Quý vị tu gì? Nhà Phật thường nói tám vạn
bốn ngàn pháp môn, tu gì? Thưa quý vị, đều là tu Thiền
Định, đều gọi là tam-muội. Tam-muội (Samādhi) là tiếng Phạn, Tam là Chánh, Muội
là Định, [tam-muội] là Chánh Định. Vốn là
Chánh Định, tâm quý vị vốn định, nay vì sao
tâm loạn như thế? Loạn là vọng tâm, chẳng phải
là chân tâm. Chân tâm vốn định, chưa hề bị
dao động.
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ Trang
Lúc tôi mới
học Phật, Chương Gia đại sư dạy tôi;
Ngài đã già, lớn hơn tôi ba mươi chín tuổi, khi
ấy, tôi hai mươi sáu tuổi, lão nhân gia đã sáu
mươi lăm tuổi. Sư đã gặp nhiều
người. [Theo Sư nhận định], con người
tôi ngoại trừ có chút thông minh nhỏ nhặt, trong số
mạng chẳng có của cải, chẳng có địa vị,
là kẻ bần tiện, có số ăn mày! Còn có một tí
thiện căn, đây là điểm khó có: Biết tôn
sư trọng đạo, hiếu thuận cha mẹ, thọ
mạng chỉ được bốn mươi lăm tuổi,
tôi tin tưởng [lời Sư]. Vì thế, Ngài giúp tôi, dạy
tôi tu ba điều: Tài bố thí, pháp bố thí, vô úy bố
thí, dạy tôi những điều này để sửa
đổi số mạng. Tài bố thí thì tôi không có tiền,
mỗi tháng bản thân chỉ có chút tiền lương,
đời sống khá chật vật, tiền đâu để
bố thí? Ngài hỏi tôi: Có cắc nào hay không? Một cắc
cũng được! Một đồng có được
hay không? Một đồng vẫn được! Anh hãy bố
thí từ một cắc, một đồng, trước hết,
phải có ý nguyện bố thí, có ý niệm ấy. Về sau,
tôi thường đến chùa miếu mượn kinh xem, chẳng
có chi khác, chùa miếu có kinh sách, mua bên ngoài chẳng
được. Thấy nhà chùa in kinh sách, bèn quyên góp một
ít tiền, chúng ta bỏ ra năm mươi xu, hay một
đồng đều được, làm từ chỗ
này. Phóng sanh thì lúc tôi mới học Phật bèn phóng sanh, in
kinh, đúng là càng thí càng nhiều, chẳng giả tí nào! Sau
này, theo thầy Lý học kinh giáo, rồi đi giảng kinh.
Giảng kinh là pháp bố thí. Đại khái, tôi giảng
kinh mười một, mười hai năm, có lần gặp
Cam Châu Hoạt Phật (Kanjurwa Khutughtu), vị này đã khuất,
cũng là học trò của Chương Gia đại
sư, cũng có địa vị rất cao trong Phật
giáo theo truyền thống Tây Tạng. Có một lần,
Sư cho tôi biết: “Pháp sư Tịnh Không, thầy đến
đây, tôi có lời muốn nói với thầy”. Tôi nói: “Thưa
Phật gia, chuyện gì thế?” Tôi và Sư rất thân thuộc.
Sư nói: “Chúng tôi phê bình sau lưng thầy”. Tôi hỏi: “Phê
bình tôi điều gì?” Sư nói: “Thầy là người rất
thông minh, cũng là một người tốt, rất
đáng tiếc mạng thầy rất khổ, đoản
mạng”. Tôi đáp: “Chuyện này có thể nói trước
mặt mà! Tôi biết rất rõ, tôi đâu bận tâm chuyện
này”. Sư nói: “Mấy năm nay, thầy giảng kinh công
đức rất lớn, số mạng của thầy
đã chuyển biến”. Tôi hỏi: “Thật sao?” “Thật
đó! Thầy thọ mạng rất dài, phước báo rất
lớn”. Tôi cũng chẳng cầu phước báo, cũng
chẳng cầu tuổi thọ, thật đấy! Sư
nói với tôi chuyện này xong, năm sau bèn vãng sanh, tôi không ngờ
Sư vãng sanh nhanh như vậy!
Vì thế,
gặp được Phật pháp, vận mạng mới
chuyển biến rất lớn, mỗi một lần bị
vùi dập là một lần được tiến triển
với mức độ lớn, đồng học ở
cạnh tôi đều đích thân thấy điều này.
Chúng ta học Phật chỉ có một sứ mạng: Mong
cho chánh pháp của Thích Ca Mâu Ni Phật tồn tại lâu dài,
học đòi Thích Ca Mâu Ni Phật giúp hết thảy chúng
sanh phá mê khai ngộ. Phá mê khai ngộ bằng giáo học. Con
người khổ nạn, xã hội gặp tai nạn là
vì đâu? Đều do chúng sanh mê hoặc, điên đảo,
tạo tác nghiệp bất thiện mà cảm vời. Làm thế
nào để giúp chúng sanh, giúp xã hội hóa giải tai nạn?
Dùng ngay biện pháp quen thuộc của Thích Ca Mâu Ni Phật,
giảng kinh, dạy học. Bởi lẽ, người giảng
kinh dạy học càng đông, kẻ được giáo hóa
càng nhiều, người giác ngộ càng lắm, nhiều vấn
đề trong xã hội sẽ được giải quyết,
cái gọi là “thiên tai” cũng dần dần bị hóa giải,
chuyện này là thật, chẳng giả! Tiến sĩ Giang
Bổn Thắng làm thí nghiệm trên nước, mới đây
đã triệu tập một hội nghị tại
Đông Kinh, có mời tôi. Tôi viết một bài diễn giảng,
giao cho cư sĩ Chung Mậu Sâm thay tôi tham dự, báo cáo
trong đại hội. Khoa học chứng minh ý niệm của
chúng ta chẳng thể nghĩ bàn. Bởi lẽ, theo giáo
pháp Đại Thừa, vũ trụ do đâu mà có? Vạn
pháp do đâu mà có? Ta do đâu mà có? Đức Phật nói rất
rõ ràng: “Duy tâm sở hiện,
duy thức sở biến”. Vì thế, chúng ta giải quyết
vấn đề của chính mình, sẽ giải quyết vấn
đề nơi hoàn cảnh. Đối với thiên tai
trong môi trường hiện thời, Phật pháp đã dạy
chúng ta một nguyên tắc chỉ đạo tối cao, tức
là quý vị phải thật sự hiểu: “Tướng do tâm sanh, cảnh chuyển theo tâm”. Chỉ
cần chuyển biến cái tâm. Giáo học của Phật pháp
không có gì khác, dạy bảo chúng ta hãy chuyển ác thành thiện,
[thiện, ác] có tiêu chuẩn. Thập Thiện Nghiệp
Đạo là tiêu chuẩn trong nhà Phật. Quý vị đừng
coi thường mười điều này. Trong giáo pháp Tiểu
Thừa, mười điều ấy được triển
khai thành ba ngàn oai nghi; trong Đại Thừa Bồ Tát pháp,
triển khai thành tám vạn bốn ngàn oai nghi, tức là
mười điều này mở rộng thành tám vạn bốn
ngàn điều, chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, tu Thập
Thiện viên mãn thì tám vạn bốn ngàn điều quý vị
đều thực hiện, quý vị sẽ thành Phật!
Đừng
coi thường một trăm mười ba điều
trong cuốn Đệ Tử Quy của Nho gia! Nếu triển
khai thì chúng cũng thành tám vạn bốn ngàn điều, toàn
bộ văn hóa truyền thống được thực
hiện ngay trong đó. Do vậy, Tứ Thư, Ngũ Kinh,
mười ba kinh, thậm chí Tứ Khố Toàn Thư đều
chẳng tách rời [những điều ấy]; mỗi một
điều đều chẳng tách rời, đều giống
với Thập Thiện Nghiệp Đạo. Mỗi một
bộ kinh, mỗi một câu, mỗi một chữ trong
Đại Tạng Kinh đều chẳng tách lìa Thập
Thiện Nghiệp Đạo, một tức hết thảy,
hết thảy tức một. Cũng vì hiện thời
đúng là lúc tai nạn rất nhiều, cho nên tôi phát tâm tạm
ngừng giảng kinh Hoa Nghiêm từ một năm tới
hai năm để lần này giảng bộ kinh này. Trong
quá khứ, tôi đã giảng kinh Vô Lượng Thọ mười
lần, nhưng lần này, tôi chẳng giảng kinh mà giảng
chú giải, giảng chú giải của ai? Giảng bản
chú giải của lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ. Hoàng
lão cư sĩ với tôi là bạn bè, mà cụ cũng là thầy
của tôi. Cụ có cùng vai vế với thầy tôi. Lão
cư sĩ Lý Bỉnh Nam là học trò của đại
sĩ Mai Quang Hy. Mai đại sĩ và cụ Hạ Liên
Cư là sư huynh, sư đệ, bạn bè hết sức
thân thiết. Cụ Hoàng Niệm Tổ là cháu gọi cụ
Mai Quang Hy bằng cậu, là học trò cụ Hạ Liên Cư.
