giờ. Tôi còn có thể sống lâu như
thế hay chăng? Kinh dài mà giảng gọn lại thì
được, hai, ba năm cũng có thể giảng xong;
nhưng con người hiện thời nghe kinh, càng chi tiết,
càng thú vị. Theo phương pháp giảng kinh như cổ
nhân, đừng nói tới thời xa xôi quá, ngay như
phương pháp giảng kinh của thầy tôi là lão cư
sĩ Lý Bỉnh Nam, người bình thường trong hiện
tại sẽ chẳng dễ tiếp nhận. Quá
đơn giản, nghe không hiểu, đây là nói tới vấn
đề khế cơ. Giảng cho người hiện
đại, phải giảng thấu triệt, giảng rõ
ràng, giảng minh bạch, họ thật sự nghe hiểu
sẽ sanh tâm hoan hỷ. Đúng là khó khăn!
Lần này tôi nói với các đồng
học, tôi tạm thời ngưng kinh Hoa Nghiêm lại. Tôi
nghĩ là ngừng một năm, trong thời gian một
năm này, giảng minh bạch, rõ ràng bộ chú giải này.
Vì sao? Đây là trung bổn Hoa Nghiêm. Hiện tại, cả
thế giới, xã hội động loạn, tai nạn
liên tiếp xảy ra. Trong tháng này, các đồng học có
gởi cho tôi xem một tài liệu: Từ ngày mồng Bốn
tháng Ba đến mồng Bảy tháng
Tư, trong thời gian một tháng, khắp thế giới
đã có mười một lần động đất từ
cấp sáu trở lên. Vùng biển Ấn Ni (Indonesia) phát sanh
sóng thần (tsunami), xảy ra liên tiếp như vậy,
dày đặc như vậy. Nhiều đồng học
đã xem phim “2012”. Bốn mươi, năm mươi
năm qua tôi chẳng xem phim, chẳng coi TV, các đồng
học một mực kéo tôi đi xem. Tôi coi xong, trở về
bảo mọi người: Đây chẳng phải là ngẫu
nhiên, phim được chiếu trên khắp thế giới,
đối với người học Phật chúng ta mà nói,
đây là một thứ cảm ứng, cõi trời đã cảnh
cáo nhân loại. Nếu chẳng sám hối, nếu không quay
đầu, chẳng thể đoạn ác tu thiện, sửa
lỗi, đổi mới, sợ rằng tai nạn ấy
sẽ là sự thật, chẳng giả!
Hai năm gần đây nhất,
chúng ta làm Tam Thời Hệ Niệm Phật sự, tôi đề
xướng làm bốn mươi chín ngày. Đang khi bắt
đầu, trong hôm thứ nhất hay hôm thứ hai, trong
đạo tràng có một đồng tu bị quỷ thần
dựa thân, đến tìm tôi, tôi hỏi: “Chuyện gì?”
Người ấy nói: “Thầy không biết đâu! Hiện
thời, tai nạn rất nghiêm trọng [sẽ xảy ra]
trong một thời gian rất dài”, báo cho tôi biết mức
độ nghiêm trọng. Tôi nói: “Ước chừng bao
lâu?” Người ấy nói: “Đại khái là từ ba
năm đến năm năm”, thời gian dài như thế
đó! Người ấy nói: “Phật sự bốn
mươi chín ngày không đạt hiệu quả”. Tôi hỏi:
“Làm sao mới có thể đạt được hiệu
quả?” Người ấy đề nghị một
trăm thất, tức là phải làm Hệ Niệm Phật
sự bảy trăm ngày! Sau khi tôi nghe xong, tôi nói:
“Được rồi! Ngươi hãy đi đi”. Sau
đấy, tôi tìm lão hòa thượng Mãn Thành ở Thật
Tế Thiền Tự[6], Ngài cũng đã vãng sanh rồi, vãng
sanh vào năm ngoái. Tôi và Ngài thương lượng. Tôi hỏi:
“Ý lão hòa thượng như thế nào?” Lão hòa thượng
đáp ứng ngay. Vì thế, tại Thật Tế Thiền
Tự, lần đầu tiên làm một trăm thất, làm
Hệ Niệm Phật Sự bảy trăm ngày là do quỷ
thần nhập thân yêu cầu. Pháp hội này đến
ngày Hai Mươi Lăm tháng Ba mới viên mãn, bảy
trăm ngày!
Hiện thời, tai nạn ngày
càng nhiều, khi ấy, tôi ở Đài Loan để chữa
răng, tôi bị bệnh nha chu[7], tôi bảo pháp sư Ngộ Đạo,
đạo tràng của thầy ấy ở Đài Bắc.
Tôi nói: “Sau khi thầy trở về, hãy tổ chức Phật
sự bảy trăm ngày tại Đài Bắc”. Pháp sư
Ngộ Hạnh ở Đài Nam, tôi bảo: “Ông cũng làm Phật
sự bảy trăm ngày tại Đài Nam. Tôi phối hợp
với các ông bắt đầu giảng kinh Vô Lượng
Thọ”. Bọn họ đều hoan hỷ. Tôi nói: “Chúng ta
giảng bộ kinh này cõi âm lẫn dương gian đều
được lợi, hy vọng đem công đức giảng
kinh này hồi hướng cho hư không pháp giới, mong hóa
giải tai nạn. Dẫu chẳng thể hóa giải, cũng
khiến cho tai nạn giảm nhẹ, chậm xảy ra,
chúng ta có thể tin tưởng điều này”. Đây là
nhân duyên chúng tôi giảng kinh lần này. Chúng tôi mong muốn
đem bộ kinh này do cụ Hạ đã tốn thời
gian mười năm hội tập thành một bản
tiêu chuẩn hoàn mỹ như vậy, cụ Hoàng Niệm Tổ
không nề hà tuổi già, lắm bệnh, suốt ngày
đêm không nghỉ ngơi để hoàn thành trước
tác này, nếu chúng ta không nghiêm túc nỗ lực học tập
kỹ càng, làm sao xứng với hai vị lão nhân ấy?
Do vậy, tôi bảo các đồng
học, mọi người chúng ta hãy phát tâm. Thật sự
muốn cứu vớt tai nạn này, có thể [cứu vớt]
hay không? Câu trả lời là khẳng định! Nếu
trên thế giới này, thật sự có một đạo
tràng đúng pháp xuất hiện, trên cả địa cầu
sẽ chẳng còn tai nạn! Đạo tràng gì vậy?
Tăng đoàn. Tăng là gì? Tăng có nghĩa là Lục Hòa
Kính, trong ấy có sáu điều kiện. Sáu chuyện ấy
đều làm được [thì gọi là Tăng]. Bốn
người trở lên ở cùng một chỗ tu hành thì gọi
là Chúng; đây là một đoàn thể tuân thủ giáo huấn
của đức Phật. “Kiến
hòa đồng giải”, con người hiện thời
gọi là “thành lập cộng
thức” (hình thành một nhận thức chung). Chúng ta là
những người cùng nhau tu học, tư tưởng
nhất trí, kiến giải là nhất trí, chẳng mâu thuẫn,
chẳng đối lập; đây là điều kiện trọng
yếu nhất trong Lục Hòa. Thứ hai là “giới hòa đồng tu”, mọi người ở
cùng một chỗ nhất định phải giữ quy củ,
quy củ là gì? Quy củ là giới luật. Thứ ba là “thân hòa đồng trụ”,
chúng ta ở cùng một chỗ. “Khẩu
hòa vô tránh”, mọi người giữ một niềm
hòa khí, không tranh cãi. “Ý hòa đồng
duyệt”, tu hành cùng một chỗ, sống cùng một
chỗ, vui vẻ, pháp hỷ sung mãn. Điều cuối
cùng là “lợi hòa đồng
quân”, cũng là đãi ngộ bình đẳng trong cuộc
sống vật chất, không có người nào được
ưu đãi [hơn người khác]. Đây là thuở Thích
Ca Mâu Ni Phật tại thế, trong Tăng đoàn của
Ngài có sáu quy củ đơn giản như thế. Tăng
đoàn của Phật rất lớn, một ngàn hai
trăm năm mươi lăm người; trong kinh chúng
ta thường thấy: Người người đều
tuân thủ sáu điều này. Nay có thể xuất hiện
một Tăng đoàn như thế, trong kinh, đức Phật
đã dạy chúng ta: Hết thảy chư Phật hộ
niệm, hết thảy thiên long thiện thần ủng hộ,
nơi ấy sẽ không có tai nạn; nhưng Tăng
đoàn như vậy [kiếm không ra]. Ba mươi năm
trước, lần đầu tiên tôi đến
Hương Cảng giảng kinh vào năm 1977, đã gặp
pháp sư Tẩy Trần, chúng tôi hết sức hợp
duyên, nói chuyện rất hợp. Sư cũng là một
trong các vị lãnh tụ của Phật giáo Hương Cảng,
Sư cũng vãng sanh từ mấy năm trước rồi!
Tôi và Sư nói tới vấn đề này, tôi nói: “Chúng ta có
thể phát tâm hay không? Tìm năm người xuất gia chí
đồng đạo hợp, năm vị tỳ-kheo,
chúng ta thi hành Lục Hòa Kính, thành lập Tăng đoàn này?”
Sư nghe xong rất hoan hỷ. Tôi ở Đài Loan, Sư ở
Hương Cảng. Bàn bạc rất vui vẻ, nhưng
không có cách nào thực hiện, chẳng dễ dàng! Đạo
tràng hiện thời, hai người ở chung một chỗ
thường cãi nhau, còn làm gì được nữa? Thật
sự có thể xuất hiện Tăng đoàn này, thì
nơi ấy, tai nạn sẽ bị hóa giải. Có ai thật
sự chịu làm hay không?
Làm thế nào mới có thể
thực hiện? Đạt đến vô ngã sẽ thực
hiện được! Khởi tâm động niệm nghĩ
đến người khác. Nếu khởi tâm động
niệm, ý niệm thứ nhất bèn nghĩ đến
chính mình, sẽ không thể thực hiện được!
Vào Phật môn, ải thứ nhất là phá Ngã Chấp. Trong
Kiến Tư phiền não có năm món Kiến Hoặc, món
đầu tiên là Thân Kiến, chấp chặt cái thân này là
ta. Hết thảy đều vì cái thân ta mà suy nghĩ, hỏng
rồi! Tự tư, tự lợi, tiếng tăm, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn,
toàn bộ dấy lên, làm sao có thể hòa hợp với
người khác? Vì thế, đừng chấp trước
thân này là ta nữa, đừng đối lập với
người khác nữa. Không chỉ chẳng đối lập
với người khác, mà trong hết thảy mọi sự
đều chẳng đối lập, chẳng đối
lập với vạn vật trong trời đất.
Đó là phá Biên Kiến. Sau đấy, lại phá Thành Kiến.
Chúng ta nói người nào đó thành kiến rất sâu, ta nghĩ
như vậy. Ta cho là như vậy thì sẽ không thể
tu tùy hỷ công đức, sẽ không thể hằng thuận
chúng sanh. Phải buông thành kiến xuống, quý vị mới
có thể tu tùy hỷ công đức, mới có thể tu hằng
thuận chúng sanh. Đấy mới là bước đầu
để nhập Phật môn. Trong Tiểu Thừa là Tu
Đà Hoàn, trong Đại Thừa là địa vị
Sơ Tín Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm. Tuy mới nhập môn,
nhưng công đức ấy chẳng thể nghĩ bàn,
cho nên được hết thảy chư Phật hộ
niệm, quý vị thật sự là đệ tử của
Phật, lẽ nào Phật chẳng quan tâm đến quý vị?
Trời, rồng ủng hộ, quỷ thần tôn kính. Một
Tăng đoàn như vậy xuất hiện, nơi ấy
thật có phước! Có bốn năm người thật
sự chịu làm [như vậy] hay chăng? Bỏ mình vì
người, khởi tâm động niệm đều mong
cho chánh pháp của Thích Ca Như Lai được tồn tại
lâu dài, khởi tâm động niệm luôn vì hết thảy
chúng sanh khổ nạn trong thế gian này, đừng nghĩ
tới chính mình, quên đi bản thân thì mới có thể thực
hiện Lục Hòa Kính.
Hiện thời tai nạn hiện
tiền, tôi đã nói với mọi người. Cư sĩ
Lưu Tố Vân cũng đã báo cáo với quý vị, rất
khó có! Chúng ta phải có cách nhìn như thế nào? Phải giống
như Ấn Quang đại sư đã nói: Đem một
chữ Chết dán trên trán! Tôi đã đến viếng quan
phòng (nơi bế quan) của Ấn Quang đại sư
tại Linh Nham Sơn Tự, Tô Châu. Trong quan phòng có một
Phật đường nhỏ, chẳng lớn, đại
khái chỉ lớn bằng nửa phòng thâu hình của chúng
ta. Sau tượng Phật có viết một chữ, do chính
lão nhân gia đã viết chữ “Tử” ấy. Hằng ngày
nghĩ đến, cái chết ở trước mặt,
còn có cái gì mà quý vị không thể buông xuống được?
Do vậy, hôm nay, sau khi chúng ta xem xong phim “2012”, tôi nói với
mọi người, chúng ta phải coi ngày hôm nay như ngày
cuối cùng trên cuộc đời. Sáng mai thức dậy,
ta lại coi như là ngày cuối. Mỗi ngày đều là
ngày cuối cùng, điều gì quý vị cũng buông xuống
mới hòng đạt được tâm thanh tịnh! Đến
thế gian này với hai bàn tay trống trơn, khi đi, vẫn
trống trơn ra đi, cái gì cũng không mang theo được!
Nhất tâm tưởng Phật, trong tâm điều gì cũng
chẳng màng tới, chỉ có A Di Đà Phật, một
phương hướng, một mục tiêu. Một
phương hướng là Tây Phương Cực Lạc
thế giới, một mục tiêu là đến Cực Lạc
thế giới thân cận A Di Đà Phật. [Chỉ có] một
niệm này, trừ một niệm này ra, không có niệm thứ
hai, quý vị mới thật sự buông xuống vạn
duyên. Tai nạn xảy đến có sợ hay không? Không sợ.
Ta mỗi ngày tưởng A Di Đà Phật, mỗi ngày
tưởng thế giới Cực Lạc, rốt cuộc
đến dịp, ta bèn ra đi, chẳng có mảy may sợ
hãi gì! Mỗi ngày đều chờ đợi, mỗi ngày
đều hướng về, đó là đúng. Đây chẳng
phải là tiêu cực, mà là tích cực. Ngày hôm nay là ngày cuối
cùng của ta, ắt phải đoạn ác tu thiện, ắt
phải tích công lũy đức, vì sao? Phải biết
nâng cao phẩm vị của chính mình. Chúng sanh khổ nạn,
ta có được một ngày, sống một ngày thì phải
toàn tâm toàn lực giúp mọi người một ngày. Ta giúp
mọi người một ngày nhưng tâm địa trong sạch,
tam luân thể không, trọn chẳng chấp tướng,
niệm niệm chẳng xả A Di Đà Phật. Có
được bốn năm người thật sự có
thể quán như thế, thật sự làm, Tăng đoàn
hòa hợp sẽ thành lập, ở nơi đâu? Ngay trong
tiểu đạo tràng này, tiểu đạo tràng này chiếu
sáng đại thiên. Chúng ta là người đã học bộ
Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, đều biết: Niệm vừa
dấy lên, lập tức trọn khắp pháp giới.