Do trước kia chưa từng gặp mặt, nhưng
tôi từng nghe cụ Lý nhắc đến tên cụ Hoàng,
có chút ấn tượng như thế đối với cụ
Hoàng Niệm Tổ. Thuở ấy, năm 1986, tôi là hội
trưởng của Hoa Phủ Phật Giáo Hội tại Washington,
Mỹ quốc. Các đồng tu tới bảo tôi: Họ
tính mời một vị thượng sư Mật Tông sang
Mỹ hoằng pháp. Khi đó, tôi nghe xong, không cho là đúng:
“Chúng ta là Tịnh Độ Tông, chớ nên dính dáng môn phái khác!”
Tôi nói: “Chúng ta thâm nhập một môn, trường thời
huân tu”. Tôi hỏi họ: “Vị đại đức Mật
Tông ấy là ai thế?” Họ thưa: “Hoàng Niệm Tổ”.
Trong đầu tôi có ấn tượng về Hoàng Niệm
Tổ, tôi nghĩ mãi mới ra, tôi hỏi: “Có phải ông ta
là cháu cụ Mai Quang Hy hay chăng?” Họ đáp: “Đúng vậy”.
Tôi bảo: “Hãy thỉnh ông ta sang”. Thầy Lý đã nói đến
vị này mấy lần, tôi tưởng cụ là người
lớp trước, đã tịch rồi, [nào ngờ] cụ
vẫn còn trong nhân gian, rất khó có! Những điều cụ
giảng là chân truyền, không có vấn đề gì! Vị
này được đích thân cụ Mai và cụ Hạ uốn
nắn, dạy dỗ, tôi nói: “Vị đại đức
này khó có, quý vị hãy thỉnh cụ đến đây”. Thỉnh
cụ đến như thế đó.
Thỉnh
đến rồi mới biết, cụ hoằng
dương bản hội tập này trong nước, tôi hoằng
dương tại hải ngoại. Cụ nghe nói xong, hai
người chúng tôi hết sức cao hứng. Điều
hết sức khó có là khi ấy, cụ vừa viết xong bản chú giải, in bằng ronéo, chữ
in lờ mờ, chẳng rõ ràng. Chúng ta biết: In thứ gì
bằng ronéo, nhiều nhất là
không hơn một trăm bản. In hơn một trăm bản,
giấy sáp (stencil) sẽ chẳng thể dùng được
nữa. Cho nên cụ mới phải dùng bản in như vậy.
Đương nhiên, bộ sách cụ mang sang Mỹ, nhất
định là chọn bản in tương đối
rõ ràng một chút để tặng cho tôi; tôi đọc xong,
hết sức hoan hỷ. Cụ mong tôi viết lời tựa,
do vậy, lời tựa [bộ chú giải ấy] là do tôi
viết. Trước kia, tôi sang Bắc Kinh, sang vài lần, toàn
là đến gặp cụ, vì gặp cụ mà sang đó. Mỗi
một lần sang đó, chúng tôi đều có một khoảng
thời gian rất dài để thảo luận các vấn
đề Phật pháp. Cụ dạy tôi rất nhiều; do
vậy, chúng tôi là bạn bè thân thiết, mà cụ cũng là
thầy tôi, tôi cũng cảm kích ân đức của cụ.
Bản hội tập này của cụ Hạ đâu phải
là dễ có, phàm phu làm sao có thể làm được! Các lần
hội tập trong quá khứ, [các bản hội tập của]
Vương Long Thư, Ngụy Mặc Thâm, hay tiết bản
(bản trích lục, phân chia thành chương đoạn) của
Bành Tế Thanh đều có vấn đề, vẫn
chưa thể coi là bản tận thiện tận mỹ.
Đọc bản này, nếu quý vị xem lời tựa rất
dài của cư sĩ Mai Quang Hy, [sẽ thấy cụ Mai]
viết hết sức rõ ràng. Do vậy, ở Đài Trung,
sau khi bản này truyền đến Đài Trung, thầy Lý
đã giảng kinh này một lượt. Khi ấy, kinh
chưa có chú giải, chính cụ Lý dùng bút lông viết lời
mi chú[3] kỹ
càng, đầy đủ. Khi cụ giảng bộ kinh này,
tôi còn chưa đến Đài Trung, chưa được
nghe, nhưng cụ đem bản mi chú này trao cho tôi, tôi có thể
đọc hiểu; dùng bản này, tôi cũng có thể giảng,
có năng lực này. Do vậy, khi đó, chúng tôi đã tính
giảng bộ kinh này, trình lên thầy. Thầy bảo
chưa được, chưa đến lúc, chưa đến
thời tiết nhân duyên. Vì thế, các đồng tu ở Đài
Bắc đã in kinh xong, nhưng rốt cuộc đổi sang
giảng kinh Lăng Nghiêm; tôi ở Đài Bắc, trước
sau đã đem kinh Lăng Nghiêm học được từ
lão nhân gia giảng bảy lần.
Do nguyên
nhân gì? Đố kỵ, chướng ngại. Tại Đài
Loan, mọi người có thành kiến đối với cụ
Hạ, đối với thầy Lý cũng có thành kiến,
nên thầy bảo tôi hãy tránh né. Đến khi lão nhân gia vãng
sanh, tôi ở Mỹ, nghĩ thầy đã cho tôi bản này,
rất nhiều người chưa thấy bản này, tôi
liền phát tâm in một vạn cuốn. Năm sau, tức
năm 1987, in xong xuôi, bèn cho lưu thông, tại ngoại quốc,
các đồng học ở Mỹ thấy bản này hết
sức thích thú, liền thỉnh tôi giảng giải. Vì thế,
tôi giảng kinh Vô Lượng Thọ lần đầu
tiên tại Vancouver, Gia Nã Đại. Lần thứ hai, tại
thành phố San Francisco. Trước sau, giảng tất cả
mười lần, kinh mới được giảng giải,
lưu thông như vậy. Lần này tôi mang theo nguyên bản
kinh này, tặng cho ông Hồ Tiểu Lâm làm kỷ niệm. Ông
ta cũng thọ trì kinh Vô Lượng Thọ, số lần
đọc tụng rất nhiều. Từ nay về sau, chúng
ta phải vĩnh viễn lưu truyền kinh Vô Lượng
Thọ. Chúng ta cảm tạ ân đức hội tập của
cụ Hạ, cảm tạ cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
nhọc lòng chú giải bộ kinh này. Vì thế, lần này,
tôi phát tâm giảng bản chú giải của cụ, gọi
là Diễn Nghĩa. Quý vị thấy kinh Hoa Nghiêm có Diễn
Nghĩa, đối với kinh Di Đà, Liên Trì đại
sư có tác phẩm Sớ Sao. Học trò của Liên Trì đại
sư lại chú giải Sớ Sao gọi là Diễn Nghĩa.
Đại khái, đối với diễn nghĩa, các vị
có khái niệm sâu nhất, như là tiểu thuyết Tam Quốc
Diễn Nghĩa. Chúng ta dùng phương pháp này để cùng
nhau học tập, học tập nhằm thâm nhập, thấu
triệt, theo phương pháp giống như ông Hồ Tiểu
Lâm học tập tác phẩm [Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ] Vọng Tận
Hoàn Nguyên Quán, từng câu, từng chữ chúng tôi đều
giảng rõ ràng.
Trong những
năm qua, chúng tôi gặp nhiều người thuộc giới
học thuật, tôi tiếp xúc rất nhiều, đặc
biệt là đối với sinh viên đại học hiện
thời, cảm thấy họ không giống thuở trước.
Xưa kia, khi tôi dạy tại đại học, sinh viên kể
ra cũng khá lắm. Khi lên lớp, chúng tôi đã không theo
cách dạy thời cổ, mà là giảng giải, giảng
hai tiếng đồng hồ, sinh viên thường rất
yên lặng lắng nghe. Trong nhà trường hiện thời,
không thể làm như vậy được! Sức chú ý của
học sinh trong nhà trường hiện thời đại
khái chỉ có mười lăm phút. Sau mười lăm
phút, họ sẽ không để tâm nữa. Do vậy, tôi
thường đem chuyện này hỏi các giáo sư: “Quý vị
dạy trong trường, dạy như thế nào?” Họ
nói: “Giảng bài mười lăm phút”. Sau đó thì sao? Sau
đó là nói chuyện phiếm, dùng phương pháp này cho qua
thời gian. Chúng tôi thấy điều này hết sức
khó chịu, cũng là do học sinh tánh khí hời hợt.
Nói cách khác, đời chúng nó thiếu mục tiêu, thiếu
phương hướng, mù quáng, hiện tượng này rất
đau xót. Bởi vậy, tôi nghĩ tới hai câu nói của Khổng phu tử, hôm nay tôi đặc
biệt nêu ra hai câu này: “Thuật
nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ”. Dùng hai câu nói này làm thái
độ học vấn, rất hay! “Thuật nhi bất tác” là gì? Không sáng tạo, không
phát minh. Phu tử tự nói sở học, sở tu, sở
giáo, sở truyền cả đời Ngài toàn là những thứ
do cổ thánh tiên hiền đã nói, không có gì là của chính
mình! Chúng ta có tin được hay chăng? Tôi học Phật
nhiều năm như thế mới tin tưởng,
đặc biệt là đối với những điều
được nói trong kinh Hoa Nghiêm và bộ Hoàn Nguyên Quán, vì
sao? Cổ thánh tiên hiền đều kiến tánh, thật
sự minh tâm kiến tánh. Tôi từng hỏi thầy Lý, tôi
nói: “Thưa thầy! Khổng Tử, Mạnh Tử, Lão Trang
có phải là Phật, Bồ Tát tái lai hay chăng?” Thầy mỉm
cười, bảo tôi: “Nói theo
Lý thì được, nhưng trên mặt Sự thiếu chứng
cứ”. Phẩm Phổ Môn nói “nên
dùng thân gì để đắc độ bèn hiện thân ấy”,
nhưng họ chẳng bộc lộ thân phận. Vì thế,
chúng ta có thể nói theo Lý thì thông suốt, họ đều
là bậc đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh.
Kiến tánh
sẽ viên mãn, quý vị chẳng thể thêm hay bớt chút
nào, luôn là viên mãn. Người ấy chứng viên mãn, mà quý vị
minh tâm kiến tánh cũng chứng viên mãn. Do vậy, hai chữ
Như Lai có một cách giải thích: “Như Lai giả, kim Phật như cổ Phật
chi tái lai” (Như Lai là Phật hiện tại giống
như cổ Phật trở lại), giống như nhau,
cho nên nói: “Những điều
ta nói đều giống như cổ nhân đã nói”.
Đúng vậy, chẳng sai tí nào! Tự - Tha bất nhị.
Vì vậy, đùn trách nhiệm cho lời cổ nhân nói, chính
mình chẳng có sáng tạo, phát minh, đó là khiêm hư. Bất
luận là pháp thế gian hay pháp xuất thế gian, khiêm
hư là bậc nhất. Quý vị thấy trong sáu
mươi bốn quẻ [của kinh Dịch] có câu: “Mãn chiêu tổn, khiêm thọ ích”
(Tự mãn sẽ chuốc lấy tổn hại, khiêm tốn
được lợi ích). Trong sáu mươi bốn quẻ,
chỉ có quẻ Khiêm là “lục
hào giai cát” (sáu hào[4] đều tốt lành). Tâm con người
hiện thời hời hợt, bộp chộp, chẳng
khiêm hư; do vậy, chẳng những không thể tiếp
nhận thánh giáo, mà học thuật thế gian cũng chẳng
thể thành tựu. Hiện tại, tìm chẳng ra những
nhà văn học giống như thời Đường, Tống,
Nguyên, Minh. Vì thế, “thuật nhi
bất tác” rất quan trọng! “Tín nhi hiếu cổ”: Đối với những
trước tác của cổ nhân, thành tâm tin tưởng, một
chút hoài nghi cũng chẳng có. Ưa chuộng cổ nhân,
vui thích những giáo huấn của cổ nhân, những thứ
ấy đã trải qua bao nhiêu thử thách, chịu đựng
nổi khảo nghiệm, bị thời gian lẫn con
người khảo nghiệm mà vẫn có thể lưu
truyền tới nay, chứng tỏ chúng có giá trị, chúng
ta phải tôn trọng, nghiêm túc, nỗ lực học tập.
Quý vị thấy Phật pháp nói theo Lý rất đơn giản,
chúng sanh và Phật chẳng khác, khác nhau ở chỗ nào? Mê hay
ngộ. Phật, Bồ Tát đã giác ngộ, chúng sanh chưa
giác ngộ, mê rồi! Do vậy, Phật, Bồ Tát giúp
đỡ chúng sanh, giúp gì? Giúp họ phá mê khai ngộ, giúp họ
“vọng tận, hoàn nguyên”
(hết vọng, trở về nguồn), đấy là giáo
dục. Giúp họ hoàn nguyên, giúp họ chứng đắc Bồ
Tát, chứng đắc Phật, có công đức hay không? Chẳng
có công đức. Vì sao? Họ vốn là Phật, vốn là Bồ
Tát. Giác ấy là Bổn Giác, Bổn Giác vốn có.
Quý vị
mới biết những bậc đại thánh đại
hiền giúp người, tâm địa thanh tịnh lắm,
thật sự chẳng nhiễm mảy trần, chẳng
có vọng niệm nào. Nếu tôi giúp quý vị như thế
là có ân đối với quý vị. Đấy là vọng niệm,
không có [vọng niệm ấy]! Chẳng có mảy may nào!
Cho nên các Ngài thanh tịnh, tự tại, chúng ta nhất
định phải hiểu điều này! Hiện thời,
con người hiểu lầm Phật giáo rất sâu, khi chúng
ta giảng giải, phải đặc biệt giảng rõ
ràng. Người Ấn Độ nói Phật, người
Hán nói “thánh nhân”. Phật nghĩa là gì? Nghĩa là giác ngộ.
Thánh (聖) là gì? Thánh có nghĩa là hiểu rõ! Hiểu
rõ chẳng phải là giác ngộ ư? Giác ngộ chẳng
phải là hiểu rõ ư? Bởi lẽ, Tự - Tha là một,
chẳng hai. Chúng ta xưng tụng Khổng Tử là Chí Thánh
Tiên Sư, chúng ta cũng có thể xưng tụng Phật
giống như vậy: “Chí Thánh
Bổn Sư”. Dùng cách xưng hô như vậy, mọi
người sẽ chẳng cảm thấy mê hoặc, sẽ
không nói Phật giáo là tôn giáo. Chí Thánh Bổn Sư, về căn
bản là một bậc thầy. Các Ngài đều dạy chúng
ta “thuật nhi bất tác, tín
nhi hiếu cổ”. Hai câu nói này của Khổng Tử được
chép trong sách Luận Ngữ, còn hai câu này của Phật được
ghi ở nơi đâu? Trong kinh Hoa Nghiêm, [tức là trong lời
giảng về] tựa đề của bộ Tứ Thập
Hoa Nghiêm, Thanh Lương đại sư bảo đức
Phật còn nói viên mãn hơn Khổng Tử. Ngài nói đức
Thế Tôn từng bảo hết thảy các kinh do lão nhân
gia đã nói trong bốn mươi chín năm đều do
cổ Phật đã nói; đối với các kinh do cổ
Phật đã nói, đức Phật chẳng nói thêm một
chữ nào, “thuật nhi bất
tác”, Ngài nói đến mức độ ấy, đúng
hay không? Đúng! Vì sao? Phật hiện tại và cổ Phật
chẳng khác, sở chứng của Phật hiện tại
là sở chứng của cổ Phật, sở thuật của
Phật hiện tại là sở thuật của cổ Phật,
chẳng khác nhau!