Đây là nói thông tin linh thông, chẳng bị chướng ngại
mảy may. Tốc độ [lan truyền ấy] nhanh
hơn tốc độ ánh sáng, nhanh hơn tốc độ
của sóng điện từ (electromagnetic wave). Ý niệm vừa
khởi, bèn trọn khắp pháp giới, chư Phật, Bồ
Tát biết, thiên long quỷ thần cũng biết. Trong cuộc
đời này, phải có lòng tin kiên định, quyết
định thành Phật trong một đời này. Nay chúng
ta học bộ kinh này, bộ kinh này hướng dẫn
chúng ta thâm nhập một môn, trường thời huân tu,
thành tựu viên mãn Bồ Đề trong một đời.
Vì thế, kinh có dạy, tức
là kinh Hoa Nghiêm có nói: “Lý Sự
vô ngại, Sự Sự vô ngại”. Cảnh giới vô
chướng ngại là Nhất Chân pháp giới. Tây
Phương Cực Lạc thế giới là Nhất Chân
pháp giới, thế giới Hoa Tạng là Nhất Chân pháp giới.
“Hoa Nghiêm bí áo chi Lý Thể, chánh
tại bổn kinh, cố vân Khế Lý” (Lý Thể ẩn
kín, nhiệm mầu của kinh Hoa Nghiêm ở ngay trong kinh
này, nên nói là Khế Lý). Những điều được
nói trong kinh này và kinh Hoa Nghiêm hoàn toàn tương đồng.
“Chí ư khế cơ, tắc
cánh thị bổn kinh chi độc thắng” (Còn về
phần khế hợp căn cơ, bản kinh này lại
càng thù thắng độc đáo). Câu này viết hay quá!
Độc thắng! Hết thảy các kinh do đức Thế
Tôn đã nói trong bốn mươi chín năm, nếu luận
về phương diện khế cơ, đều thua bộ
kinh này. Sở dĩ đức Thế Tôn thuở tại thế
đã nhiều lần tuyên giảng bộ kinh này, vì lẽ
nào? Kinh này khế cơ! Phương pháp này bất luận
là ai cũng đều có thể học, đơn giản,
dễ dàng, ổn thỏa, thích đáng, thành tựu lại
đặc biệt thù thắng, tìm đâu ra một pháp môn
nào khác giống như vậy? “Kinh
trung chi trì danh pháp môn, phổ bị tam căn, tề thâu
phàm thánh” (pháp môn trì danh trong kinh thích hợp khắp ba
căn, thâu tóm lợi căn lẫn độn căn).
Đây là chỗ độc thắng. Dùng phương pháp
nào? Dùng phương pháp Niệm Phật, niệm danh hiệu
Phật. Quý vị niệm bốn chữ A Di Đà Phật
cũng được; mà niệm sáu chữ cũng
được, Nam-mô A Di Đà Phật. Sáu chữ này là dịch
âm tiếng Phạn. “Nam-mô”
có nghĩa là “quy y, quy mạng, tôn kính”, có những ý nghĩa
này, đó là ý nghĩa của chữ Nam-mô. Chữ “A” có thể dịch sang chữ
Hán, A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật là Giác, Vô Lượng
Giác! Vô Lượng Giác là gì? Là tự tánh. Vì thế, danh hiệu
này là chính chúng ta, là danh hiệu tự tánh của
đương nhân. Trong Hệ Niệm Pháp Sự, thiền
sư Trung Phong đã nói rất hay: A Di Đà Phật là tự
tánh Di Đà, Tây Phương Cực Lạc thế giới
là duy tâm Tịnh Độ, chẳng ở bên ngoài! Hết
thảy các pháp chẳng lìa tự tánh, Di Đà và thế giới
Cực Lạc cũng chẳng lìa tự tánh. Nói cách khác, do
tự tánh biến, tự tánh Di Đà! Nói rõ hơn một
chút: Chính mình niệm chính mình, ta chẳng niệm tham, sân,
si, mạn, ta chẳng niệm tự tư, tự lợi,
ta chẳng niệm tiếng tăm, lợi dưỡng, ta
niệm tự tánh, tự tánh là Vô Lượng Giác. Trong kinh
Đại Thừa thường giảng, chúng ta đã nghe
rất nhiều rồi, học nhiều lắm rồi: “Hết thảy các pháp sanh từ
tâm tưởng”. Quý vị tưởng gì, bèn hiện ra
cảnh giới ấy. Nay ta tưởng A Di Đà Phật,
ta nghĩ tới Tánh Đức trong tự tánh của ta, lẽ
nào chẳng thành tựu? Minh tâm kiến tánh là vọng tận
hoàn nguyên, dùng phương pháp này thù thắng khôn sánh!
“Phổ
bị tam căn”, tam căn là thượng, trung, hạ,
[“phổ bị tam căn”
là] các căn tánh bất đồng đều có thể học.
“Tề thâu phàm thánh”: Phàm phu
có thể học, có thể thành công; thánh nhân cũng có thể
học, cũng có thể thành công. “Thượng thượng căn giả, chánh hảo
toàn thể thừa đương” (người thượng
thượng căn rất thích hợp để gánh vác
toàn thể), bậc thượng thượng căn là ai?
Văn Thù Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Âm, Thế
Chí, những vị thánh nhân là bậc thượng thượng
căn. Đúng vậy! Trong kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy
Văn Thù và Phổ Hiền đều phát nguyện cầu
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Tôi đã
từng thưa với các vị đồng học, khi tôi
còn trẻ, vốn tưởng Phật giáo là mê tín, là tôn
giáo, không muốn tiếp xúc, mà cũng chẳng muốn gần
gũi. Về sau, theo học Triết Học với tiên
sinh Phương Đông Mỹ, từ sách giáo khoa, cụ giảng
Triết Học trong kinh Phật cho tôi. Tôi thỉnh giáo cụ.
Tôi nói: “Phật giáo là mê tín, đa thần giáo, phiếm thần
giáo[8],
là tôn giáo cấp thấp, làm sao có Triết Học cho
được?” Cụ dạy tôi: “Anh còn trẻ, chưa biết, Thích Ca Mâu Ni Phật là
bậc triết gia vĩ đại nhất trên cả thế
giới”. Tôi chưa từng nghe ai nói như thế! “Triết Học trong kinh Phật
là đỉnh cao nhất trong toàn bộ Triết Học thế
giới. Học Phật là sự hưởng thụ tối
cao trong cuộc đời”. Tôi mới sửa đổi
quan niệm sai lầm trong quá khứ. Lời dạy sau
đây của cụ hết sức quan trọng: “Phật pháp ở trong kinh điển,
không ở chốn chùa chiền”. Lời hướng dẫn
này hết sức quan trọng. Nếu chúng tôi đến
tìm [Phật pháp] trong chùa chiền sẽ chẳng thấy,
thấy toàn là mê tín, lời thầy nói chẳng phải là
giả hay sao? Do cụ cũng sợ tôi khởi lên mối
nghi hoặc này, [nên dạy tôi hãy học Phật pháp] từ
kinh điển, bảo tôi tìm Phật pháp trong kinh điển,
học tập từ kinh điển.
Sau đấy không lâu, tôi quen biết
Chương Gia đại sư. Chương Gia đại
sư dạy tôi hãy học tập Thích Ca Mâu Ni Phật, dạy
tôi đọc sách. Sách Phật tôi đọc sớm nhất
là Thích Ca Phổ và Thích Ca Phương Chí, đó là truyện
ký về Thích Ca Mâu Ni Phật. Sư nói: “Nếu anh muốn
học Phật, trước hết, phải nhận biết
Thích Ca Mâu Ni Phật”. Đọc rồi mới biết:
Thích Ca Mâu Ni Phật vốn chẳng dính dáng tới tôn giáo.
Nhìn theo quan điểm hiện thời, Phật là gì? Ngài giữ
chức trách của một vị thầy, suốt đời
dạy học. Sau khi đã khai ngộ vào năm ba
mươi tuổi, đức Phật bèn bắt đầu
dạy học; bảy mươi chín tuổi vãng sanh, dạy
học suốt bốn mươi chín năm, vui thích sự
nghiệp này, chẳng mệt mỏi, giống như Khổng
lão phu tử, dạy dỗ không phân biệt, người
đến chẳng cự tuyệt, kẻ đi không giữ
lại. Suốt đời làm công tác dạy học, chẳng
lập đạo tràng! Rừng núi, cội cây, các đệ
tử thường theo hầu không ít người, hơn một
ngàn người. Còn có những người chẳng thường
theo học, ngẫu nhiên đến tham dự, tôi phỏng
đoán nơi Ngài dạy học chắc phải có chừng
hai ba ngàn người, phải là như vậy, kể cả
những người ngẫu nhiên đến dự, phải
có quy mô to lớn như thế. Điều này khiến cho
chúng ta suy tưởng: Thuở ấy, chẳng có máy khuếch
âm (amplifier), Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, âm thanh giảng
kinh có thể phủ trọn, có thể nhiếp thọ một
nơi to lớn như vậy, người bình thường
sẽ chẳng thể làm được! Huống hồ
còn “nhất âm thuyết pháp,
chúng sanh tùy loại các đắc giải” (một âm
thanh thuyết pháp, chúng sanh tùy theo mỗi loại đều
hiểu). Chúng ta biết: Người từ bốn
phương tám hướng tới dự, ngôn ngữ khác
nhau, nhưng Thích Ca Mâu Ni Phật giảng kinh, thuyết
pháp, họ đều có thể nghe hiểu. Đây cũng
chẳng phải là chuyện dễ! Đều có thể
nghe hiểu, tiếp nhận, đúng là một vị thầy
giỏi!
Phật giáo biến thành tôn giáo,
biến thành tình trạng như hiện thời, chúng ta phải
biết là đã xảy ra rất trễ, đại khái tôi
nghĩ phải xảy ra sau thời Gia Khánh. Vào thời Càn
Long, chúng ta thấy [Phật giáo] vẫn là giáo học. Trong
chùa chiền, cao tăng đại đức mỗi ngày giảng
kinh, mỗi ngày đều dạy học. Sau Càn Long là Gia
Khánh, sau Gia Khánh là Đạo Quang, nói chung là dần dần
biến chất trong thời gian này. Tôi nghĩ thật sự
biến chất trên bình diện lớn phải là vào thời
Từ Hy Thái Hậu. Từ Hy Thái Hậu mê tín, nhiều chuyện
chẳng theo gương các vị đế vương khi
trước hướng về cao tăng đại đức
thỉnh giáo. Trong cung đình của Từ Hy Thái Hậu
không hề giảng kinh. Trong cung đình nhà Thanh [trước
thời Từ Hy], thường không ngừng mời cao nhân
Nho, Thích, Đạo dạy học. Từ Hy Thái Hậu phế
trừ chế độ này, trong cung đình chẳng còn giảng
học nữa. Bà ta thích lên đồng, cầu cơ,
Chương Gia đại sư kể cho tôi nghe chuyện
này. Quốc gia đại sự đều thỉnh ý thần,
cầu cơ để hỏi thần, cho nên vong quốc!
Tôi nghĩ chuyện này có ảnh hưởng hết sức
lớn, người trên làm, kẻ dưới bắt
chước theo, cho nên Phật giáo biến thành tôn giáo. Hiện
thời, nói Phật giáo là tôn giáo, chúng ta chẳng thể phủ
định, nhưng thầy tôi là Chương Gia đại
sư và tiên sinh Phương Đông Mỹ đều dạy
tôi học theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Chúng ta học tập
kinh điển, trong kinh điển có những món báu, có những
thứ tốt đẹp, có thể giúp chúng ta quay đầu,
giúp chúng ta minh tâm kiến tánh. Vì thế, bậc thượng
thượng căn mới có thể đảm nhiệm
toàn thể, hoàn toàn tiếp nhận. [Câu này] có nghĩa là
hoàn toàn tiếp nhận.
Tập
08
Chư vị pháp sư, chư vị
đồng học, xin ngồi xuống. Xin xem dòng thứ
tư trong trang bảy của bản kinh.
Chúng ta xem từ chỗ “chí ư khế cơ, tắc
cánh thị bổn kinh chi độc thắng” (còn về
khế cơ thì càng là chỗ thù thắng độc đáo
của kinh này), xem từ chỗ này. “Kinh trung chi trì danh pháp môn, phổ bị tam căn, tề
thâu phàm thánh. Thượng thượng căn giả, chánh
hảo toàn thể thừa đương; hạ hạ
căn giả, diệc khả y chi đắc độ”
(Pháp môn trì danh trong kinh này thích hợp khắp ba căn, thâu
trọn phàm thánh. Bậc thượng thượng căn rất
hợp để gánh vác toàn thể. Kẻ hạ hạ
căn cũng có thể nương theo kinh này mà đắc
độ). Lần trước, chúng ta học tập đến
chỗ này. Tiếp theo đó là: “Thượng
tắc Văn Thù, Phổ Hiền, Pháp Thân đại sĩ,
diệc quân phát nguyện cầu sanh” (trên thì như
Văn Thù, Phổ Hiền, Pháp Thân đại sĩ cũng
đều phát nguyện cầu sanh), đến phần
sau, chúng ta sẽ thấy cụ Niệm Tổ dẫn kinh
văn của kinh Hoa Nghiêm [để làm chứng cho nhận
định trên đây]. “Hạ
chí Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung niệm Phật, diệc
tất tùy nguyện đắc sanh” (dưới thì đến
Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm chung niệm Phật, ắt
cũng được tùy nguyện vãng sanh), dưới thì
nói đến căn tánh nào? Nói đến kẻ Ngũ Nghịch,
Thập Ác. Ngũ Nghịch là gì? Là kẻ tạo tác tội
nghiệp cực nặng. Trong kinh nói, tội Ngũ Nghịch,
Thập Ác nhất định đọa địa ngục
A Tỳ, vào rất dễ, thoát ra rất tốn sức, quá
khó khăn!
Ngũ Nghịch: Thứ nhất
là “giết cha”, thứ hai là “giết mẹ”. Ân đức
cha mẹ to lớn, trong kinh Phật có một bộ kinh
chuyên giảng về điều này là Phụ Mẫu Ân Trọng
Nan Báo Kinh. Trong Đại Tạng Kinh, kinh này có hai bản dịch,
thứ nhất là bản dịch của ngài An Thế Cao, bản
này chắc chắn không phải là ngụy kinh vì trong Dịch
Kinh Mục Lục có bản này. Bản thứ hai do ngài
Cưu Ma La Thập dịch, bản này không đáng tin, vì
trong mục lục các kinh do La Thập đại sư
phiên dịch không thấy bộ này, rất có thể là do
người đời sau ngụy tạo, mạo nhận
tên La Thập đại sư; nhưng những điều
được giảng trong ấy cũng khá lắm, chúng
ta có thể coi như một loại sách khuyến thiện,
nên Đại Tạng Kinh cũng thâu nhận. Được
thâu nhận là vì có những thứ quả thật là ngụy
tạo, nhưng do nội dung cũng rất tốt, cổ
đại đức cũng đưa vào Đại Tạng,
chúng ta học tập kinh giáo chớ nên không biết. Những
loại này có thể dùng làm tài liệu tham khảo. Nếu
muốn học, muốn giảng giải bên ngoài, tốt nhất
là dùng bản của ngài An Thế Cao, có căn cứ! Giết
cha, giết mẹ, xong luôn!
Thứ ba là “giết A La Hán”. A
La Hán giống như thầy; trong thế gian này, A La Hán giáo
hóa một phương, công đức cũng hết sức
thù thắng, quý vị giết hại Ngài. Hại Ngài là chuyện
nhỏ, Ngài chẳng trách quý vị, người ta đã chứng
quả thành thánh nhân, trọn chẳng ghi nhớ cừu hận.
Kết tội ở chỗ nào? Nhiều người không
có ai giáo hóa! A La Hán vốn giáo hóa cả vùng này, quý vị giết
Ngài đi, duyên nghe pháp của cả vùng này bị đoạn,
kết tội từ chỗ này! Nếu Ngài dạy học
rất rộng, thời gian rất lâu, tội của quý vị
cũng rất sâu, rất nặng, đó gọi là tội
Đẳng Lưu, vẫn là đọa trong địa ngục
A Tỳ.
Thứ tư là “làm thân Phật
chảy máu”. Phật phước báo to lớn, không ai có thể
hại chết Phật, nhưng có thể khiến Phật
chảy một chút máu. Chuyện này xuất phát từ Đề
Bà Đạt Đa, Đề Bà Đạt Đa muốn hại
Thích Ca Mâu Ni Phật, ông ta rất ganh ghét Thích Ca Mâu Ni Phật,
dù là đệ tử Phật, và trong quan hệ thế gian
là anh em họ [của Phật]. Cho nên có quan hệ rất
sâu, anh em họ mà! Ganh ghét vì Thích Ca Mâu Ni Phật sau khi thành
Phật có nhiều tín đồ, được thập
phương cung kính cúng dường. Ông ta thấy vậy,
không chịu được, luôn nghĩ đủ mọi
cách hại Phật. Có một ngày, ông ta tính toán: Mỗi ngày
Thích Ca Mâu Ni Phật đi khất thực phải đi
theo con đường dưới vách núi, Đề Bà
Đạt Đa chuẩn bị sẵn một tảng
đá lớn trên đỉnh vách núi, thấy Thích Ca Mâu Ni Phật
đi phía dưới, bèn đẩy xuống, nghĩ Phật
sẽ bị đá đè chết. Phật phước báo
to lớn, có thần hộ pháp, thần hộ pháp là Vi
Đà Bồ Tát, ở trên không trung dùng Kim Cang xử ngăn
tảng đá. Bị chặn lại, tảng đá vỡ
thành mảnh nhỏ, sau khi các miểng đá rơi xuống,
một miểng cắt trúng chân Phật, chảy một
chút máu. Chảy một chút máu gọi là “làm thân Phật chảy máu”. Nếu nay chúng ta muốn
làm thân Phật chảy máu, nhưng Phật lại không ở
trên đời, cho nên đây là chuyện không thể
được; nhưng có chuyện giống như thế,
tội nặng bằng, đó là gì? Chính là khởi ác niệm
muốn hủy diệt hình tượng Phật, điều
này cũng giống như làm thân Phật chảy máu!
Do vậy, công đức tạo
tượng chẳng thể nghĩ bàn! Một pho tượng
được đắp tại một nơi nào đó,
bao nhiêu người trông thấy bức tượng Phật
ấy, gieo một chủng tử Phật vào A Lại Da Thức,
họ bèn có duyên với Phật. Trong một đời này,
chủng tử ấy chưa thể nẩy mầm,
chưa thể trưởng thành, chẳng sao cả! Đời
kế tiếp hoặc đời sau nữa, gặp duyên,
chủng tử này bèn khởi hiện hành, sẽ khởi
tác dụng. Bởi lẽ, kẻ được Phật
hóa độ chính là những chúng sanh căn cơ đã chín
muồi, Phật nhất định giúp cho kẻ ấy
thành Phật trong đời này. Chúng sanh căn cơ đã
chín muồi là do đời đời kiếp kiếp trong
quá khứ đã tích lũy các công đức, đến
đời này công đức tu học bèn chín muồi. Trong
Thiền Tông, bậc đại triệt đại ngộ,
minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật chính là chúng sanh
căn cơ chín muồi; nếu luận về căn tánh sẽ
được gọi là bậc thượng thượng
căn, họ đều thuộc về hạng thượng
thượng căn. Trong Giáo Hạ, bậc được
gọi là “đại khai viên giải”, thật sự triệt
ngộ sẽ có cảnh giới giống như bậc minh
tâm kiến tánh trong Thiền Tông. Trong pháp môn Niệm Phật,
họ được gọi là “Lý nhất tâm bất loạn”.
Quý vị thấy danh xưng khác nhau, Tịnh Tông là Lý nhất
tâm bất loạn, Giáo Hạ là đại khai viên giải,
Tông Môn là đại triệt đại ngộ, nhưng
đều là minh tâm kiến tánh. Quý vị phải biết:
Mục tiêu chung cực (cuối cùng, rốt ráo) của niệm
Phật vẫn là minh tâm kiến tánh. Cho nên đức Phật
mới nói, như kinh Kim Cang đã chép: “Pháp môn bình đẳng, chẳng có cao thấp”. Vì
sao bình đẳng? Đạt tới mục tiêu giống
nhau là minh tâm kiến tánh. Minh tâm kiến tánh trong Niệm Phật
là Lý nhất tâm bất loạn; chứ Sự nhất tâm bất
loạn vẫn chưa đạt đến [minh tâm kiến
tánh]. Trong mười pháp giới, tứ thánh pháp giới là
Sự nhất tâm bất loạn, công phu ấy coi như
khá lắm, vượt thoát lục đạo luân hồi. Nếu
chưa thoát khỏi lục đạo luân hồi, công phu niệm
Phật ấy là công phu thành phiến. Công phu thành phiến cũng
có chín phẩm, vì trong cõi trời từ Tứ Vương
Thiên cho đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ
Thiên là hai mươi tám tầng, mỗi tầng khác nhau!
Đây là kiến thức Phật học thông thường,
chúng ta phải biết. Trong Sự nhất tâm bất loạn
có tứ thánh pháp giới, trong Tiểu Thừa là Tứ Quả,
Tứ Hướng, nhưng trong tứ thánh pháp giới,
trên A La Hán còn có Bích Chi Phật, còn có Bồ Tát, còn có Phật,
thảy đều thuộc về Sự nhất tâm bất
loạn. Nếu chứng đắc Lý nhất tâm bất loạn,
sẽ vượt thoát, không còn thuộc trong mười
pháp giới, đã thành Phật, đạt đến Nhất
Chân pháp giới, sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Đây là
chúng sanh hữu duyên với Phật.
Sự thù thắng trong Tịnh
Độ Tông, nói thật ra, vô cùng thù thắng, vì sao? Tịnh
Độ Tông chẳng đoạn một phẩm phiền
não. Đoạn phiền não đúng là chẳng dễ dàng!
Đoạn được một phẩm phiền não sẽ
là thánh nhân, chẳng phải là phàm nhân. Quý vị đoạn
được một phẩm Kiến Tư phiền não, sẽ
chứng đắc quả Tu Đà Hoàn trong Tiểu Thừa,
còn trong Đại Thừa, nói theo kinh Hoa Nghiêm, sẽ là
địa vị Sơ Tín trong Thập Tín. Tuy địa vị
chẳng cao, mới là bậc thánh nhân nhỏ tí, [điều
này] giống như một trường học trong Phật
giáo: Học lớp Một Tiểu Học, quý vị đã
bước vào trường. Sơ Tín Vị Bồ Tát là học
sinh lớp Một Tiểu Học, thật sự là đệ
tử Phật. Công phu đoạn phiền não bình đẳng
và giống như Tu Đà Hoàn; cho nên vị ấy thật sự
là tiểu thánh, chưa rời khỏi lục đạo.
Tuy chưa rời khỏi lục đạo, vị ấy
chắc chắn chẳng đọa trong tam ác đạo.
Do vậy, chứng đắc gì? Vị Bất Thoái trong ba
món Bất Thoái. Vĩnh viễn chẳng đọa làm phàm
phu, chẳng ở trong ác đạo. Dù không có Phật xuất
thế, [nhằm lúc] thế gian không có Phật pháp, vị ấy
vẫn có thể [thành tựu], trong lục đạo có thọ
mạng nhất định, sanh trong nhân gian hoặc cõi trời,
từ nhân gian chết bèn sanh lên trời, thọ mạng
trong cõi trời đã hết bèn sanh xuống nhân gian, bảy
lần qua lại trong nhân gian và cõi trời, sẽ thành
Độc Giác. Đó là khi không có thầy, vị ấy là
Độc Giác. Vì sao có thể thành Độc Giác? Độc
Giác không ai dạy. Chúng ta có thể suy ra Ngài là bậc thiện
căn sâu dầy. Phật, Bồ Tát vẫn chiếu cố
vị ấy, tuy chiếu cố, nhưng không lộ rõ.
Chúng ta là người bình thường không cảm nhận
được, nhưng vị ấy có cảm nhận, thấy
sắc, nghe tiếng đều có lãnh ngộ. Điều
kiện cơ bản để lãnh ngộ là tâm địa
thanh tịnh, điều này rất trọng yếu. Trong Phật
pháp nói “đắc tam-muội”, tâm địa thanh tịnh,
tâm thanh tịnh sanh trí huệ. Nếu gặp Phật, Bồ
Tát giáo hóa chúng sanh trong thế gian này, vị ấy sẽ trở
thành Thanh Văn, nghe Phật, Bồ Tát giảng kinh, thuyết
pháp bèn khai ngộ. Không gặp Phật, Bồ Tát giảng
kinh, thuyết pháp, vẫn có thể khai ngộ, tuy thời
gian lâu hơn một chút, khổ cực hơn một chút,
nhưng năng lực lãnh ngộ của vị ấy rất
mạnh. Nếu chúng ta hỏi: Vị tiểu thánh như vậy,
nếu xét theo điều kiện trong hiện tại là Thập
Tín vị Đại Thừa của Phật, để
được vào học lớp Một Tiểu Học, phải
có đủ những điều kiện nào? Kinh điển
thuộc giáo pháp Đại Thừa thường nói: Quý vị
phải đoạn hết năm thứ Kiến Hoặc.
Đối với Kiến Tư phiền não, Kiến là gì?
Chúng ta gọi nó là “cách nhìn”. Có năm cách nhìn sai lầm to lớn,
quý vị hãy bỏ sạch mới là đúng. Trên nữa là
Tư Hoặc, tức là tư tưởng sai lầm, hay
cách nghĩ sai lầm. Cách nghĩ sai lầm là gì? Tham, sân,
si, mạn, nghi. Quý vị phải biết: Trong tự tánh
không có những thứ ấy, những thứ ấy chẳng
thật! Trong tự tánh không có, nhưng nay quý vị đang
có. Hiện tại, do quý vị có những thứ này bèn có lục
đạo luân hồi, sai lầm nơi tư tưởng!
Sai lầm nơi kiến giải:
Thứ nhất là Thân Kiến, chấp trước thân là
ta, ta ở đâu? Nhất định là ở đây,
đây là ta. Phiền phức to! Quý vị vĩnh viễn chẳng
thể thoát khỏi lục đạo. Chúng ta học Phật,
học đã lâu năm như thế, tuy chưa khế nhập
cảnh giới, nhưng đức Phật đã giảng
quá nhiều, chúng ta cũng nghe và hiểu rõ, biết thân chẳng
phải là ta, thân là gì? Thân là ngã sở, tức là cái mà ta có.
Quần áo ta mặc trên người do ta sở hữu,
nhưng y phục của ta chẳng phải là ta. Chư vị
phải biết, cái mà ta sở hữu sẽ có sanh diệt,
nhưng Ngã bất sanh bất diệt. Thân thể có thể
bất sanh bất diệt hay không? Chẳng thể! Thân có
sanh diệt, nhưng Ngã không có sanh diệt. Các triết gia
ngoại quốc cũng rất thông minh, họ nói Ngã là gì?
Họ không nói tới thân, họ nói: “Tôi tư duy, nên tôi tồn tại” (Cogito ergo sum)[9], cao minh hơn người bình thường
một chút. Ta có thể suy nghĩ, cái “có thể suy nghĩ”
là ta, cái thân xác thịt này chẳng thể suy nghĩ, nó là vật
chất; cũng có nghĩa là họ nói: Trong thân thể này,
phần tinh thần là ta. Vật chất có sanh diệt, tinh
thần chẳng sanh diệt, [quan điểm này] cao hơn
[cách nhìn của] người bình thường một chút.
Phương Đông chúng ta thường gọi [“tinh thần”]
là “linh hồn”, linh hồn là ta, chấp trước điều
này. [Tuy chúng ta] chấp trước điều này, nhưng
linh hồn tuy bất diệt, nó vẫn bỏ thân trong lục
đạo để đầu thai. Chuyện này là thật,
tuyệt đối chẳng phải giả. Hiện thời,
được coi như có chứng cứ khoa học rõ
ràng là trong thuật thôi miên của phương Tây. Rất
nhiều người đã xem báo cáo bác sĩ Ngụy Tư
(Brian L. Weiss)[10] của Hoa Kỳ; thật ra, theo các
đồng học bên Mỹ đã bảo tôi, còn có rất
nhiều người cao minh hơn ông ta, nhưng họ
chưa in sách. Sau khi sách của ông Weiss ra đời, đã
được dịch thành hơn ba mươi thứ tiếng
khác nhau lưu thông trên cả thế giới, ông ta bèn nổi
danh. Đương nhiên cũng kể như là rất khá,
ông ta là một người rất thành công trong lãnh vực
thôi miên. Mấy bữa gần đây, hình như ông ta
đang ở Úc, các đồng học bên Úc cho biết ông
ta đang ở Úc, tôi vốn muốn mời ông ta đến
báo cáo, nhưng ông ta cũng hết sức bận rộn,
các nơi đều mời ông ta. Qua thôi miên, biết con
người có đời quá khứ, quá khứ không chỉ
là một đời. Có người được thôi miên
đã nói ra mười mấy đời, hai mươi mấy
đời. Tôi đọc báo cáo của ông Weiss, đã có một
người gần như là nhớ mấy chục đời,
tính ngược lại gần như là hơn bốn ngàn
năm trước, nhằm thời thượng cổ, bọn
họ không có nhà ở, sống trong hang hốc, sống
trong thời đại như thế đó! Đấy là
linh hồn chuyển thế.
Lục đạo là thật, chẳng
giả. Tại cổ Ấn Độ, trong thời Thích Ca
Mâu Ni Phật, Ấn Độ là đất nước tôn
giáo, các tín đồ tôn giáo đều có công phu Thiền
Định, trong giới học thuật đều biết
tu Thiền Định. Trong Thiền Định có thể
đột phá chiều không gian, cũng có nghĩa là trong lục
đạo mà họ có thể đột phá chiều không
gian, nhờ Tứ Thiền Bát Định, có thể thấy
được Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Thiên, phía
dưới có thể thấy địa ngục A Tỳ.
Chuyện này chẳng giả, ai đắc Định
đều có thể thấy. Quý vị hỏi những
người đắc Định, thưa hỏi về
trạng huống địa ngục và thiên đường
mà họ đã thấy, họ sẽ nói cho quý vị nghe, mọi
người đều nói như nhau, chẳng giả! Họ
chẳng dùng dụng cụ khoa học, mà dùng công phu Thiền
Định để đột phá chiều không gian. Hiện
thời, khoa học biết quả thật có các chiều
không gian tồn tại, nhưng vẫn không biết dùng
phương pháp nào để đột phá, chưa tìm ra
phương pháp. Tại cổ Ấn Độ, những vị
đại đức trong giới tôn giáo, học thuật
từ mấy ngàn năm trước, nếu nói theo Ấn
Độ Giáo, các trưởng lão Ấn Độ Giáo bảo
tôi, họ đã có lịch sử lâu tới một vạn
năm, nhưng hiện thời, giới học thuật
trên thế giới thừa nhận [lịch sử nhân loại]
là tám ngàn năm trăm năm, sớm hơn Phật giáo
năm ngàn năm. Họ (các trưởng lão Ấn Độ
Giáo) tự nói [lịch sử] lâu đến một vạn
năm, tôi tin tưởng, họ không chú trọng ghi chép lịch
sử mà là đời đời truyền cho nhau.