Như vậy
thì chúng ta thực hiện hai câu này ra sao? Thực hiện
trong lần này. Đây là lần thứ mười một
tôi giảng bộ kinh này, dùng Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa, hoàn toàn dựa theo bản chú giải của thầy
Hoàng Niệm Tổ. Chúng ta báo ân, báo ân cụ Hạ đã vì
chúng ta hội tập một bộ sách viên mãn như vậy,
hy hữu khó gặp gỡ! Tôi tin cụ Hạ chẳng phải
là người thường, mà là bậc tái lai. Tôi từng hỏi
cụ Hoàng. Cụ Hoàng khẽ gật đầu, bảo: “Chớ
nên nói điều này với người ngoài”. Chúng tôi biết,
trong tâm hiểu rõ: Lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ
cũng không phải là người tầm thường, trong
hoàn cảnh khó khăn như thế mà viết ra một bộ
chú giải như vậy, quá khó có! Sưu tập lắm tài
liệu như thế. Tôi đã đến nhà cụ vài lần,
thấy các tài liệu chất đống trong thư phòng.
Quả thật là Tam Bảo gia trì, gần như cụ
nghĩ đến thứ gì, đều có người tặng
cho. Người tầm thường có thể được
như vậy hay chăng? Bộ kinh hay như thế, bản
chú giải tuyệt như thế, nếu chúng ta chẳng sốt
sắng học tập, sao chẳng phụ lòng cụ Hạ?
Sao chẳng khiến cụ Hoàng thất vọng? Sao khỏi
phụ lòng Thích Ca Mâu Ni Phật đã nhiều lần tuyên
giảng bộ kinh này? Báo ân Phật, báo ân thầy, báo ân quốc
gia, báo ân chúng sanh, chúng ta dùng phương pháp diễn
nghĩa này cũng là nghiêm túc, cẩn thận học tập.
Đó là nhân duyên giảng kinh lần này. Trong thời đại
này, phương thức báo ân cụ thể là phải dùng
phương pháp này, chúng tôi làm trước tiên. Hôm nay đã
hết thời gian, chúng ta học tập tới đây.
Ngày mai, chúng ta sẽ bắt đầu học từ phần
Tiền Ngôn (lời mở đầu). À! Cám ơn mọi người.
TẬP II
Thưa
chư vị pháp sư, chư vị đồng học,
xin ngồi xuống. Xin hãy xem Phật Thuyết Đại
Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình
Đẳng Giác Kinh Giải.
Ba chữ
Hội Tập Bản chẳng cần đến, từ Thanh
Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh Giải bèn có thể hiểu
rõ. Chúng ta dùng bản này do lão cư sĩ Hạ Liên Cư ở
huyện Vận Thành, tỉnh Sơn Đông hội tập,
người chú giải là lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ.
Cụ Hoàng cũng là một vị Kim Cang Thượng
Sư bên Mật Tông. Chú giải có tất cả bốn quyển,
nay chúng ta in thành một tập. Bản quý vị vừa
xem, tức là bản tôi đang cầm đây được
chỉnh lý vào năm ngoái. Bản này được lưu
thông rất nhiều, trong ngoài nước, hồi mười
năm trước, chúng tôi in lần đầu một vạn
bản. Sau này, gần như hàng năm đều có số
lượng bản in tương đương được
lưu thông. Xin xem quyển thứ nhất. Chúng ta học tập
lần này, hoàn toàn học tập bản chú giải của
cụ Hoàng. Chúng ta báo đáp vị lão nhân này lúc tuổi già
đã một phen khổ tâm, kế thừa hoằng nguyện
của thầy, mong muốn Tịnh Tông được
vĩnh viễn truyền thừa. Trong ngày hôm qua, chúng tôi
đã báo cáo nhân duyên này với quý vị.
Hôm nay
chúng ta xem quyển thứ nhất. “Tùng tiền ngôn, khái yếu, chí chánh thích kinh văn
đệ nhất phẩm chí đệ tam phẩm” (Từ
lời nói đầu, phần khái yếu cho tới phần
giải thích chánh kinh từ phẩm thứ nhất tới
phẩm thứ ba), cho biết nội dung quyển thứ nhất
là giảng đến phẩm thứ ba [của chánh kinh]. Cả
bộ kinh có bốn mươi tám phẩm. Trước hết,
chúng ta xem phần thứ nhất là Tiền Ngôn (lời nói
đầu). “Phù Tịnh Độ
pháp môn giả, nãi Nhất Thừa liễu nghĩa, vạn
thiện đồng quy, tam căn phổ bị, phàm thánh tề
thâu, hoành siêu tam giới, kính đăng tứ độ, cực
viên cực đốn, bất khả tư nghị chi vi diệu
pháp môn dã” (Pháp môn Tịnh Độ là Nhất Thừa liễu
nghĩa, muôn điều thiện cùng quy vào, độ khắp
ba căn, phàm lẫn thánh đều được tiếp
độ, vượt khỏi tam giới theo chiều
ngang, mau chóng vượt lên bốn cõi, cực viên, cực
đốn, là pháp môn vi diệu chẳng thể nghĩ bàn).
Đoạn mở đầu này là một tiểu đoạn
nhằm tán thán Tịnh Độ, tán thán Tịnh Độ
đến tột bậc. Có đúng là như vậy hay
chăng? Phật Thích Ca giảng kinh thuyết pháp bốn
mươi chín năm, trong bốn mươi chín năm nói
rất nhiều kinh, bộ kinh nào trọng yếu nhất,
kinh nào là kinh bậc nhất? Chúng ta nghĩ như vậy,
chẳng biết cổ nhân đã sớm có cách nói như vậy.
Trong thời đại Tùy - Đường, các vị
đại đức phương Đông lẫn
phương Tây, phương Đông là những cao tăng,
tổ sư đại đức Trung Quốc,
phương Tây là các vị đại sư từ Ấn
Độ sang phương Đông truyền đạo, dịch
kinh. Trong đó, còn bao gồm các đại đức Nhật
Bản hay Hàn Quốc tới học ở Trung Quốc. Sau đó,
họ trở về nước, đều thành bậc
tông sư trong nước mình, như mười ba tông phái
của Nhật Bản[5] đều
từ Trung Quốc truyền sang. Đi về phương
Nam còn bao gồm Việt Nam; do vậy, Phật giáo Việt
Nam cũng từ Trung Quốc truyền sang. Thuở ấy,
có tổ sư đại đức nêu ra câu hỏi như
thế này: Trong các bộ kinh do đức Thế Tôn đã
nói trong bốn mươi chín năm, bộ kinh nào có thể
đại diện cho kinh giáo cả một đời
đức Thế Tôn? Các vị đại đức gần
như đều công nhận Đại Phương Quảng
Phật Hoa Nghiêm Kinh, mọi người công nhận. Bất
luận tông, phái nào cũng đều thừa nhận. Do vậy,
kinh Hoa Nghiêm biến thành căn bản pháp luân trong Phật pháp,
giống như một cây to, đây là cội, đây là rễ,
tất cả các chi phái đều từ căn bản này
mà phát triển ra. Lại truy cứu đến chỗ cuối
cùng của kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm là căn bản, chỗ
quy túc cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm là mười đại
nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn
về Cực Lạc. Đây là khí tượng[6] như
thế nào?
Bổn Sư
của thế giới Hoa Tạng là Tỳ Lô Giá Na Như Lai.
Văn Thù, Phổ Hiền giúp Tỳ Lô Giá Na Phật giáo hóa chúng
sanh, họ là hai đại đệ tử thủ lãnh
trong hàng đệ tử. Văn Thù chủ trì Giải Môn, tượng
trưng cho trí huệ; Phổ Hiền chủ trì Hạnh Môn,
tượng trưng cho tu chứng. Một
đằng là Hạnh Môn, một đằng là Giải Môn.
Đến cuối cùng, Phổ Hiền Bồ Tát, kinh Hoa
Nghiêm lấy Thiện Tài đồng tử làm đại biểu,
dùng mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc. Qua kinh điển, chúng ta thấy hai vị
Bồ Tát này: Văn Thù là thầy của bảy vị Phật,
học trò đều thành Phật, nhiều người
đã thành Phật, lão nhân gia vẫn giữ thân phận Bồ
Tát, vẫn phù tá Tỳ Lô Giá Na Phật
dạy dỗ hàng Pháp Thân đại sĩ, từ bi đến
tột bậc! Đây gọi “đảo
giá Từ hàng” (thả chiếc bè Từ). Ngài đã thành Phật,
bèn lui xuống địa vị Bồ Tát, điều này
có ý nghĩa biểu thị pháp rất sâu.