Đột phá chiều không gian là chuyện
khác hẳn, cảnh giới hoàn toàn khác nhau, nhưng đều
không thoát khỏi lục đạo luân hồi. Nói thật
ra, đối với linh hồn, tôi nghĩ thánh nhân Trung Quốc
cũng biết chuyện này, biết nhưng không nói. Vì sao
không nói? Chẳng phải là cảnh giới của quần
chúng thế tục. Không nói tốt hơn! Nói ra sẽ nhiễu
loạn tâm tư của họ, khiến họ suy nghĩ
lung tung, chẳng thà không nói, [đại chúng] chưa đạt
đến trình độ mà! Vì thế, phu tử giảng về
nhân đạo và thiên đạo, rất ít nói tới quỷ
thần. Đây là nói “cơ cảm
bất đồng”, cho nên phương pháp giáo học
khác hẳn. Khi Lục Tổ Huệ Năng đại
sư khai ngộ đã nói Ngã là gì? Tự tánh là Ngã. Đây là
nói theo Phật pháp, tự tánh là Ngã. Nếu nói theo thế tục,
sẽ không thể gọi là linh hồn, mà gọi là linh
tánh. Hồn chẳng linh. Nếu hồn là linh, quý vị
đến đầu thai trong thế gian, nhất định
có thể chọn gia đình đại phú đại quý, cuộc
sống thoải mái hơn! Nếu quý vị đến
đầu thai trong nhà bần cùng, chẳng phải là lầm
lạc hay sao? Mê, chẳng ngộ, bất giác. Vì thế, phu
tử nói rất hay. Trong kinh Dịch, Ngài đã giảng
trong phần Hệ Từ Truyện: “Du hồn vi biến, tinh khí vi vật”[11], hai câu này nói rất hay! Quỷ hồn
có tốc độ rất nhanh, dao động không ngừng,
chẳng thể ở yên, [dao động với] tốc
độ rất nhanh, đúng là “du hồn”, thuyết này rất có lý. Trong Phật
pháp nói đến “mê hồn”, nó đã mê rồi, mê mà chẳng
giác, không biết đó là chính mình; nói thật ra, [thần hồn,
mê hồn, hay du hồn] chính là A Lại Da Thức như
trong nhà Phật đã nói. A Lại Da Thức là mê. Hễ
giác sẽ không gọi là A Lại Da Thức, mà gọi là tự
tánh, gọi là pháp tánh. Cùng một chuyện, nhưng do mê hay
ngộ mà có danh hiệu khác nhau!
Phàm phu chúng ta và Phật có cùng một
tánh, một tự tánh, một linh tánh, chẳng có mảy
may sai biệt nào! Qua bộ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán của
Hiền Thủ quốc sư, chúng ta đã biết thông tin
này. Lão nhân gia đã giảng rất tỉ mỉ, giảng
vô cùng tinh vi tuyệt diệu. Sau khi chúng ta học xong, tuy chẳng
chứng ngộ, nhưng có giải ngộ, chúng ta hiểu
rõ chân tướng sự thật này. Chắc chắn Phật,
Bồ Tát, tổ sư chẳng lừa gạt chúng ta, chúng
ta phải có lòng tin kiên định. Chúng ta học Phật
chẳng có gì khác, chính là nhằm tìm lại diện mục
của chính mình. Vì thế, đề mục bài luận
văn của Ngài (Hiền Thủ quốc sư) là Vọng
Tận Hoàn Nguyên, “hoàn nguyên”
là tìm lại, kiếm lại cái Ngã thật sự. Thân là giả
ngã, ngỡ thân là Ngã, quý vị đã sai mất rồi! Về
trật nhà rồi! Vì thế, trước hết, phải
giác ngộ thân chẳng phải là Ngã, thân là ngã sở hữu
(cái mà ta có). Thật sự hiểu rõ chân tướng sự
thật này, đã thật sự thấu hiểu, quý vị
có sợ chết nữa không? Không sợ! Vì sao? Không có sanh tử,
quý vị sợ cái gì! Bỏ thân mạng giống như
thay quần áo. Cởi bỏ quần áo dơ, vứt bỏ
nó để thay một bộ mới. A Lại Da Thức
là như vậy, Phật pháp gọi A Lại Da Thức là
“thần thức”. Thân thể này già rồi, chẳng tiện
sử dụng nữa, bèn đổi sang cái mới,
nhưng có người càng đổi càng tốt, có kẻ
càng đổi càng tệ. Mối quan hệ này lớn lắm.
Trong lục đạo, nhân thiên là tốt đẹp, súc
sanh, ngạ quỷ, địa ngục rất tệ, quý vị
đổi lấy cái thân nào? Ở đây nói tới nghiệp
nhân quả báo, quý vị tâm thiện, hạnh thiện, tiêu
chuẩn thiện ác là gì? Là tự tánh, Tánh Đức trong tự
tánh. Cốt lõi của Tánh Đức trong tự tánh, nói theo
kiểu thông thường hiện thời là Ái, trong Phật
pháp gọi là “từ bi”, cổ nhân Trung Quốc gọi là
“nhân nghĩa”, trong bản tánh là Ái. Quả thật, sau khi kiến
tánh, lòng Ái trong tự tánh sẽ tự nhiên lưu lộ, chắc
chắn chẳng phân biệt, quyết định chẳng
chấp trước, lòng Ái trọn khắp vũ trụ,
khắp pháp giới, giống như ánh sáng, như sóng
điện từ, trọn pháp giới hư không giới
thảy đều cảm nhận được.
Hiện thời, trong ý niệm
của chúng ta, khởi tâm động niệm rất phi
phàm, bất luận là thiện niệm, hay ác niệm, vừa
dấy động sẽ trọn khắp pháp giới,
nhưng chính chúng ta không biết. Vì sao? Sách Hoàn Nguyên Quán bảo
chúng ta: Bất luận là hiện tượng vật chất
hay hiện tượng tinh thần, các vật chất cũng
có hiện tượng dao động, bất luận vật
chất nào cũng đều có hiện tượng dao
động. Do vậy, các khoa học gia hiện thời bảo
vũ trụ trong tình trạng dao động, trên thực tế
điều gì cũng không có, vật chất do dao động
mà hình thành, tinh thần cũng do dao động mà hình thành.
Nếu không có dao động, tinh thần và vật chất
cũng chẳng tồn tại. Cách nói này cũng rất gần
với cách Phật pháp giảng về căn nguyên của vạn
vật trong vũ trụ. Trong kinh Phật có nói: “Nhất niệm bất giác, nhi hữu
vô minh”, [nghĩa là] từ nhất niệm bất giác mà
sanh khởi vạn vật, nhất niệm là dao động.
Thế nhưng khoa học gia không giảng nhất niệm
rõ ràng, còn kinh Phật giảng rõ ràng. Chúng ta xem cuộc
đối thoại giữa Phật và Di Lặc Bồ Tát
trong Bồ Tát Xử Thai Kinh[12];
trong bộ kinh này có một đoạn đối thoại
như vậy. Đức Phật hỏi Di Lặc Bồ
Tát: “Tâm hữu sở niệm”,
[nghĩa là] bọn phàm phu chúng ta, tức phàm phu trong lục
đạo, trong tâm khởi lên một niệm, đức
Phật bèn hỏi: “Trong một niệm ấy có bao nhiêu niệm?”
Chúng ta nghĩ không ra, trong một niệm lại còn có mấy
niệm nữa ư? Ai có thể nghĩ đến vấn
đề này? Tôi nghĩ khoa học gia thông minh nhất trong
hiện tại cũng không nghĩ đến. Trong một
niệm có mấy niệm? Nói cách khác, nhất niệm này do
bao nhiêu tế niệm hợp thành? Câu hỏi này mới có ý
nghĩa, có bao nhiêu niệm? Tiếp đó, lại hỏi:
Có mấy tướng? Có mấy thức? Tướng là hiện
tượng vật chất, thức là hiện tượng
tinh thần. Đức Phật nêu câu hỏi như thế!
Di Lặc Bồ Tát là một nhà tâm lý học
trong Phật giáo; nếu coi Phật giáo như giáo dục
thì Ngài chuyên môn dạy tâm lý học. Ngài đáp lời đức
Thế Tôn, trên thực tế, hai vị đàm thoại
để bọn chúng ta nghe, chẳng phải là không biết.
Di Lặc Bồ Tát nói một khảy ngón tay, thời gian khảy
ngón tay rất ngắn, người trong thế gian này khởi
lên một niệm ước chừng bằng thời gian
khảy ngón tay. Trong khoảng khảy ngón tay, có bao nhiêu tế
niệm? Ba mươi hai ức trăm ngàn niệm.
Đơn vị là trăm ngàn, một trăm ngàn là mười
vạn, ba mươi hai ức nhân với mười vạn
thành ba mươi hai ức trăm ngàn niệm, người
Trung Quốc nói là ba trăm hai mươi triệu, một
cái khảy ngón tay đó nghe! Một cái khảy ngón tay là ba
trăm hai mươi triệu. Trong kinh Phật đã nói
[như thế], còn các khoa học gia chưa nói! Di Lặc Bồ
Tát nói: “Niệm niệm thành
hình”, “hình” (形) là vật chất,
Phật gọi nó là tướng, tức Tướng Phần,
Tướng Phần của A Lại Da Thức. “Hình giai hữu thức”, mỗi
hình đều có thức. Đây là nói vật chất và tinh
thần đồng thời sanh ra, không có trước sau.
Trong vật chất nhất định có tinh thần, trong
tinh thần nhất định có vật chất. Đối
với vật chất, trong kinh Phật có một danh từ
là Vô Biểu Sắc. [Những vật chất mà] chúng ta có
thể thấy bằng mắt thường là Hữu Biểu,
đây là hiện tượng vật chất. Chúng ta không thể
thấy Vô Biểu Sắc, nhưng nó thật sự tồn
tại, có thể cảm nhận nó hay không? Có thể!
Vô Biểu Sắc
là gì? Chúng ta đã từng thấy. Giữa Hương Cảng
và Cửu Long là biển[13],
là nước biển, chẳng phải là nước ngọt,
mà là nước biển, chúng ta đều thấy. Nay chúng
ta ngồi trong nhà, chúng ta nghĩ tới nước trong biển,
có thể có khái niệm rõ ràng hay không? Hỏi quý vị có sắc
hay không? Có! Chính quý vị cảm nhận rất rõ ràng,
nhưng người khác không thấy. Đó là vật chất,
điều này cho thấy trong tinh thần có vật chất.
Tinh thần là gì? Tinh thần là Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Thọ, Tưởng, Hành, Thức do đâu mà có? Từ “thấy,
nghe, hay, biết” vốn sẵn có trong tự tánh. Thấy,
nghe, hay, biết là Tánh Đức. Hễ giác ngộ thì Thọ,
Tưởng, Hành, Thức không còn nữa, chúng chuyển biến
thành thấy, nghe, hay, biết. Nếu mê thì thấy,
nghe, hay, biết biến thành Thọ, Tưởng, Hành, Thức.
Chuyện là vậy đó, biến chất rồi! Thọ,
Tưởng, Hành, Thức là năm thứ cảm nhận[14]
của phàm phu trong lục đạo, chẳng thật! Do vậy,
trong kinh đức Phật đã nói: Thân chúng ta do Ngũ Uẩn
hòa hợp, tạo thành thân thể này. Các duyên hòa hợp [gọi
là] chúng sanh. Mỗi cá nhân được gọi là chúng sanh,
vì do các duyên hòa hợp mà sanh. Trong ấy có sắc pháp, sắc
pháp là vật chất, là hình; có Thọ, Tưởng, Hành, Thức
là tâm pháp. Thọ là năm thức đầu (nhãn thức,
nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức),
Tưởng là thức thứ sáu (ý thức), Hành là thức
thứ bảy (Mạt Na, còn gọi là Ý Căn), thức cuối
cùng là A Lại Da, đó là hiện tượng tinh thần.
Vì thế, chúng ta nói duy vật
hay duy tâm đều trật! Tâm và vật có cùng một nguồn,
là một chuyện, quyết định chẳng tách rời.
Chúng ta là động vật có Thọ, Tưởng, Hành, Thức
rất rõ ràng, thực vật có hay không? Có! Khoáng vật có
hay không? Có! Tiến sĩ Giang Bổn Thắng của Nhật
Bản rất hiếm có! Nước là khoáng vật, ông ta
quan sát nước cẩn thận, [nhận thấy] nước
có thể thấy, nghe, hiểu ý nghĩ của con người,
nó có thấy, nghe, hay, biết. Đó là khoáng vật có thấy,
nghe, hay, biết! Tôi bảo ông ta: “Không riêng mình nước
có thấy, nghe, hay, biết; tất cả khoáng vật
đều có thấy, nghe, hay, biết. Hiện thời, ông
chỉ thấy được Sắc của nó, thấy
được sắc tướng, nhưng nó còn có thanh,
hương, vị, ba thứ này, ông vẫn chưa phát hiện
được. Ông hãy gắng tiếp tục nỗ lực,
trong bất luận vật chất nào cũng có
hương, ông có thể ngửi được, nó có vị,
có âm thanh, nay ông chỉ thấy được sắc
tướng của nó”. Từ ba ngàn năm trước,
đức Phật đã nói rõ như thế, nay ông ta làm thí
nghiệm mới thấy được một điều,
ông ta bội phục. Vốn nghĩ Phật giáo là mê tín,
không dám tiếp xúc, nay ông ta đã hiểu rõ, tin tưởng.
Chúng tôi giảng kèm thêm một đoạn dông dài vào phần
“làm thân Phật ra máu” như
thế, những điều này đều thuộc loại
kiến thức Phật học thông thường.
Điều cuối cùng trong Ngũ
Nghịch là “phá hòa hợp
Tăng”, cũng đọa địa ngục A Tỳ.
Thuở tôi còn trẻ, giảng kinh tại Đài Bắc,
tôi nhớ lúc đó đã bốn mươi mấy tuổi,
có một vị lão cư sĩ là bạn cũ của lão
cư sĩ Lý Bỉnh Nam, thầy chúng tôi. Vị này tuổi
nhỏ hơn thầy Lý một chút, khi ấy, cụ cũng
ngoài sáu mươi tuổi, tôi mới vừa bốn
mươi mấy tuổi, cụ hơn tôi nhiều lắm
là hai mươi tuổi. Có một hôm cụ mời tôi dùng
cơm, cạnh trạm xe lửa có một tiệm cơm
chay tên là Công Đức Lâm, thuộc thành phố Đài Bắc.
Tôi tới Công Đức Lâm thì cụ đã đến rồi,
đến nơi thấy chỉ có hai người chúng tôi,
cụ chẳng mời ai khác, chỉ mời
một mình tôi! Chọn món ăn xong, khi đang ăn, cụ
hỏi tôi: “Pháp sư Tịnh Không, thầy có biết vì sao
hôm nay tôi mời thầy dùng cơm hay không?” Tôi nói: “Tôi không
biết”. Cụ bảo: “Có một chuyện tôi muốn hỏi
ý thầy”. Tôi hỏi: “Chuyện gì vậy?” Cụ nói:
“Chuyện này nghiêm trọng lắm! Trong Ngũ Nghịch, tội
giết cha, giết mẹ, giết A La Hán, làm thân Phật
chảy máu, rất ư là ít!” Khi ấy, đúng là ít, chứ
nay thì chẳng ít! Quý vị đọc báo, đọc tạp
chí, sẽ thấy giết cha, giết mẹ, anh em giết
nhau, giết thầy, giết bạn học là chuyện
thường nghe nói tới. Thưa quý vị, năm
mươi năm trước không có hiện tượng
này, rất ít thấy chuyện này xảy ra, “chỉ có một
điều là phá hòa hợp Tăng, điều này nghiêm trọng
lắm”. Tôi hiểu ý cụ, các đồng học học
Phật, bất luận tại gia hay xuất gia, ganh ghét,
chướng ngại, hủy báng lẫn nhau là phá hòa hợp
Tăng. Cụ nói chuyện này nghiêm trọng, tạo tội
này sẽ đọa địa ngục A Tỳ. Tôi cười
nói: “Chúng ta hãy ăn cơm, không có chuyện gì đâu!” Cụ
thấy tôi rất thong dong, cảm thấy rất lạ,
sao lại không có chuyện gì? Ta hỏi ngược lại:
“Thưa lão cư sĩ! Cụ học Phật sớm
hơn tôi”. Cụ học Phật với Ấn Quang đại
sư, là bạn học của thầy Lý, lúc đó, tôi học
Phật đại khái cũng được mười mấy
năm. Tôi nói: “Tôi không chỉ chưa được thấy
hòa hợp Tăng, mà còn chưa hề nghe nói tới, cụ
thấy ở đâu có Tăng đoàn hòa hợp?” Tôi vừa
hỏi, cụ cũng cười theo. Hai người xuất
gia ở cùng một chỗ luôn cãi nhau, Tăng đoàn hòa hợp
từ đâu mà có? Chưa hề thấy! Cụ bận lòng
chuyện này làm gì? Hiện thời không có Tăng đoàn hòa
hợp, chúng ta dùng cơm là được rồi. Thật
đấy!
Kinh nói rất hay, nếu ở
nơi đây xuất hiện một Tăng đoàn hòa hợp,
bốn người trở lên ở cùng một chỗ cộng
tu, thật sự thực hiện Lục Hòa Kính, kiến
hòa đồng giải, giới hòa đồng tu, thân hòa
đồng trụ, khẩu hòa vô tránh, ý hòa đồng duyệt,
lợi hòa đồng quân, làm được sáu điều
này, sẽ thật sự là đạo tràng của Thích Ca
Mâu Ni Phật, nhất định cảm hết thảy
chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng
hộ, nơi này sẽ không có tai nạn. Thật đấy,
chẳng giả đâu! Trong đời này, từ lúc tôi bắt
đầu học Phật, biết chuyện này, bèn lưu
ý, mong có được một Tăng đoàn hòa hợp
như thế xuất hiện, nhưng tìm không ra. Ba
mươi năm trước, tức năm 1977, tôi đến
Hương Cảng lần đầu tiên để giảng
kinh, bên Hương Cảng các đại đức pháp
sư không ít, từ các nơi trong đại lục vân tập
về cuộc đất ấy. Trong số đó, cũng
có một pháp sư trẻ tuổi, đại khái chừng
bốn mươi mấy tuổi, tuổi tác chẳng chênh
lệch với tôi cho mấy, lớn hơn tôi mấy tuổi
là pháp sư Tẩy Trần. Ở Hương Cảng, mọi
người đều biết pháp sư Giác Quang và pháp
sư Tẩy Trần, hai vị này là lãnh tụ của giới
Phật giáo Hương Cảng. Sư Tẩy
Trần là người Đông Bắc, sư Giác Quang cũng
là người Đông Bắc, chúng tôi nói chuyện rất hợp
ý. Đặc biệt là pháp sư Tẩy Trần, tôi
đã từng thỉnh cầu Sư vài lần, tôi nói: “Thầy
có thể tìm năm người xuất gia hay không? Tôi sẽ
tham gia. Tôi ghi danh, thầy là người cầm đầu.
Năm người chúng ta thi hành Lục Hòa Kính. Chúng ta thành
lập Tăng đoàn này”. Lần đầu tiên tôi đến
Hương Cảng giảng kinh suốt bốn tháng, giảng
kinh Lăng Nghiêm. Giảng xong đã hết thời gian
lưu trú, tôi trở về Đài Loan, tôi nói thầy hãy tiếp
tục nỗ lực để chúng ta cùng làm, Sư cũng
rất hoan hỷ. Không làm thành công! Chẳng dễ dàng, tìm
không ra!
Phải thực hiện Lục
Hòa Kính ra sao? Thưa quý vị, thực hiện ba căn bản
của Nho, Thích, Đạo thì Lục Hòa Kính sẽ thực
hiện được! Quý vị nghĩ coi có đúng hay
không? Đệ Tử Quy, Cảm Ứng Thiên, Thập Thiện
Nghiệp, Sa Di Luật Nghi của người xuất gia,
chỉ cần làm được một trăm phần
trăm bốn món căn bản này, đoàn thể ấy sẽ
là Lục Hòa Kính, là một Tăng đoàn danh phù hợp thực
chất. Chẳng tu Lục Hòa Kính, chẳng đạt
được tiêu chuẩn Lục Hòa Kính, chẳng thể
xưng là Tăng đoàn! Khi chúng ta niệm Tam Quy Y, “quy y Tăng, chúng trung tôn”, “Chúng” là đoàn thể, là tổ
chức xã hội. Trong tất cả các đoàn thể xã hội, đoàn thể của
đệ tử Phật tôn quý nhất, vì sao? Hòa thuận.
Tổ tiên Trung Quốc bảo: “Hòa
vi quý” (hòa là quý), họ thực hiện chữ Hòa.
Trong đoàn thể ấy, chắc chắn chẳng thấy
có tranh chấp, chắc chắn chẳng thấy nổi
nóng. Hiện thời, chúng ta có thể thấy hay không?
Đi tìm khắp nơi [vẫn chẳng thấy]! Vì sao Phật
pháp suy? Không có Tăng đoàn! Tăng đoàn hình thức thì
có, Tăng đoàn thực chất không có! Hiện thời
phiền phức lắm! Tai nạn nhiều quá, làm thế
nào để hóa giải tai nạn? Có một Tăng
đoàn xuất hiện trong thế gian này, địa cầu
sẽ được cứu, chư Phật hộ niệm,
long thiên thiện thần ủng hộ, tai nạn gì cũng
đều không có. Có ai chịu phát tâm hay không? Không ai hết.
Vì sao? Tự tư, tự lợi không buông xuống
được, tiếng tăm, lợi dưỡng không
buông xuống được, hưởng thụ ngũ dục
lục trần không buông xuống được. Vậy là
không có cách nào cả! Cùng nhau chịu nạn, không có
đường nào để đi được nữa!
Vì thế, quý vị có chịu buông xuống, bỏ mình vì
người khác hay không? Nói thật ra, vì người khác thật
ra là vì chính mình; vì chính mình thì thật ra là tự mình hại
mình.
Phật, Bồ Tát, thánh hiền
biết chuyện này, nhưng phàm phu mê hoặc, điên
đảo không biết, trước mắt niệm niệm
đều mong chiếm được một chút tiện
nghi. Có tiện nghi chiếm được, nhưng cũng
có những điều chẳng chiếm được, vì
sao chiếm được? Do trong mạng có [nên quý vị
mới chiếm được], quý vị nói xem có phải
là oan uổng hay không? Trong mạng có, bèn đạt
được! Trong mạng không có, dùng cách nào cũng đều
chiếm không được. Cổ nhân Trung Quốc nói rất
hay: “Nhất sanh giai thị mạng,
bán điểm bất do nhân” (Cả đời đều
do số mạng, chẳng có được nửa điểm
do con người quyết định). Mạng do đâu mà
có? Mạng là do quý vị tạo nghiệp trong đời
trước. Trong đời quá khứ tạo thiện nghiệp,
quý vị đến [thế giới này để] hưởng
phước, trong mạng quý vị có [phước báo ấy].
Trong đời quá khứ tạo tác nghiệp bất thiện,
quý vị hứng chịu khổ báo, chẳng do người
khác ban cho, tự làm, tự chịu! Nhất định phải
hiểu đạo lý này, quyết định chớ nên oán
trời, hờn người! Oán trời hờn người
là tội lại chồng thêm tội. Đây là chân tướng
sự thật. Trước khi chúng ta chưa học Phật,
chưa tiếp xúc Phật pháp thì không biết. Sau khi tiếp
xúc Phật pháp, vui thích học tập, càng ngày càng hiểu
rõ, càng ngày càng minh bạch, tai họa vì sao mà có ? Hạnh
phúc vì sao mà có? Rõ ràng, rành rẽ. Đoạn ác, tu thiện,
sám trừ nghiệp chướng, tích công lũy đức,
hạnh phúc sẽ đưa đến. Hạnh phúc thật
sự là gì? Phước báo thế gian là giả, chẳng
thật, giống như hoa Đàm thoáng hiện! Phước
báo cõi trời cũng chẳng thật, tuy thời gian dài
hơn nhân gian một chút, nhưng vẫn là hữu hạn.
Nay chúng ta biết, với thân phận của chúng ta, với
trình độ của chúng ta, vãng sanh Tây Phương Cực
Lạc thế giới là đệ nhất phước,
đệ nhất đức, có thể hay không? Thật sự
có thể!
Nếu đã xác định một
phương hướng, một mục tiêu như vậy,
quý vị sẽ dám buông xuống, buông tự tư tự lợi
xuống, buông tiếng tăm, lợi dưỡng xuống,
buông ngũ dục lục trần xuống, buông tham, sân, si,
mạn xuống, Tăng đoàn hòa hợp sẽ xuất hiện
chẳng khó. Cổ nhân có thể làm được,
nhưng người thời nay không làm được. Vì
sao cổ nhân có thể làm được? Giác ngộ sẽ
làm được! Vì sao người thời nay không làm
được? Chẳng giác ngộ, bị tiếng
tăm, lợi dưỡng dụ dỗ, mê hoặc, đọa
lạc trong ấy, không thể tự dẹp trừ, cho nên
làm không được. Làm không được là do chưa
giác ngộ, hễ giác ngộ bèn làm được. Do vậy,
khi tôi mới học Phật, Chương Gia đại
sư thường bảo tôi: “Phật
pháp là chuyện biết khó, hành dễ”. Đúng vậy!
Hành rất dễ, mê hay ngộ đúng là trong một niệm,
chẳng khó, nhưng biết chuyển mê thành ngộ, khó lắm!
Quý vị thật sự nhận rõ cái gì là thật, cái gì là
giả, khó lắm, chẳng dễ dàng! Đúng là cần phải
giống như Phật, Bồ Tát nhận biết như thế
này: Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng!
Xa lìa hiện tượng vật chất và hiện tượng
tinh thần chẳng phải là chuyện khó, vấn đề
là quý vị có thật sự hiểu rõ hay không? Giảng rõ
ràng, đơn giản nhất là bài luận văn Vọng
Tận Hoàn Nguyên Quán của Hiền Thủ quốc sư,
bài này chẳng dài. Chẳng dài mà mọi người chúng ta
cùng nhau học tập cũng gần như mất cả một
hai trăm giờ, hết sức hữu ích!
Chúng ta đã hiểu rõ Ngũ
Nghịch, năm thứ này hoàn toàn trái nghịch Tánh Đức,
chẳng phải do ai khác trừng phạt quý vị, địa
ngục cũng do chính quý vị biến hiện, chẳng
do người khác tạo, đó là đọa
địa ngục A Tỳ. Thập Ác là trái nghịch với
Thập Thiện, tạo tác sát sanh, tà dâm, trộm cắp.
Giết, trộm, dâm là thân nghiệp. Giết, trộm, dâm
là gì? Kẻ bình thường chúng ta chỉ thấy thô
tướng, không biết đến [tướng] vi tế,
kinh Phật giảng rất tỉ mỉ, chẳng thể
không biết. Sát là giết hại, ta không giết, nhưng
ta tổn hại chúng sanh, đó là một phần của
Sát! Bất cứ khi nào, hễ có thể được, nhất
định đừng tổn hại một chúng sanh nào thì
quý vị mới thực hiện viên mãn điều này. Hễ
quý vị còn có ý niệm và hành vi tổn hại chúng sanh, tức
là quý vị chưa làm được điều này.
Đúng vậy, chẳng dùng dao giết chúng sanh, nhưng lời
lẽ gây tổn thương, khởi tâm động niệm
gây tổn thương, đều tính là sát! Đối với
trộm cắp thì trộm cắp vi tế là gì? Chiếm tiện
nghi. Chiếm một chút ít tiện nghi từ người
khác là nghiệp trộm, giới “chẳng trộm cắp”
sẽ chẳng tinh sạch! Chiếm tiện nghi nơi
người khác, chiếm tiện nghi của quốc gia,
làm thế nào để nạp thuế cho quốc gia ít
hơn một chút, tìm kẽ hở trong luật lệ. Hoàn
toàn hợp pháp, nhưng quý vị có ý niệm: Nay ta tìm
được điều này trong luật pháp, có thể
đóng thuế ít hơn một chút, đó là cái tâm trộm
cắp, tâm trộm cắp chưa dứt! Lại mở rộng
ra, đối hoa, cỏ, cây cối, có tâm trộm cắp,
đối với núi, sông, đại địa cũng có
tâm trộm cắp. Cứ nghĩ chiếm một chút tiện
nghi, luôn mong hưởng thụ khá hơn người khác một
chút, hễ có ý niệm này tức là tâm trộm cắp
chưa đoạn, rất vi tế!
Do mười điều này
tương phản với Thập Thiện nên gọi là Thập
Ác. Triển khai ra, trong Tiểu Thừa sẽ biến thành
ba ngàn điều, từ mười điều biến
thành ba ngàn điều. Nói như thế nào? Thí dụ
như sát sanh. Trong điều sát sanh này, có chứa đựng
chín điều kia, mười nhân với mười thành
một trăm; mỗi điều trong một trăm
điều ấy lại có mười điều, bèn biến
thành một ngàn; trong mỗi điều của một ngàn
điều lại có mười điều, càng nói càng vi
tế, ba ngàn oai nghi của Tiểu Thừa do đây mà ra.
Đại Thừa lại càng nhiều! Đại Thừa
Bồ Tát đem Thập Thiện Nghiệp triển khai
thành tám vạn bốn ngàn oai nghi, tám vạn bốn ngàn
điều! Vì thế, Thập Thiện Nghiệp đạo
viên mãn, tám vạn bốn ngàn cũng không phạm một
điều nào, người ấy bèn thành Phật. Chúng ta
chẳng phạm mười điều này, mười
điều rất thô, sẽ là người lương thiện,
là người tốt. “Thiện
nam tử, thiện nữ nhân” trong kinh Phật được
dùng theo tiêu chuẩn này. Thập Thiện chưa làm
được, sẽ chẳng phải là thiện nam tử,
thiện nữ nhân. Làm được Thập Thiện mới
gọi là thiện nam tử, thiện nữ nhân. Mở kinh
điển ra, quý vị thấy “thiện
nam tử, thiện nữ nhân”, ta có thuộc trong số
đó hay không? Ta có thể được coi là thiện nam
tử, thiện nữ nhân hay không? Tiêu chuẩn là có làm
được mười điều này hay không? Lấy
chuyện này làm tiêu chuẩn, chẳng phải là nói tùy tiện!
Đối nghịch của Thập
Thiện là Thập Ác. Chúng ta quan sát cẩn thận xã hội
hiện tại, chẳng phải là xã hội Thập Thiện,
mà là xã hội Thập Ác. Quý vị thấy ba nghiệp
nơi thân là sát sanh, trộm cắp, tà dâm, miệng nói dối,
nói đôi chiều, ác khẩu, nói thêu dệt; ý tham, sân, si,
ai nấy đều trọn đủ, xã hội này phiền
quá, chắc chắn có tai nạn. Vì thế, đối với
bộ phim “2012” do người Mỹ thực hiện, mấy
chục năm qua tôi chưa từng xem phim, mà cũng không
xem TV, một đồng tu trong Phật môn mua vé dẫn tôi
đi xem. Xem xong, tôi nói chuyện với mọi người,
mới biết phim này được cùng lúc chiếu trên
toàn cầu. Đây là chuyện lớn, chẳng phải là
chuyện nhỏ, đây là cõi trời cảnh cáo chúng ta. Nếu
chúng ta vẫn tiếp tục tạo Ngũ Nghịch, Thập
Ác, tai nạn sẽ diễn ra giống như trong phim. Vì thế,
có rất nhiều người hỏi tôi về cách nhìn này,
tôi nói: Chúng tôi nhìn từ nhân quả. Hiện thời, cư
dân trên địa cầu nghĩ gì, nói gì, làm gì? Quý vị
triển khai tiêu chuẩn Thập Thiện để xét, liền
biết toàn bộ là Thập Ác, chẳng có một điều
thiện nào! Tai nạn là thật, chẳng giả chút nào.