Phật dạy chúng sanh chẳng dễ, vì sao? Phật tượng
trưng cho bản thể, tượng trưng Pháp Tánh. Pháp
Tánh không có tướng, Pháp Tánh là gì? Pháp Tánh là Thường
Tịch Quang. Chúng ta gọi cõi cao nhất trong bốn cõi Tịnh
Độ là Thường Tịch Quang Tịnh Độ, “thường tịch” chỉ
Pháp Tánh. Thường Tịch Quang chẳng phải là vật
chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần; cả
hai phương diện này đều chẳng bàn luận
được, do không có cách nào, nên gọi nó là Thường
Tịch Quang. “Thường”
là vĩnh hằng bất biến, chữ Thường mang
ý nghĩa này! “Tịch” là
thanh tịnh tịch diệt. Quý vị thấy Lục Tổ
Huệ Năng đại sư đã kiến tánh, câu nói đầu
tiên là: “Nào ngờ tự tánh vốn
tự thanh tịnh”, Tịch mang ý nghĩa này. Diệt là
gì? Diệt là diệt hết thảy phiền não. Kinh Hoa
Nghiêm gọi phiền não là “vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước”. Trong giáo pháp Đại Thừa, vọng
tưởng được gọi là Vô Minh phiền não, hoặc
gọi là Căn Bản Vô Minh, phân biệt được gọi
là Trần Sa phiền não; kinh Đại Thừa gọi chấp
trước là Kiến Tư phiền não. Danh xưng khác
nhau, ý nghĩa hoàn toàn tương đồng. Đối với
những điều kinh Hoa Nghiêm đã nói, chúng ta hiểu dễ
dàng, nhưng rất khó thể hiểu nổi ý nghĩa chân
thật, chúng ta hiểu theo kiểu nuốt trộng quả
táo. Do vậy, Căn Bản Vô Minh, Trần Sa, Kiến
Tư như kinh Đại Thừa đã nói chẳng dễ
hiểu cho lắm, nhưng giảng giải sẽ trở
nên dễ lý giải hơn. Do vậy, chúng ta biết: Những
danh từ thuật ngữ trong kinh giáo là bất định,
đức Phật chẳng có pháp nhất định để
nói. Do vậy, chúng ta “y nghĩa,
chẳng y ngữ”, quý vị phải hiểu ý nghĩa của
chúng, đừng chấp trước nơi ngôn ngữ,
văn tự, danh tướng, đều
chẳng cần chấp trước. Hiểu những ý
nghĩa được tượng trưng bởi chúng là
được rồi!
Do vậy,
chúng ta học Phật, phải biết tư tưởng
trung tâm trong giáo pháp suốt một đời Thích Ca Mâu Ni Phật
là gì? Là Tịnh Độ. Trong hội Hoa Nghiêm, ta thấy Văn
Thù, Phổ Hiền suất lãnh bốn mươi mốt
địa vị Pháp Thân đại sĩ của thế giới
Hoa Tạng, từ Sơ Trụ Bồ Tát đến Thập
Địa Bồ Tát, kể cả Đẳng Giác là bốn
mươi mốt địa vị; Thập Trụ, Thập
Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa bốn
mươi địa vị, thêm địa vị Đẳng
Giác, là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân
đại sĩ, đến nơi đâu? Đến thế
giới Cực Lạc, lễ bái A Di Đà Phật. Quý vị
hãy suy ngẫm cảnh giới này, sẽ thấy Tỳ Lô
Giá Na Phật có lòng độ lượng rất lớn! Nếu
nói theo chúng ta hiện thời, chúng ta theo một vị thầy,
nghiễm nhiên phát hiện một vị thầy tốt
đẹp, bèn dẫn hết các đồng học sang chỗ
vị thầy kia, trong lòng vị thầy này sẽ nghĩ
như thế nào? Chẳng phải là rất khó chịu
ư? Đó là phản thầy, nghịch đạo! Không những
Tỳ Lô Giá Na Phật chẳng phản đối, mà Tỳ
Lô Giá Na Phật còn vui vẻ: “Tốt! Các quý vị sang đó
hay lắm! Sang gặp A Di Đà Phật”. Vì sao? A Di Đà Phật
và Tỳ Lô Giá Na Phật bất nhị, là một, chẳng
hai. Vì sao sang thế giới Cực Lạc? Cực Lạc
thế giới A Di Đà Phật có phương tiện thiện
xảo, giúp quý vị tu hành chứng quả, rút ngắn thời
gian rất nhiều. Trong thế giới Hoa Tạng, chúng ta
nói về bậc Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo, chứng
đắc Phật quả rốt ráo viên mãn phải mất
thời gian bao lâu? Ba đại A-tăng-kỳ kiếp. Ba
đại A-tăng-kỳ kiếp là nói như thế này:
Chẳng phải là tính từ hiện tại, chẳng phải
vậy! Mà bắt đầu tính từ lúc quý vị minh tâm
kiến tánh, chưa minh tâm kiến tánh chẳng tính! Minh tâm kiến
tánh là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo hay Sơ Địa
Bồ Tát trong Biệt Giáo, bắt đầu tính từ ngày
đó, cần thời gian dài ngần ấy. Đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới thì sao? Đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới trong một
ngày bèn viên mãn, đó gọi là gì? Niệm và kiếp viên dung
chẳng thể nghĩ bàn! Vì thế, quý vị nói xem: Thế
giới Cực Lạc rất thù thắng! Cho nên, cổ
đại đức bảo: Khi truy cứu [đâu là] tột
đỉnh của Phật pháp, từ Hoa Nghiêm chúng ta truy tới
Vô Lượng Thọ, kinh Hoa Nghiêm tới cuối cùng trở
về kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ
chuyên giảng thế giới Cực Lạc.
Kinh Vô Lượng Thọ có chín bản,
có thể nói bản này của lão cư sĩ Hạ Liên
Cư là bản hay nhất; trong năm bản dịch, bản
này được coi là bản hoàn chỉnh nhất, đây
là công trình tổng hợp hoàn thiện năm bản dịch
gốc. Từ đời Tống trở đi, đã có người
muốn làm chuyện này, Vương Long Thư hoàn thành đầu
tiên. Trong phần sau, chúng tôi sẽ báo cáo tỉ mỉ. Ông
ta hội tập khá lắm, nhưng vẫn có tỳ vết,
chưa phải là tận thiện, tận mỹ. Về
sau, trong niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh, cư sĩ Ngụy Mặc
Thâm hội tập lần thứ hai, đương nhiên hay
hơn bản của Vương Long Thư.
Vương Long Thư chỉ đọc bốn bản
dịch gốc, còn Ngụy Mặc Thâm xem trọn năm bản
dịch gốc, hội tập cũng khá, nhưng vẫn
chưa tận thiện, tận mỹ, trong ấy có vấn
đề. Mãi cho tới cuối cùng, đầu thời Dân
Quốc, lão cư sĩ Hạ Liên Cư hội tập lần
thứ ba. Rất lạ lùng, ba lần hội tập đều
là tại gia cư sĩ, tại gia Bồ Tát, cho thấy
pháp môn Tịnh Độ có duyên vô cùng thù thắng với kẻ
tại gia, cho nên ba lần hội tập đều do hàng
tại gia. Trong ấy, có nghĩa thú biểu thị pháp sâu
xa, thành tựu thù thắng khôn sánh, trong những phần sau
chúng ta sẽ thấy những điều này.