Có thể cứu vãn tai nạn hay không? Câu trả lời là
khẳng định! Chỉ cần cư dân trên địa
cầu hồi tâm chuyển ý: “Ta hiểu rõ rồi, ta biết
làm như vậy thì sau này, quả địa cầu sẽ
chẳng còn nữa! Tất cả tai nạn sẽ đều
xuất hiện”. Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật
bảo chúng ta: Tâm tham cảm Thủy Tai, trong tương
lai nước biển dâng lên nhấn chìm toàn bộ lục
địa là do tâm tham cảm ứng. Cái gì cũng đều
tham, ngay cả học Phật cũng tham. Học Phật
còn phải đốt một nén hương, đấy là
tâm tham. Phật bảo chúng ta buông xuống tâm tham, chẳng
phải là thay đổi đối tượng tham! Phải
diệt trừ tâm tham, phải hiểu đạo lý này. Sân
khuể cảm ứng Hỏa Tai. Hiện thời, nhiệt
độ địa cầu tăng lên, chuyện này thuộc
về sân khuể. Do vậy, chính chúng ta phải có cảnh
giác cao độ! Gặp chuyện chẳng vừa ý, trong
tâm cảm thấy khó chịu, phẫn hận, chính là quý vị
đã thêm dầu vào lửa khiến cho nhiệt độ
địa cầu tăng cao hơn, quý vị có trách nhiệm!
Ngu si cảm Phong Tai, ngạo mạn cảm động
đất. [Các tai nạn] đều có nhân: Khởi tâm
động niệm, ngôn ngữ, tạo tác cảm vời
những tai nạn ấy. Vì thế, đức Phật dạy
chúng ta một câu về bí quyết tiêu tai miễn nạn,
đó chính là: “Cần tu Giới,
Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu
Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân, si),
tai nạn sẽ bị hóa giải. Chúng ta yêu cầu mọi
người trên toàn thế giới thực hiện [bí quyết
trên đây] sẽ là chuyện không thể xảy ra
được, làm không được, chúng ta chỉ có thể
yêu cầu Phật môn đệ tử. Người học
Phật chúng ta có chung một vị thầy là Thích Ca Mâu Ni
Phật, chúng ta đều là đệ tử của Thích
Ca Mâu Ni Phật, hãy nên tiếp nhận lời giáo huấn của
Thích Ca Mâu Ni Phật, nghiêm túc tu hành, đoạn ác, tu thiện,
sám hối, sửa lỗi. Nếu đệ tử Phật
trên toàn thế giới đều có thể làm như vậy,
có cứu được quả địa cầu này hay
không? Có chứ! Cứu được!
Trên thế giới này, tôi nghe rất nhiều
người bảo tôi, [so với] các tôn giáo trên toàn thế
giới, rốt cuộc Phật giáo vẫn kể như có
tín đồ rất đông, ước tính chừng bảy
ức người. Số người trên cả thế giới
hiện thời là sáu mươi bảy ức người,
tính ra [Phật giáo] là một phần bảy, con số này rất
đáng kể, giữa bảy người có một người
quay đầu, sáu người kia sẽ được
hưởng lây. Trong kinh, đức Phật đã giảng
rất rõ ràng, chúng sanh tạo nghiệp có cộng nghiệp
và biệt nghiệp; đối với các đệ tử
chúng ta, điều này là một sự cổ vũ hết
sức to lớn, trong cộng nghiệp có biệt nghiệp,
phải nhớ câu này! Cộng nghiệp bất thiện,
chúng ta chuyên tu thiện nghiệp, do vậy, đòi hỏi
chính mình phải nghiêm túc thi hành viên mãn ba món căn bản,
người xuất gia còn phải thực hiện Sa Di Luật
Nghi. [Người xuất gia] có ba món căn bản ấy kể
ra cũng khá lắm, nhưng thiếu Sa Di Luật Nghi thì
không được, vì sao? Có lỗi với Phật, Bồ
Tát! Nếu quý vị xuất gia thì phải thật sự
thực hiện. Không xuất gia thì còn được, tu tốt
đẹp Thập Thiện Nghiệp đạo là
được rồi, Phật cũng thừa nhận quý
vị là đệ tử Phật. Trên thực tế, trọn
đủ ba món căn bản thì mới có thể trọn
đủ điều kiện học Phật. Trong Tịnh
Nghiệp Tam Phước đã nói rõ ràng, quý vị mới
có thể tiếp nhận Tam Quy Ngũ Giới. Bởi lẽ,
Tam Quy Ngũ Giới chẳng phải là vô điều kiện,
phải có điều kiện nào mới có thể tiếp
nhận Tam Quy Ngũ Giới? Thiện nam tử, thiện nữ
nhân mới có thể tiếp nhận phép “rửa tội”
này! Thiện nam tử, thiện nữ nhân ắt phải
làm được điều đầu tiên trong Tịnh
Nghiệp Tam Phước: “Hiếu
dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng,
từ tâm chẳng giết, tu Thập Thiện Nghiệp”,
bốn câu này! Thi hành “hiếu thân, tôn sư” (hiếu thảo
cha mẹ, tôn trọng thầy) bằng Đệ Tử
Quy; bởi lẽ, làm được Đệ Tử Quy
thì “hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự
sư trưởng” sẽ làm được. Thi hành Thái
Thượng Cảm Ứng Thiên thì “từ tâm chẳng giết”
sẽ làm được. Cuối cùng là Thập Thiện
Nghiệp Đạo thì mới có thể trở thành Phật
môn đệ tử. Ngày nay Phật pháp suy vi, vì sao suy? Chúng
ta coi nhẹ cơ sở giáo dục này, cho nên Phật pháp
suy đồi. Vấn đề không xuất pháp từ Phật
pháp, mà xuất phát từ bản thân các đồng học
học Phật chúng ta trong một đời này, chúng ta chẳng
học nghiêm túc! Thích Ca Mâu Ni Phật đã không còn trụ thế,
bản thân chúng ta tuyên bố là đệ tử của
Ngài, nhưng lão nhân gia có thừa nhận hay không, chúng ta
không biết, tự cho là đã được Ngài thừa
nhận; thật ra, chẳng phải!
Kinh này giảng rất hay, dẫu
trót tạo nghiệp Ngũ Nghịch, Thập Ác, nhất
định đọa địa ngục A Tỳ, gặp
pháp môn này cũng được cứu, “lâm chung niệm Phật, diệc tất tùy nguyện
đắc sanh” (lâm chung niệm Phật, ắt cũng
được vãng sanh theo ý nguyện). Tạo tội nghiệp
nặng nề dường ấy có cứu được
hay không? Cứu được! Một niệm hồi
đầu! Cổ nhân Trung Quốc thường nói: “Lãng tử hồi đầu kim
bất hoán” (lãng tử quay đầu, vàng chẳng đổi).
Đừng nghĩ hắn tạo lắm điều ác nghiệp,
hễ hắn quay đầu bèn là đại thiện nhân.
Thiện hay ác chỉ trong một niệm, hắn có thể
quay đầu lại, chẳng dễ dàng! Cho thấy
điều gì? Chứng tỏ hắn có thiện căn rất
sâu dầy. Trong một đời này, không có ai dạy hắn,
nên hắn mê, tạo ác nghiệp nhiều ngần ấy, hễ
có người cảnh tỉnh hắn, hắn sẽ ngay lập
tức quay đầu. Chẳng phải là không có đạo
lý. Do điều này có thể biết: Giáo dục trọng
yếu lắm! Thế gian có người xấu hay
chăng? Không có người xấu. Trong mắt Phật, chẳng
có ai xấu! Trong giáo pháp Đại Thừa, đức Phật
thường nói: “Hết thảy
chúng sanh vốn là Phật”, những kẻ tạo tác Ngũ
Nghịch Thập Ác có là Phật hay không? Họ vốn là Phật.
Yêu ma quỷ quái có là Phật hay không? Vốn là Phật.
Không ai chẳng phải là Phật, Phật thấy toàn bộ
hết thảy chúng sanh đều là chư Phật Như
Lai. Nhưng trong lục đạo, những vị Phật
này có vị mê, có vị ngộ, có vị mê rất sâu, có vị
mê cạn hơn một chút, căn tánh mỗi người
khác nhau, thiện căn, phước đức, nhân duyên
không giống nhau, chẳng thể không biết [điều
này]!
Đối với bốn câu tiếp
theo, nếu quý vị thật sự giác ngộ, tiếp xúc
pháp môn này, thật sự có thể tin tưởng, lý giải,
thật sự làm, khó lắm, đáng quý thay! Pháp môn này gọi
là “pháp khó tin”, mọi người quý vị vừa tiếp
xúc bèn tin tưởng, tôi rất bội phục, tôi chẳng
bằng quý vị. Phải mất một thời gian dài
mười mấy năm, tôi mới thật sự tiếp
nhận pháp môn này. Thuở còn trẻ, đi học trong
trường chịu ảnh hưởng của giáo viên, chịu
ảnh hưởng giáo dục của đạo Tin Lành,
nghĩ các tôn giáo khác đều là mê tín, Phật giáo là mê tín
nhất, các tôn giáo khác chỉ thờ một vị thần,
một vị chân thần duy nhất, đó là tôn giáo cao cấp,
Phật giáo thần nào cũng đều thờ, là đa
thần giáo, phiếm thần giáo, là tôn giáo thuộc cấp
thấp, làm sao có thể tiếp nhận [Phật giáo]
được? Cũng may là thuở trẻ tôi rất
ưa thích Triết Học, tìm được một vị
thầy là tiên sinh Phương Đông Mỹ, theo học Triết
Học với cụ. Trong khóa học khái luận Triết
Học cuối cùng, cụ giới thiệu Triết Học
trong kinh Phật, tôi được nhập môn như thế.
Trong kinh điển Phật giáo, lão nhân gia đặc biệt
ưa thích kinh Hoa Nghiêm, bảo tôi: Đây là “khái luận của
Triết Học trong kinh Phật”, cụ dùng danh từ này
để giới thiệu kinh Hoa Nghiêm. Cụ nói trong kinh ấy
có lý luận hoàn mỹ, có phương pháp tinh tế, cuối
cùng lại còn kèm theo biểu diễn. Tìm không ra một bộ
sách giáo khoa thứ hai nào giống như vậy trên khắp
thế giới. Đó là thật, chẳng giả. Có kèm theo
biểu diễn, phần sau là năm mươi ba lần
tham học của Thiện Tài để biểu diễn
cho quý vị xem. Do vậy, tôi cũng đặc biệt yêu
thích bộ kinh này, hết sức hữu duyên, nhưng đối
với Tịnh Tông đúng là có bài xích, thoạt đầu
cho rằng: Nói chung, pháp môn này do Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
cho các bà già, chẳng dành cho phần tử tri thức. Pháp
sư Sám Vân[15] giúp đỡ tôi, tôi ở thảo am của
Ngài nửa năm, làm công quả tại thảo am. Thời
gian rảnh rỗi, Ngài muốn tôi đọc Ấn Quang
Pháp Sư Văn Sao, đọc Di Đà Kinh Yếu Giải,
Sớ Sao, Viên Trung Sao. Do vậy, tôi có ấn tượng rất
sâu đối với ba bản này, cũng hết sức
ưa thích, không phản đối Tịnh Độ Tông, cũng
rất tôn trọng, nhưng không muốn học, có hứng
thú rất sâu đối với kinh điển Đại
Thừa. Thầy Lý khuyên tôi tu Tịnh Độ, tôi theo cụ
học Giáo, đương nhiên chẳng thể phản
đối, nhưng chẳng phải là thật tâm học,
tu cho có lệ, thầy cũng nhìn thấy điều này!
Khi nào mới thật sự nhận
thức Tịnh Độ? Giảng kinh Hoa Nghiêm, lúc ấy
tôi ở Đài Loan. Tôi nhớ là năm
tôi hai mươi sáu tuổi, quen biết tiên sinh
Phương Đông Mỹ. Năm tôi hai mươi sáu tuổi
vẫn còn đi làm, ba mươi tuổi nghỉ việc,
một lòng mong học Phật pháp. Do Chương Gia đại
sư chỉ dạy, Ngài khuyên tôi xuất gia, muốn tôi học
theo Thích Ca Mâu Ni Phật. Tôi rất vâng lời, quả thật
là thật thà, nghe theo, cũng thật sự làm. Tôi theo thầy
Lý mười năm để học kinh giáo, theo lão nhân
gia đến năm thứ hai bèn xuất gia, duyên xuất
gia chín muồi! Sau khi xuất gia, tôi giảng kinh dạy học
các nơi. Năm Dân Quốc 60 (1971), tôi bắt đầu
giảng Hoa Nghiêm kinh lần đầu tiên, Thầy Lý giảng
tại Đài Trung, tôi đến nghe [thầy giảng] quyển
thứ nhất để nghe kinh này bắt đầu
như thế nào, nghe xong một quyển này, tôi có khả
năng giảng một bộ Bát Thập Hoa Nghiêm. Tôi giảng
ở Đài Bắc, tôi nhớ đã giảng hình như hai
năm, chưa đầy ba năm đã giảng đuổi
kịp tiến độ của thầy, vì cụ mỗi
tuần chỉ giảng một giờ; cụ giảng kinh
hai tiếng, nhưng có phiên dịch sang Đài ngữ[16], nên trên thực tế là mỗi tuần
giảng một giờ. Khi ấy, mỗi tuần tôi giảng
ba lần, mỗi lần là một tiếng rưỡi, nên
mỗi tuần giảng bốn giờ rưỡi, bằng
với cụ giảng cả tháng. Vì thế, tôi đuổi
kịp cụ rất nhanh, tiến độ đuổi kịp
cụ, sau đấy, bèn vượt lên trước.
Phải biết cũng mất
mười năm, giảng kinh Hoa Nghiêm được phân
nửa, khi ấy là Bát Thập và Tứ Thập Hoa Nghiêm
cùng giảng, mỗi tuần tôi giảng Bát Thập Hoa
Nghiêm hai ngày, giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm một ngày. Giảng
được phân nửa, có một hôm, đột nhiên nghĩ
Văn Thù, Phổ Hiền tu pháp môn gì? Thiện Tài đồng
tử học pháp môn gì? Kinh Hoa Nghiêm giảng được
phân nửa, còn có nửa sau, lật phần
sau ra xem, lật xem tới phần sau, tới quyển ba
mươi chín trong bản Tứ Thập Hoa Nghiêm, thấy
Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát thảy đều
phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, điều này
khiến tôi hết sức chấn động. Hơn nữa,
thấy không riêng gì Văn Thù, Phổ Hiền tự mình phát
nguyện cầu sanh Tịnh Độ, mà còn suất lãnh bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ
trong hội Hoa Nghiêm sang thế giới Cực Lạc gặp
A Di Đà Phật. Ngạc nhiên quá! Hai vị đại Bồ
Tát này trợ thủ của Tỳ Lô Giá Na Phật, hai vị
đại trợ thủ đem toàn bộ học trò của
Tỳ Lô Giá Na Phật sang thế giới Cực Lạc, Tỳ
Lô Giá Na Phật chẳng tức giận ư? Đem toàn bộ
học trò của ta đi? Tỳ Lô Giá Na Phật không chỉ
chẳng giận, mà còn hết sức hoan hỷ.
Sau đấy, tôi đọc kỹ,
môn sinh đắc ý, đệ tử truyền pháp của
Văn Thù Bồ Tát là Thiện Tài đồng tử, lại
coi xem Ngài học gì? Trước kia, đúng là hời hợt,
vô ý, giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm đến phân nửa
mà chẳng nhìn ra vấn đề này, phải dụng tâm mới
thấy được, mới nhận ra: Thiện Tài và thầy
của Ngài vốn tu pháp môn Tịnh Độ. Nhìn từ chỗ
nào? Từ lần tham phỏng thứ nhất, do thầy giới
thiệu, Văn Thù Bồ Tát giới thiệu Thiện Tài
đi tham phỏng tỳ-kheo Cát Tường Vân. Tỳ-kheo
Cát Tường Vân tu Ban Châu tam-muội. Ban Châu tam-muội là
gì? Còn gọi là Phật Lập tam-muội, chuyên tu trì danh niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ. Lúc ấy mới biết,
người Trung Quốc thường bảo vị thiện
tri thức (thầy) thứ nhất là “tiên nhập vi chủ” (điều gì tiếp xúc
đầu tiên sẽ là chánh yếu), Ngài tu môn này! Sau đó
nhìn vào quá trình tham học, đối với mỗi một
vị thầy, Thiện Tài đều luyến đức
lễ từ (hâm mộ đức hạnh, kính lễ, từ
tạ), quý vị hãy chú ý quan sát, Thiện Tài tham học
điều gì cũng đều thấy, đều học,
đều hiểu, nhưng chẳng tu, Ngài tu gì? Niệm Phật.
Nhìn đến cuối cùng, mười đại nguyện
vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về
Cực Lạc, một vị đầu, một vị cuối
[đều tu Tịnh Độ], chẳng phải là rõ rệt
ư? Ngài môn nào cũng học, môn nào cũng đều hiểu,
nhưng chính Ngài chuyên dốc công sức nơi pháp môn Niệm
Phật. Từ chỗ này, tôi mới tiếp nhận Tịnh
Độ, thật sự hiểu rõ ràng, minh bạch, thầy
khuyên tôi, tôi chẳng có lòng tin sâu xa như thế. Lại từ
Hoa Nghiêm, từ Pháp Hoa, từ Lăng Nghiêm tổng kết,
tôi mới biết cái hay của Tịnh Độ, Tịnh
Độ thù thắng. Thật không dễ dàng! Tôi thấy
quý vị chỉ vừa nghe bèn tiếp nhận, tôi rất
bội phục, sao tôi lại khó khăn như thế? Mất
mười mấy năm mới thật sự tiếp nhận
pháp này!
Pháp môn này “hoành xuất tam giới, viên đăng tứ độ,
đốn dữ Quán Âm, Thế Chí tịnh kiên, khả kiến
thử pháp môn chi cứu cánh phương tiện, thiện ứng
quần cơ dã” (vượt khỏi tam giới theo chiều
ngang, lên trọn vẹn bốn cõi, nhanh chóng cùng Quán Âm, Thế
Chí sánh vai, đủ thấy pháp môn này là phương tiện
rốt ráo đến tột cùng, khéo thích ứng mọi
căn cơ), đây là nói thật, chẳng giả! “Hoành xuất”
còn gọi là “hoành siêu”, vì tám vạn bốn
ngàn pháp môn đều là tiến lên từng bậc, đó là
thụ xuất (thoát tam giới theo chiều dọc), chẳng
phải là hoành xuất (vượt thoát tam giới theo chiều
ngang). Kinh Hoa Nghiêm chẳng phải là một ví dụ rất
hay ư? Quý vị thấy địa vị Thập Tín,
trên Thập Tín là Thập Trụ, trên Thập Trụ là Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa,
Đẳng Giác, Diệu Giác, giống như chúng ta đi học,
Tiểu Học, Trung Học, Đại Học, Nghiên Cứu
Sinh, đó gọi là thụ xuất. Pháp môn Tịnh Tông không
cần, ngay từ nhân đạo bèn vượt ngang ra,
không cần phiền phức như thế! Từng bước
một như vậy thì đến bao giờ quý vị mới
có thể thoát ra? Vượt ngang ra, sang thế giới Cực
Lạc, A Di Đà Phật tiếp dẫn quý vị. Sau khi
đến bên ấy, bèn lên trọn bốn cõi, đây là
điều đặc biệt. Thích Ca Mâu Ni Phật có bốn
cõi Tịnh Độ hay không? Có, nhưng theo chiều dọc,
không phải là “viên đăng”.
Quý vị phải trèo từng bước một. Lục
đạo là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, tứ thánh pháp
giới là cõi Phương Tiện, thế giới Hoa Tạng
là Nhất Chân pháp giới, là cõi Thật Báo Trang Nghiêm của
Tỳ Lô Giá Na Phật, tiến lên nữa là Thường Tịch
Quang Tịnh Độ, trong thế giới Hoa Tạng vẫn
phải tiến lên từng bước một! Tịnh
Độ khác hẳn, bốn cõi của A Di Đà Phật
không có giới hạn. Nói cách khác, nói theo các khoa học gia
hiện tại, Tịnh Độ không có các chiều không
gian. Thập phương thế giới thảy đều
không có hiện tượng này, chỉ có thế giới Cực
Lạc đặc biệt, không có các chiều không gian, bốn
cõi ở cùng một chỗ. Vì thế, một sanh, hết
thảy sanh!
Quý vị hãy xem ví dụ do cụ
Hoàng nêu tiếp theo đó. Quán Âm, Thế Chí đang ở
nơi đâu? Các Ngài ở trong cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Nay
chúng ta niệm Phật vãng sanh là sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng
Cư. Trong thế giới này, cõi Phàm Thánh Đồng Cư
không thấy cõi Phương Tiện Hữu Dư, có giới
hạn, có chướng ngại; chúng ta sanh trong nhân đạo
của lục đạo, chẳng thể thấy thiên
đạo. Cõi trời có hai mươi tám tầng, tầng
dưới không thể thấy tầng trên, nhưng tầng
trên có thể trông thấy tầng dưới. Nhưng cái
hay của thế giới Cực Lạc là do so với
điều gì? Thập phương thế giới chư
Phật Như Lai dạy học đều là từ Tiểu
Học, Trung Học, đến Đại Học, đều
theo cách như vậy. Hơn nữa, lớp Một và lớp
Hai Tiểu Học mỗi lớp có phòng học riêng, chẳng
ở cùng một chỗ. Phòng học của A Di Đà Phật
to lớn, từ Tiểu Học, Trung Học cho đến
lớp Tiến Sĩ đều ở cùng một chỗ,
lên lớp trong cùng một phòng học, tình hình là như vậy
đó, thảy đều ở cùng một chỗ, điều
này rất đặc thù. Do vậy, nói: “Sanh về một là sanh về hết thảy”.
Chúng ta là hạ hạ phẩm vãng sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng
Cư, quý vị đến thế giới Cực Lạc,
có thể thấy Quán Âm, Thế Chí, có thể thấy
Văn Thù, Phổ Hiền, đều ở nơi đó.
Thường cùng những vị này ở cùng một chỗ,
như vậy là quý vị may mắn quá! Họ là Pháp Thân
đại sĩ, quý vị không hiểu, các Ngài sẽ dạy
quý vị. Ngoại trừ Phật dạy bảo ra, các Bồ
Tát nhiều ngần ấy giúp đỡ quý vị, nâng
đỡ quý vị, quý vị cũng thành tựu rất
nhanh. Đây là chỗ thù thắng khôn sánh của thế giới
Cực Lạc; cho nên cảm được thập
phương chư Phật tán thán. Nói “viên đăng tứ độ” là không có cấp
bậc. “Đốn” có nghĩa
là ngay lập tức, quý vị lập tức sánh vai cùng
Quán Âm Bồ Tát, Thế Chí Bồ Tát, đều là học
trò của A Di Đà Phật, các Ngài biến thành lớp
đàn anh của chúng ta.
“Khả
kiến thử pháp môn chi cứu cánh phương tiện,
thiện ứng quần cơ” (có thể pháp môn này là
phương tiện rốt ráo đến tột cùng, thích ứng
mọi căn cơ), căn tánh nào gặp pháp môn này thảy
đều đắc độ, vấn đề là quý vị
có tin hay không, quý vị nghe có hiểu hay không? Thật sự
tin tưởng, nghe chẳng hiểu cũng không sao, một
câu A Di Đà Phật thật thà niệm, niệm đến
công phu thành phiến sẽ tự tại vãng sanh, biết
trước lúc mất. Rất nhiều người suốt
đời chưa hề nghe kinh, không biết chữ, niệm
một câu A Di Đà Phật, niệm ba năm công phu thành tựu,
có người đứng mất, có người ngồi mất,
chẳng ngã bệnh, nói đi là đi, chẳng khó khăn
gì! Mấy năm trước, cư sĩ Hoàng Trung
Xương ở Thâm Quyến đã làm mẫu cho chúng ta
xem. Ông ta nghe nói về pháp môn này, bèn tự mình phát tâm làm thí
nghiệm, thử coi có đúng là ba năm có thể vãng sanh
hay không. Ông ta bế quan tại Thâm Quyến, cư sĩ
Hướng Tiểu Lỵ hộ quan, hai năm mười
tháng bèn biết trước lúc mất, Phật tiếp dẫn
ông ta, còn thiếu hai tháng mới đủ ba năm, thật
đấy, chẳng giả đâu! Chúng tôi khuyên mọi
người ở chỗ này, ông ta tạo chứng minh, thực
hiện Tác Chứng Chuyển trong Tam Chuyển Pháp Luân, chứng
minh chuyện này là thật, chẳng giả. Chúng ta có muốn
vãng sanh hay không? Muốn vãng sanh thì dùng cách của ông ta là
được. Mấu chốt là gì? Triệt để
buông xuống! Sở dĩ quý vị chẳng đi
được là vì quý vị chưa buông xuống, còn tham
luyến thế gian này, mê hoặc, điên đảo. Thật
sự giác ngộ thì cái gì cũng chẳng cần, trong tâm
chỉ có A Di Đà Phật, không có chuyện nào khác. Quý vị
thấy trường thời huân tu mất bao lâu? Ba năm,
một ngàn ngày! Huân tu một ngàn ngày quý vị bèn đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới. Thiện
Đạo đại sư nói rất hay: “Vạn tu, vạn nhân khứ” (vạn người
tu, vạn người đến), pháp môn này chẳng sót một
ai. Tu hành mà bị bỏ sót, nguyên nhân do chính quý vị, chính
quý vị phải chịu trách nhiệm, không thể trách A
Di Đà Phật, không thể trách kinh Vô Lượng Thọ,
không thể trách ai hết, chỉ trách chính mình chẳng
đúng pháp. Mỗi ngày nghe kinh mà chẳng hiểu, thật
đấy, vì sao nghe không hiểu? Bộp chộp, hời hợt!
Quý vị hoài nghi pháp môn này, đối với kinh giáo này,
quý vị tin chẳng sâu, không hiểu thấu triệt, cho
nên có chướng ngại.
Đoạn tiếp theo vẫn
giảng về khế cơ, đoạn này có ngụ ý sâu
xa, chúng ta hãy đọc kinh văn: “Hựu khế cơ giả, diệc ngụ khế
hợp thời cơ chi nghĩa” (lại nữa, khế
cơ bao hàm ý nghĩa khế hợp thời cơ). Đoạn
này giảng rất hay, cho thấy trí huệ chân thật của
cụ Hoàng Niệm Tổ, rất trọng yếu. Phù hợp
gì? Phù hợp thời cơ trong xã hội hiện thời. “Như Lai thùy từ, độc
lưu thử kinh, ư chư kinh diệt tận chi tối
hậu bách niên” (Đức Như Lai rủ lòng Từ,
riêng lưu lại kinh này một trăm năm cuối sau
khi các kinh đã bị diệt hết). Trong tương lai,
Phật pháp sẽ tiêu mất trên thế gian này, bị tiêu
diệt, vì sao? Pháp là duyên sanh, duyên không còn, pháp sẽ diệt,
duyên sanh, duyên diệt; chẳng phải là bất diệt,
nó là pháp được sanh bởi nhân duyên, cho nên cũng chẳng
phải là thật. Trong kinh Bát Nhã, đức Phật bảo
chúng ta: “Pháp thượng
ưng xả, hà huống phi pháp” (pháp còn nên bỏ, huống
gì phi pháp). Giảng rất thấu triệt! Phật pháp tốt
đẹp, đừng nên tham, chớ nên khởi tâm tham, khởi
tâm tham là sai! Trong kinh Kim Cang, đức Phật có nêu tỷ
dụ, Ngài dùng thuyền bè vượt sông làm tỷ dụ.
Vượt sông cần phải có chiếc thuyền nhỏ,
hoặc là bè kết bằng gỗ hay bằng thân tre, dùng
để vượt sông. Ngài nói pháp giống như thuyền
để vượt sông, giúp quý vị từ bờ này
vượt sang bờ kia, đến bờ kia, quý vị phải
bỏ, bỏ thì mới lên bờ được. Nếu
quý vị chẳng bỏ thì sai mất rồi, vĩnh viễn
không thể lên bờ được. Vì thế, Phật dạy
chúng ta: “Pháp thượng
ưng xả, hà huống phi pháp” (Pháp còn phải bỏ,
huống gì phi pháp). “Bỏ”
có nghĩa là quý vị đừng chấp trước,
đừng ghim trong lòng, ghim trong lòng là trật! Vì sao? Nó là
pháp hữu vi, nó là pháp duyên sanh, chẳng phải là tự
tánh. Quý vị có thể buông xuống hết thảy sẽ
kiến tánh, tánh mới là pháp chân thật duy nhất, bất
sanh bất diệt, thứ gì cũng trọn đủ, thứ
gì cũng viên mãn; trí huệ trọn đủ, đức
năng trọn đủ, tướng hảo trọn
đủ! Nay ta gọi tướng hảo là phước
báo, là thứ quý vị vốn sẵn có trong tự tánh, chẳng
phải tìm từ bên ngoài, bên ngoài không có, lại còn vĩnh
viễn hưởng thụ bất tận. Đó mới gọi
là Bảo! Thật sự là bảo, Tự Tánh Tam Bảo.
Đây là thứ mà Phật dạy chúng ta hãy thật sự
mong đạt được, tìm lại, nay đã mê mất,
hãy tìm về!
Do vậy, quý vị nhất
định phải biết, trí huệ do đâu mà có? Chính
mình vốn sẵn có. Quý vị cầu trí huệ, chẳng
có chuyện này! Cái mà quý vị cầu được là tri
thức, tri thức và trí huệ là hai chuyện [khác nhau]. Cầu
trí huệ bằng cách nào? Phải định cái tâm, tâm
thanh tịnh sanh ra trí huệ. Tâm chúng ta bất định,
trong tâm có cả đống thứ lộn xộn, vì vậy,
trí huệ chẳng sanh, mà sanh phiền não. Tâm thanh tịnh
sanh trí huệ. Bởi lẽ, trí huệ phát xuất từ
buông xuống, [hễ buông xuống] trí huệ bèn xuất hiện;
không buông xuống, sẽ vĩnh viễn chẳng có trí huệ,
cái mà quý vị học được toàn là tri thức. Tri
thức có thể giải quyết vấn đề nhỏ
nhặt; nhưng giải quyết vấn đề vẫn
còn có những rắc rối về sau. Khi khoa học kỹ
thuật giải quyết vấn đề, nếu giải
quyết vấn đề lớn sẽ có những hậu
quả to lớn, vấn đề nhỏ sẽ có hậu
quả nhỏ. Giải quyết vấn đề nhỏ
còn được, chứ giải quyết vấn đề
lớn sẽ gây ra tai nạn cho cả thế giới, cuối
cùng là địa cầu có ngày diệt vong là do khoa học kỹ
thuật gây ra! Người Trung Quốc thông minh. Năm
1982, tôi đến Mỹ lần đầu, lần thứ
hai là năm 1983, cư sĩ Trầm Gia Trinh mời tôi tới
giảng kinh tại Nữu Ước. Đến Nữu
Ước, có một bữa, ông ta mời tôi dùng cơm,
khách mời cũng rất nhiều, có rất
nhiều người Mỹ tại địa
phương, tôi nghĩ họ đều là bạn thân của
Trầm lão cư sĩ. Có một người hỏi tôi:
“Hiện thời người Tây Phương chúng tôi đối
với người Hoa có cách nhìn khác với thuở xưa.