Mở
đầu, cụ Hoàng giới thiệu
với chúng ta, cụ bảo pháp môn này là Nhất Thừa Liễu
Nghĩa. Kinh Nhất Thừa là gì? Chúng ta thường thấy
Nhị Thừa, Nhị Thừa là Đại Thừa và Tiểu
Thừa, đó gọi là Nhị Thừa. Tam Thừa là Thanh
Văn Thừa, Duyên Giác Thừa, và Bồ Tát Thừa, tức
là tách Tiểu Thừa thành Thanh Văn và Duyên Giác. Thanh
Văn là A La Hán, Duyên Giác là Bích Chi Phật. Tách [Tiểu Thừa]
thành hai, Bích Chi Phật cao hơn A La Hán một chút. Đó là
Tam Thừa. Trong kinh Pháp Hoa, đức Thế tôn đã nói
rõ chư Phật Như Lai ứng hóa trong thế gian này để
giáo hóa chúng sanh. Phẩm Phương Tiện của kinh Pháp
Hoa có nói: “Thập phương Phật
độ trung, duy hữu Nhất Thừa pháp, vô nhị, diệc
vô tam, trừ Phật phương tiện thuyết”
(Trong mười phương cõi Phật, chỉ có pháp Nhất
Thừa, không hai, cũng không ba, trừ Phật nói
phương tiện). Bài kệ này hết sức trọng
yếu, nói cách khác, đức Phật giảng Tam Thừa
hay giảng Nhị Thừa là nói phương tiện; nói chân
thật thì sao? Nói chân thật là pháp Nhất Thừa. Nhất
Thừa là Phật thừa, nói cách khác, pháp môn này nhằm dạy
người ta thành Phật, lại còn thành Phật ngay trong
một đời; đó là pháp Nhất Thừa. Đại
Thừa là thành Bồ Tát, trong một đời này, quý vị
tu đến quả vị tối cao là Bồ Tát; đó là Đại
Thừa. Nếu trong đời này, quý vị tu thành A La Hán
hay tu thành Bích Chi Phật thì là Tiểu Thừa. Giống
như chúng ta đi học, Nhất Thừa là gì? Nhất Thừa
là lớp Tiến Sĩ nghiên cứu sinh. Trong đời này,
quý vị đạt được học vị (degree) tối
cao, Đại Thừa là lớp Thạc Sĩ (Cao Học,
Master), Tiểu Thừa là Học Sĩ (Cử Nhân, Bachelor).
Tốt nghiệp Đại Học là Học Sĩ. [Tam Thừa]
là danh xưng của ba loại học vị trong Phật
môn, cần phải biết điều này! Pháp môn nào có thể
chứng đắc Phật quả rốt ráo trong một
đời sẽ gọi là Nhất Thừa, pháp môn ấy
cũng là pháp môn Nhất Thừa, kinh ấy cũng là kinh Nhất
Thừa.
Trước
hết, chúng tôi giảng chữ Nhất Thừa theo cách giải
thích thông thường trong kinh Phật: Thừa (乘) là ví như cỗ xe, cổ nhân dùng xe
làm tỷ dụ. Đại Thừa là cỗ xe lớn. Thời
cổ, xe lớn là xe ngựa. Xe ngựa to, có thể ngồi
được nhiều người.
Tôi nhớ lúc nhỏ đi học tại Nam Kinh, đi học
bằng xe ngựa, một cỗ xe ngựa chở
được bao nhiêu học trò? Mười bốn đứa,
ngồi xe ngựa đi học. Sau khi Kháng Chiến thắng
lợi, xe ngựa vẫn còn. Sau khi Kháng Chiến thắng lợi,
nhằm năm Dân Quốc 34 hay năm Dân Quốc 35 (1946),
tôi học tại Nam Kinh, thuở ấy xe ngựa rất
nhiều, xe bus không nhiều lắm. Tiểu Thừa
là xe dê hay xe nai. Xe dê hay xe nai khá nhỏ, chỉ ngồi
được một, hai người. Trong kinh Pháp Hoa,
đức Phật dùng điều này làm tỷ dụ. “Thừa” có nghĩa là chuyên chở.
“Phật thuyết Nhất Thừa
chi pháp, vị linh chúng sanh, y thử tu hành, xuất ly sanh tử
khổ hải, vận chí Niết Bàn bỉ ngạn” (Phật
nói pháp Nhất Thừa để làm cho chúng sanh nương
theo pháp này tu hành, thoát khỏi biển sanh tử, chở
đến bờ Niết Bàn bên kia). Niết Bàn này là Niết
Bàn rốt ráo. Niết Bàn của Tiểu Thừa cũng gọi
là Niết Bàn, nhưng là Thiên Chân Niết Bàn. Tiểu Thừa
thoát sanh tử là thoát khỏi sự sanh tử trong lục
đạo luân hồi, cho nên họ chứng đắc Thiên
Chân Niết Bàn. Đại Thừa lìa hai thứ sanh tử:
Loại thứ nhất là Phần Đoạn sanh tử, nay
[thọ mạng của] chúng ta là từng thời kỳ, từng
giai đoạn một. Loại thứ hai là Biến Dịch
sanh tử. Biến Dịch sanh tử chẳng dễ hiểu.
Ví như chúng ta đi học, chúng ta học lớp Một;
học lớp Một xong, năm sau lên lớp Hai, lớp Một
đã chết, lớp Hai bèn sanh, mang ý nghĩa này. Nói lên
điều gì? Chúng ta đang đi trên đường Bồ
Đề, bất luận là Đại Thừa hay Tiểu
Thừa, Tiểu Thừa có tám địa vị, theo kinh Hoa
Nghiêm, Đại Thừa có bốn mươi mốt địa
vị. Quý vị tiến lên từng bước một, vừa
rời khỏi địa vị dưới, lên địa
vị trên, bèn gọi là Biến Dịch. Biến Dịch chẳng
phải là sanh tử thật sự. Vì sao dùng [danh từ]
sanh tử? Sanh tử khổ lắm! Quý vị leo lên một
lớp cũng rất khổ cực, phải làm bài tập,
chẳng dễ gì lên lớp. Do vậy, quý cũng phải nếm
những nỗi khổ sở, mới có thể tiến cao
hơn. Quý vị thấy một người từ Tiểu
Học, Trung Học, Đại Học, học tới
nghiên cứu sinh, cũng phải học mất hai
mươi mấy năm. Quý vị phải hứng chịu
rất nhiều khổ sở mới có thể giành
được học vị; đó là Biến Dịch sanh
tử. Từ A La Hán trở lên, đã thoát khỏi lục
đạo.Trong lục đạo có cả hai loại [sanh
tử], Biến Dịch cũng có, mà Phần Đoạn
cũng có. Ngoài lục đạo là tứ thánh pháp giới.
Trong tứ thánh pháp giới có Biến Dịch, nhưng không
có Phần Đoạn sanh tử. Trong lục đạo có
nỗi khổ sanh tử, ngoài lục đạo chẳng
có, nhưng có Biến Dịch. Tu hành cũng chẳng phải
là chuyện rất dễ dàng, cũng phải nghiêm túc, nỗ
lực, tinh tấn, lại còn phải buông xuống phân biệt,
buông bỏ tập khí phân biệt, rồi buông vọng
tưởng xuống. Buông vọng tưởng xuống,
mười pháp giới chẳng còn, bèn đạt tới
Nhất Chân pháp giới, đạt đến cõi Thật
Báo Trang Nghiêm của chư Phật Như Lai.
Đức
Thế Tôn đã có mục tiêu thật sự là mong cho hết
thảy chúng sanh mau chóng thành Phật giống như Ngài; nhưng
căn tánh của chúng sanh không giống nhau, mê hoặc có sâu
hay cạn, tập khí khác nhau. Mê sâu, tập khí nặng, sẽ
chẳng thể tiếp nhận pháp Đại Thừa, nên
[đức Phật] bèn dùng pháp phương tiện. Ví
như thầy và cha mẹ chúng ta đều mong chúng ta đạt
được học vị Tiến Sĩ, nhưng học
vị Tiến Sĩ chẳng dễ gì đạt được,
làm cách nào đây? Mở trường học, lập ra Tiểu
Học, Trung Học, Đại Học, nâng [trình độ
của] quý vị lên từ từ. Trung Học, Tiểu Học,
Đại Học đều là phương tiện quyền
xảo, chương trình Tiến Sĩ mới là mục
tiêu thật sự, đức Phật dạy học cũng
giống như vậy. Quý vị thấy đức Thế
Tôn sau khi giác ngộ dưới cội Bồ Đề, đại
triệt, đại ngộ, thuật bày viên mãn cảnh giới
Ngài đã ngộ nhập, nói suốt mười bốn ngày.
Mười bốn ngày ấy là nói trong Định, chúng ta
thấy Phật Thích Ca nhập Định dưới cội
Bồ Đề, đâu biết Ngài giảng kinh nơi đó,
giảng kinh gì? Đại Phương Quảng Phật Hoa
Nghiêm Kinh, là cảnh giới do chính Ngài chứng đắc.