Trong quá khứ, nói chung là coi thường người Hoa,
nghĩ người Hoa thiếu văn hóa, là lũ người
dã man. Nay chúng tôi biết: Trên cả thế giới, nếu
một chọi một, người Hoa là hạng nhất,
có trí huệ, rất có khả năng. Một chọi
một, người Hoa là bậc nhất. Nhưng đem hai
người so với hai người, người Do Thái bậc
nhất; đem so từng ba người một, người
Nhật Bản bậc nhất”. Cuối cùng, hỏi tôi một
câu: “Vì sao người Hoa các ông thiếu đoàn kết?” Tôi
nghe xong, bèn cười, tôi biết họ đều tin theo
Cơ Đốc Giáo hay Thiên Chúa Giáo, bèn nói: “Đấy là do
Thượng Đế an bài”. Ông ta rất kinh ngạc, lẽ
nào là do Thượng Đế an bài? Tôi nói: “Nếu người
Hoa đoàn kết, quý vị còn có cơm ăn nữa hay
chăng?” Mọi người đều cười xòa. Thật
ra, ông ta chê cười chúng ta chẳng đoàn kết; họ
biết người Hoa thật sự thông minh, nhưng thiếu
đoàn kết, vẫn còn may, họ còn có cơm ăn. Gặp
chuyện như thế. Ở Mỹ, tôi gặp chuyện
như vậy rất nhiều.
Hiện tại, do khoa học kỹ
thuật đổi mới mỗi ngày, đã phá hoại
sinh thái (ecological environment) của địa cầu đến
mức nghiêm trọng, nên trên địa cầu có lắm
tai nạn như thế, chẳng phải
là không có nguyên nhân, mà do con người gây ra! Chúng ta nhất
định phải hiểu, nếu tiếp tục phá hoại
như vậy, tôi ước đoán, tối đa mười
năm nữa sẽ tận thế. Hiện thời, các
nơi bị tai nạn, đó là gì? Đó là điềm báo
trước đại tai nạn, chúng ta đã thấy, mà
nếu chẳng nghiêm túc nỗ lực, chắc chắn sẽ
không thể tránh khỏi tai nạn này! Do vậy, chúng ta chẳng
thể không biết, không thể chẳng sốt sắng nỗ
lực học Phật. Hóa giải tai nạn không có gì khác,
hãy khuyên lơn, hướng dẫn mọi người hồi
tâm chuyển ý, đoạn ác tu thiện, tích công lũy
đức hòng giải trừ tai nạn. Hôm nay đã hết
thời gian, chúng ta học tập tới chỗ này!
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
Hết phần 4
(còn tiếp)
[1] “Cải cách khai phóng” là danh từ do
đảng Cộng Sản Trung Quốc đặt ra để
gọi cuộc cải tổ kinh tế dưới sự
lãnh đạo của Đặng Tiểu Bình vào năm
1978, theo khẩu hiệu: “Đối
nội cải cách, đối ngoại khai phóng” (đối
nội: cải tổ; đối ngoại: mở cửa).
Đây là một bước nhượng bộ nhằm vực
dậy nền kinh tế suy yếu, rệu rã, mọi
cơ cấu bị phá nát bởi cuộc cách mạng
Văn Hóa dưới thời Mao Trạch Đông. Nói cách
khác, đây là công cuộc tư bản hóa, tư nhân hóa, khuyến
khích ngoại quốc đầu tư, mạnh dạn tiếp
thu tư tưởng quản trị kinh tế và khoa học
kỹ thuật của Tây Phương, đúng như Đặng
Tiểu Bình đã trào phúng nói: “Mèo
trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn bắt
được chuột là được rồi!”
[2] Triệp điệp (摺疊) là in các trang thành một tờ giấy
dài, rồi xếp lại thành sách, không đóng gáy, chỉ
dán bìa cứng vào trang đầu và trang cuối. Trang
đính (裝訂)
bản là in thành sách như ta thường thấy, thường
có bìa cứng.
[3] Khải Thư (楷書) còn gọi là Chánh Khải, Khải Thể,
Chánh Thư, hoặc Chân Thư)
là lối viết chữ mực thước, ngay ngắn,
cân đối, đầy đủ nét, không hoa dạng, bay
bướm. Chữ Khải có nghĩa gốc là “khuôn mẫu,
mực thước”. Tiểu Khải là loại chữ Khải
nhỏ từ 5cm trở xuống, lớn hơn 5cm sẽ gọi
là Đại Khải. Bốn nhân vật viết chữ Khải
đẹp nhất được xưng tụng từ
trước đến giờ là Âu Dương Tuân, Nhan Chân
Khanh, Liễu Công Quyền (ba người này sống vào
đời Đường) và Triệu Mạnh Phủ
(đời Nguyên) hình thành bốn phong cách viết chữ Khải
riêng biệt, thường được gọi là Âu Thể,
Nhan Thể v.v...
Hành Thư (行書) còn gọi là Hành Khải,
được hình thành vào cuối đời Hậu Hán.
Hành Thư thường được dùng để viết
cho nhanh, nét viết mềm mại, tròn trịa hơn Khải
Thư, chủ yếu dùng trong thư tín hay ghi chép cho nhanh,
có thể ghi tắt vài nét, nhưng không quá phóng túng, tung hoành
như lối chữ Thảo. Những người nổi
tiếng về thư pháp theo kiểu Hành Thư là
Vương Hy Chi, Phùng Thừa Tố...
[4] Nguyên văn là “văn hóa đại cách
mạng”, đây là một phong trào vận động quần
chúng do đảng Cộng Sản Trung Quốc tiến hành
từ năm 1966 dưới sự chỉ đạo của
Mao Trạch Đông nhằm quét sạch những tư
tưởng truyền thống của Trung Hoa và mọi ý niệm
bị đảng Cộng Sản Trung Quốc quy chụp
là “phản động, lạc hậu” trong mọi tầng
lớp xã hội, với mục đích suy tôn chủ nghĩa
Mao, tiêu trừ các thành phần đối lập, củng cố
địa vị độc tôn của Mao, trấn áp những
dư luận chỉ trích trong xã hội sau các thất bại
thê thảm của các phong trào Đại Nhảy Vọt
(Đại Dược Tiến) cũng như các hệ lụy
do các kế hoạch năm năm, ba năm, Chỉnh Phong,
Chỉnh Đảng trước đó. Họ Mao lợi dụng
lực lượng Hồng Vệ Binh tấn công các đối
thủ, triệt hạ những lãnh tụ có uy tín như
Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Niếp Vinh
Trăn, Từ Hướng Tiền v.v... Hồng Vệ Binh
tấn công bất cứ ai chống đối hay bị
nghi ngờ là phản động, chống Mao, đập
phá các cơ sở thừa tự, chùa miếu, hủy diệt
các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật cổ truyền.
Tuy về sau, chính quyền Mao Trạch Đông đã kiểm
soát được sự hoành hành của Hồng Vệ
Binh, Cách Mạng Văn Hóa thật sự chỉ chấm dứt
vào năm 1976 sau khi Mao Trạch Đông chết và tân chủ
tịch Hoa Quốc Phong hạ bệ Tứ Nhân Bang (Giang
Thanh, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều,
và Diêu Văn Nguyên), tức bốn tên hung thần thừa
cơ kéo bè kéo đảng khuấy nát tình hình chính trị tại
Hoa Lục bấy giờ.
[5] Nguyên văn “tín tức” (信息). Đây là
cách người Hoa dịch chữ Information. Theo Wikipedia,
Information hiểu theo nghĩa hạn chế nhất sẽ
là tập hợp các thông điệp chứa đựng các
ký hiệu được sắp xếp theo một trình tự
nhất định, có thể thâu nhận hoặc chuyển
tải. Theo nghĩa rộng, Information là bất cứ sự
kiện nào có thể ảnh hưởng đến trạng
thái của một hệ thống. Nó có thể bao gồm tất
cả những ý nghĩa như dữ liệu, điều
kiện hạn chế, kiến thức, những hướng
dẫn, nhân tố kích thích tinh thần, mô thức, sự tiếp
nhận v.v... Chúng tôi tạm dịch Information thành “thông tin”
theo cách dịch phổ biến hiện thời tuy vẫn
không cảm thấy thỏa đáng lắm.
[6] Thật Tế Thiền
Tự thuộc huyện Lô Giang, tỉnh An Huy, nằm ở
phía Đông Bắc rặng núi Dã Phụ. Chùa do thiền
sư Phục Hổ khai sơn vào đời Đường.
Chùa nhiều lần hưng thịnh rồi suy vong, có lúc bỏ
hoang. Chùa được xây dựng lại vào năm 1993.
[7] Nha chu gọi đầy đủ
là nha chu viêm (periodontitis) là một
bệnh viêm (inflamation) các mô quanh nướu và chân răng,
khiến răng lỏng lẻo và rụng dần. Nếu
không chữa trị, người bệnh sẽ không còn cái
răng nào.
[8] Phiếm thần giáo (Pantheism), đúng ra
phải dịch là Phiếm Thần Luận, là quan điểm
cho rằng vũ trụ và thiên nhiên cùng thần (Chúa, Thượng
Đế, thần linh v.v...) đồng nhất. Để
nhận thức Thượng Đế, tốt nhất là
quan sát từ thiên nhiên. Theo đó, vũ trụ là biểu hiện
hoàn mỹ thánh khiết của thánh linh. Để nhận
biết chân thiện mỹ thật sự, con người
phải hòa nhập với thiên nhiên, cảm nhận sự
hiện diện của Thượng Đế trong từng
sự vật của vũ trụ. Quan điểm này
đã có từ thời cổ Hy Lạp bắt nguồn từ
luận thuyết của triết gia Heraclitus, Zeno v.v...,
được kế thừa bởi những nhà tư
tưởng sau này như Giordano Bruno, Baruch Spinoza, John Toland,
Hegel, Watl Whitman, Ralph Waldo Emerson, Henry David Thoreau, Albert Einstein,
Arnold Toynbee... Do Đại Thừa Phật giáo thường
nhấn mạnh Tánh và Tướng bất nhị, từ
Tướng phải thấy được Tánh, Tánh lại
được thường diễn tả bằng danh từ
Chân Như, Như Lai Tạng v.v... nên các triết gia Tây
Phương thường hiểu lầm Phật giáo là Phiếm
Thần Luận.
[9] Đây là một câu nói nổi tiếng của
triết gia René Descartes của Pháp. Câu nói này được
tìm thấy trong hai tác phẩm Discourse of Method và Principles of
Philosophy của ông.
[10] Brian Leslie Weiss (sinh năm 1944) là một
bác sĩ tâm lý, tốt nghiệp tiến sĩ Y Khoa từ
đại học Yale. Ông làm chủ nhiệm khoa Tâm Lý tại
Mount Sinai Medical Center ở Miami, Florida.
Năm 1980, khi thực hiện thôi miên một nữ bệnh
nhân, ông đã kinh ngạc khi nghe bà ta kể chuyện đời
quá khứ, và những dữ kiện này được kiểm
chứng khi tra cứu các hồ sơ lưu trữ tại
các nơi đã được bệnh nhân nhắc đến.
[11] Hai câu này đã được cư sĩ
Từ Tỉnh Dân giảng trong tác phẩm Độc Dịch
Giản Thuyết như sau: “Sinh
mạng chúng ta do âm dương của cha mẹ giao hội
mà sinh thành, thần hồn của chính mình nhập vào thai mẹ,
nhờ vào tinh khí của cha mẹ mà thành thân thể, đó
là ý nghĩa của câu ‘tinh khí vi vật’. Đó gọi là
sanh. Thân mạng của ta rốt cuộc già suy, âm
dương tách lìa nhau; do vậy, thần hồn mất
nơi nương cậy, đó gọi là chết. Thần
hồn đã mất nơi nương tựa nên gọi là
Du Hồn (hồn lang thang), cho đến khi gặp âm
dương giao hợp, cảm lấy tướng khí phận
để nương vào, lại bắt đầu một
cuộc sống mới, nên nói ‘du hồn vi biến”.
[12] Bồ Tát Xử Thai Kinh do ngài Trúc Phật
Niệm dịch vào thời Diêu Tần, gồm năm quyển,
chia thành ba mươi sáu phẩm, nội dung vô cùng phong phú,
giảng về hạnh đức, tánh đức của
Phật trước khi giáng sanh thị hiện thành Phật.
Đức Phật giảng kinh này tại Sa La Song Thụ
Lâm trước khi nhập Niết Bàn.
[13] Hương Cảng (Hong
Kong) gồm ba khu vực chính: Cửu Long (Kowloon, nằm trên
đất liền, thuộc tỉnh Quảng Đông),
đảo Hương Cảng và đảo Lạn Đầu
(Lantau, Đại Dự Sơn). Lãnh thổ Hương Cảng
có hơn 200 hòn đảo lớn nhỏ. Ở đây, hòa
thượng Tịnh Không nói đến cái eo biển
thường gọi là vịnh Victoria nằm giữa bán đảo
Cửu Long và đảo Hương Cảng.
[14] Vì sao nói Thọ, Tưởng, Hành, Thức
là năm thứ cảm nhận? Năm thứ cảm nhận
chính là khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Năm thứ
cảm nhận này do quá trình tâm lý Thọ, Tưởng, Hành,
Thức sanh khởi.
[15] Pháp sư Sám Vân
(1915-2009), họ Tào, pháp danh Thành Không. Sư được
sinh ra tại một tiểu trấn bên bờ sông Áp Lục,
thuộc địa phận tỉnh An Đông, gần biên
giới Đại Hàn. Sư từng sang Nhật du học
về ngành Mỹ Thuật. Năm hai mươi bốn tuổi
bắt đầu học Phật, thọ Cụ Túc Giới
năm ba mươi tuổi tại chùa Quảng Tế, Bắc
Kinh, từng theo học tại Bắc Bình Phật Giáo Học
Viện. Năm 1948, Sư đến Phước Châu theo học
với pháp sư Từ Châu. Năm 1949, Sư rời Hoa Lục
sang Đài Loan. Năm 1956, Sư lập Ấn Hoằng Mao Bồng
(thảo am Ấn Hoằng) tại núi Quán Âm, thuộc trấn
Bồ Lý, huyện Nam
Đầu, Đài Loan. Ngôi chùa này bị thủy tai phá hủy
vào ngày Bảy tháng Tám năm 1959. Năm 1963, Sư dựng
chùa Liên Nhân tại làng Thủy Lý huyện Nam Đầu.
Năm 1966, sáng lập Đại Chuyên Thanh Niên Trai Giới
Học Hội. Pháp sư Sám Vân giữ luật rất
nghiêm, không ăn quá Ngọ, mỗi ngày sau bốn giờ
chiều, nữ chúng không được ở lại chùa,
cũng không cho phép ai ở lại qua đêm. Sư rất
chú tâm hoằng truyền Tịnh Tông, Ngài được coi
là một trong số các vị pháp sư đóng góp rất
nhiều trong việc truyền bá pháp môn Tịnh Độ
tại Đài Loan.
0 Kommentare:
Post a Comment