Chúng ta nhìn lại Trung Quốc, vào đời Đường,
Huệ Năng đại sư cũng đã minh tâm kiến
tánh. Trong phương trượng thất của hòa
thượng Ngũ Tổ Nhẫn, Ngũ Tổ giảng kinh
Kim Cang cho Sư. Huệ Năng đại sư không biết
chữ, đương nhiên chẳng có quyển kinh, Tổ
giảng đại ý Kim Cang Kinh, giảng đến chỗ
“Ưng vô sở trụ, nhi sanh
kỳ tâm” (Đừng trụ vào đâu để sanh
tâm), Sư đại triệt đại ngộ. Sư
cũng nói ra cảnh giới của chính mình, thốt ra
năm câu. Năm câu ấy chẳng khác gì kinh Hoa Nghiêm do Thích
Ca Mâu Ni Phật đã nói. Kinh Hoa Nghiêm rút gọn thành năm
câu ấy, mà năm câu ấy triển khai sẽ thành Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh.
Huệ Năng
đại sư nói năm câu, câu đầu tiên là: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự
thanh tịnh”, không nghĩ đến, kiến tánh rồi,
nào ngờ tánh vốn sẵn thanh tịnh, chưa từng bị
ô nhiễm. Tự tánh của chúng ta có ô nhiễm hay không?
Không! Ô nhiễm sẽ chẳng thật, sẽ biến thành
đồ giả. Chúng ta nói ô nhiễm là thứ gì vậy? A
Lại Da ô nhiễm, A Lại Da là vọng tâm; tự tánh là chân
tâm, chân tâm chưa từng bị ô nhiễm. Do vậy, nhiễm
là vọng tâm. Nay chúng ta đang mê, nhưng thật sự chẳng
biết, ngỡ giả là thật, thiệt thòi ở chỗ
này! Câu thứ hai là: “Nào ngờ
tự tánh, vốn chẳng sanh diệt”. Vốn chẳng
sanh diệt là Đại Bát Niết Bàn, đây là khát vọng
tha thiết bất sanh bất diệt của tất cả
các tôn giáo tại Ấn Độ thời cổ. Hiện tại,
mỗi tôn giáo đều nói “sống
đời đời” chính là ý nghĩa này. Có sống
đời đời hay không? Có! Cái Ngã thật sự sẽ
sống mãi, Giả Ngã có sanh tử, cái Ngã ấy là giả,
chẳng thật! Quý vị hiểu rõ chuyện này sẽ rất
thoải mái, thảnh thơi, chẳng còn sợ hãi. Những
thứ ấy là giả, mặc cho nó sanh diệt như thế,
Chân Ngã vĩnh hằng bất diệt. Quý vị tìm lại
cái thật này, đức Phật dạy chúng ta tìm cái thật.
Đây là đại sự.
Ngài nói
câu thứ ba rất hay: “Nào ngờ
tự tánh vốn tự trọn đủ”, trọn
đủ gì vậy? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế tôn
đã nói một câu nhằm căn dặn rõ ràng, Phật dạy:
“Hết thảy chúng sanh đều
có trí huệ và đức tướng của Như Lai”.
Đây là “vốn tự trọn
đủ”. “Như Lai” là
nói về tự tánh. Trong giáo pháp Đại Thừa, quý vị
thấy nói Phật, nói Như Lai. Trong mười đại
nguyện vương: “Lễ
kính chư Phật, xưng tán Như Lai”. Nói Phật là nói
theo Tướng; nói Như Lai là nói theo Tánh, khác nhau ở chỗ
này! Tướng là giả, Tánh là thật. Đây là chỗ
khác nhau giữa hai danh từ này. Nói “hết thảy chúng sanh đều có trí huệ của
Như Lai” chính là nói đến tự tánh. Trong tự
tánh của quý vị có trí huệ, trí huệ viên mãn. Đó là
gì? Sẵn có trong tự tánh, chẳng phải do học được.
Trí huệ viên mãn, không gì chẳng biết, không gì chẳng
thể; đây là lời tán thán Thượng Đế của
các tôn giáo thông thường. Thượng Đế và thần
chưa chắc có [những đặc tánh này], nhưng tự
tánh thật sự có. Vì sao biết? Thượng Đế
và thần cũng là chúng sanh trong lục đạo, thuộc
thiên đạo. Họ vẫn chưa ra khỏi lục
đạo, vẫn chưa thoát tam giới, vẫn là mê chẳng
giác, phước báo lớn hơn chúng ta, trí huệ nhiều
hơn chúng ta một chút, nhưng vẫn chưa đạt
đến viên mãn rốt ráo! Tự tánh sẵn có trí huệ
mới là viên mãn. Đây là gì? Khi nó ẩn, nhà Phật gọi
là “ẩn hiện”, ẩn là
gì? Ví như cái màn huỳnh quang của chúng ta trong hiện
thời, nhấn nút tắt đi, hình ảnh gì cũng chẳng
có! Đó là “Nào ngờ tự
tánh, vốn tự sẵn đủ”. Quý vị chẳng
thể nói chúng không có. Vặn đúng băng tần, chúng
bèn hiện tiền. Vặn đúng băng tần thì sao? “Có thể sanh vạn pháp”,
chúng bèn hiện tiền. Lúc chẳng hiện tiền, chẳng
thể bảo là không; khi hiện tiền, chẳng thể
nói là có. Điều này được sách Vọng Tận Hoàn
Nguyên Quán giảng rất rõ ràng, quý vị chẳng thể
nói nó là có. Đây là chân tướng sự thật, chúng ta nên
hiểu rõ.
Ngài nói
câu thứ tư: “Nào ngờ tự
tánh vốn chẳng lay động”, như như bất
động, đây là một mấu chốt quan trọng nhất
trong tu hành. Quý vị tu gì? Nhà Phật thường nói tám vạn
bốn ngàn pháp môn, tu gì? Thưa quý vị, đều là tu Thiền
Định, đều gọi là tam-muội. Tam-muội (Samādhi) là tiếng Phạn, Tam là Chánh, Muội
là Định, [tam-muội] là Chánh Định. Vốn là
Chánh Định, tâm quý vị vốn định, nay vì sao
tâm loạn như thế? Loạn là vọng tâm, chẳng phải
là chân tâm. Chân tâm vốn định, chưa hề bị
dao động. Đó là năm câu nói của Huệ Năng
đại sư lúc khai ngộ. Sau khi nói ra năm câu này, Ngũ
Tổ bảo: “Được rồi”, truyền y bát cho
Ngài. Truyền cho Ngài rồi như thế nào? Bảo Ngài
hãy đi cho nhanh, tìm nơi lánh nạn. Lánh nạn gì? Phải
biết là xưa nay, trong ngoài, đố kỵ, chướng
ngại ở đâu cũng chẳng tránh khỏi. Quý vị
nói xem: Thần Tú đại sư ở đạo tràng của
Nhẫn hòa thượng (tổ Hoằng Nhẫn) bao nhiêu
năm, là một đồ đệ được mọi
người kính ngưỡng nhất của Tổ; ai nấy
đều cho rằng Ngũ Tổ truyền pháp, chắc
chắn truyền cho Thần Tú, tại sao vô duyên vô cớ
truyền cho người khác? Gã ấy trọn chẳng có
ai biết đến, lại còn không biết chữ? Quý vị
thấy ngài Huệ Năng đến núi Hoàng Mai làm gì suốt
tám tháng? Giã gạo trong phòng chứa củi. Sư ở Hoàng
Mai tám tháng, chưa từng vào Thiền đường, giảng
đường cũng chẳng mò đến, chưa từng
nghe kinh ngày nào, cớ sao Ngũ Tổ đem y bát truyền cho
Ngài, ai phục? Chẳng ai phục, chắc chắn sẽ
tìm Ngài gây sự, đoạt y bát về. Đấy là chuyện
nhỏ, chuyện lớn là có thể còn hại mạng Ngài
nữa kia! Do vậy, Tổ bảo Ngài đi cho nhanh, Ngài lập
tức cầm y bát đi ngay. Trốn trong phường thợ
săn mười lăm năm. Mười lăm năm ấy
khiến mọi người dần dần quên đi chuyện
này, Ngài mới ra mặt. Ra mặt, bèn gặp pháp sư Ấn
Tông, Ấn Tông tuyệt lắm! Ngài Ấn Tông ở Lãnh Nam,
nay chúng ta gọi vùng ấy là Quảng Đông, khi ấy, gọi
là Lãnh Nam, sư Ấn Tông là bậc cao tăng, giảng kinh,
thuyết pháp bậc nhất. Đạo tràng giảng kinh của
Ngài nay ở Quảng Châu, chùa nào ở Quảng Châu? Gió
động, hay phan động, lão hòa thượng Bổn
Hoán làm Trụ Trì [chùa ấy]. Tôi không nhớ nổi chùa nào ở
Quảng Đông. Quang Hiếu Tự[7], đúng rồi, chùa Quang Hiếu là
nơi Sư giảng kinh Niết Bàn.
Lục Tổ
rời khỏi phường thợ săn đến Quảng
Đông, gặp đạo tràng như vậy, ngồi ở
phía sau nghe kinh. Nghe hai vị xuất gia đang biện luận,
một người nói: “Lá phan treo bên ngoài động”. Quý vị
thấy lá phan đang lay động; người kia nói: “Chẳng
phải là phan động, mà là gió động”. Hai vị tranh
luận không ngớt, Ngài nói chen vào một câu, Ngài nói: “Thưa nhân giả”, hết sức
khiêm hư, vô cùng khách sáo, “nhân giả”
(仁者:
đấng nhân từ) là tiếng gọi
bậc Bồ Tát, là cách xưng hô tôn kính nhất, Ngài gọi
họ là “nhân giả”. “Chẳng phải là gió động,
cũng chẳng phải là phan động”, Ngài nói: “Mà là tâm của nhân giả động”.
Khi nghe vậy, hết thảy mọi người bội
phục năm vóc sát đất. Ấn Tông giảng xong,
bước xuống bục giảng, gặp mặt Tổ,
liền hỏi, ngày nay chúng ta thường gọi sự
đối đáp này là Thiền Cơ. Pháp sư Ấn Tông hỏi:
“Nghe nói ngài Hoàng Mai về sau truyền
pháp cho hành giả, có tên là Năng đại sư, chẳng
lẽ là Ngài?” Huệ Năng đại sư bèn thừa
nhận. Sư bèn thỉnh cầu: “Ngài hãy giở y bát ra cho
chúng tôi xem”. Y bát ấy là chứng minh, nhận đúng
người rồi. Đối với kinh giáo, pháp sư Ấn
Tông còn có chút vấn đề bèn thỉnh giáo đại
sư, Ngài đều giải thích cho pháp sư. Sau đấy,
Ấn Tông làm lễ xuống tóc xuất gia cho Tổ. Vì thế,
Ấn Tông là thầy thế độ của Lục Tổ
Huệ Năng đại sư. Nhưng sau khi xuống tóc,
pháp sư Ấn Tông bái Tổ làm thầy, chuyện này chẳng phải là người thường
[làm được]! Vị này là Phật hay Bồ Tát thị
hiện, [nếu không], đâu có lòng độ lượng
lớn như thế? Một vị cao tăng khắp vùng Lãnh
Nam ngay lập tức bái Tổ làm thầy, địa
vị của Huệ Năng đại sư liền cao trỗi.
Ngay lập tức nâng lên cao. Nếu không, Huệ Năng
đại sư muốn đạt tới địa vị
sâu xa như thế, tối thiểu phải mất mười
năm, hai mươi năm, còn nay là được đề
cao ngay. Do vậy, tôi nghĩ ngài Ấn Tông là Bồ Tát thị
hiện, hai vị này thổi kèn hòa tấu cho chúng ta xem, đâu
phải là phàm nhân!
Năm câu nói ấy của
Ngài mở rộng ra sẽ là kinh Hoa Nghiêm, từng câu, từng
chữ trong kinh Hoa Nghiêm chẳng rời khỏi năm câu ấy!
Do vậy, Huệ Năng đại sư chứng đắc
cùng một cảnh giới với Thích Ca Mâu Ni Phật. Một
vị dùng thân Phật, dùng thân phận Phật xuất hiện,
phẩm Phổ Môn có nói: “Nên
dùng thân Phật để độ được, liền
hiện thân Phật để thuyết pháp”. Ngài Huệ
Năng ở Trung Quốc, nên dùng thân tỳ-kheo xuất hiện,
liền hiện thân tỳ-kheo để thuyết pháp, chẳng
khác gì nhau! Chúng ta phải biết điều này! Phật pháp
bình đẳng, đây là pháp Nhất Thừa. Vì thế, Thiền
Tông Trung Quốc là Nhất Thừa, nhưng Đại Thừa
không nhất định [là Nhất Thừa]. Cổ đại
đức bảo kinh Nhất Thừa chỉ có ba bộ là
Hoa Nghiêm, Pháp Hoa và Phạm Võng. Hết sức đáng tiếc
là kinh Phạm Võng chẳng truyền sang Trung Quốc. Đó
là một bộ kinh lớn, phân lượng chẳng khác
kinh Hoa Nghiêm cho lắm. Chỉ có một phẩm được
truyền sang Trung Quốc là Bồ Tát Tâm Địa Giới
Phẩm, tức Bồ Tát Giới, truyền mỗi mình phẩm
này, hai quyển, chẳng thấy những phẩm khác. Kinh
hoàn chỉnh là hai bộ Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Đối với
kinh Pháp Hoa, vì sao có thể khẳng định là kinh Nhất
Thừa? Kinh Nhất Thừa là thành Phật trong một
đời. Trong phẩm Đề Bà của kinh Pháp Hoa có
nói long nữ tám tuổi thành Phật; rồng là súc sanh. Long
nữ tám tuổi, nghe Văn Thù Bồ Tát giảng kinh trong
cung rồng, cô ta nghe hiểu, giác ngộ, minh bạch.
Chư vị phải biết: Nghe pháp khai giải, đoạn
nghi sanh tín, lập tức thành tựu Hạnh môn. Hạnh môn
là gì? Buông xuống! Quý vị thấy trong kinh Đại Thừa,
đức Phật thường nói: Chỉ cần quý vị
có thể buông ba thứ phiền não là vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước xuống, quý vị liền
thành Phật. Do vậy, chúng tôi tin rằng: Sau khi long nữ
nghe hiểu, bèn buông xuống. Sau khi buông xuống, đến
núi Linh Thứu gặp Thích Ca Mâu Ni Phật; sau khi lễ Phật
liền hiện thân Phật, thành Đẳng Chánh Giác trong
thế giới Vô Cấu ở phương Nam. Đấy
là kinh Pháp Hoa.
Chúng ta thấy
cuối kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài viên chứng vô thượng
Bồ Đề trong một đời, Ngài đắc
Căn Bản Trí trong hội Văn Thù. Căn Bản Trí là
gì? Nếu nói theo cách hiện thời cho dễ hiểu, sẽ
là tâm thanh tịnh. Tâm quý vị thanh tịnh sẽ ra sao? Chẳng
phải là giống như Huệ Năng đại sư sao?
“Nào ngờ tự tánh vốn tự
thanh tịnh”, đó là Căn Bản Trí. Ngài buông vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước xuống,
đó gọi là gì? Đốn đoạn, tức là đoạn
ngay lập tức, Ngài bèn chứng đắc. Nay chúng ta hiểu
điều này, nhưng không bỏ xuống được,
vấn đề ở chỗ này. Người ta thật sự
buông xuống, không chỉ buông chấp trước xuống,
buông phân biệt xuống, mà ngay cả khởi tâm động
niệm cũng buông xuống. Buông xuống vọng tưởng
là chẳng khởi tâm, chẳng động niệm, đấy
là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh, kiến tánh thành Phật. Do vậy, bèn gọi là kinh Nhất
Thừa. Buông xuống vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước, mười pháp giới chẳng còn; bởi lẽ,
mười pháp giới là mộng cảnh, lục đạo
là “mộng trong mộng”. Chúng ta buông xuống hết thảy
chấp trước; nếu chẳng chấp trước
hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, quý vị bèn tỉnh thức, lục đạo
chẳng còn, giống như tỉnh mộng. Tỉnh mộng
rồi, sau khi tỉnh mộng, cảnh giới ấy sẽ
là tứ thánh pháp giới, vẫn là một giấc mộng,
nhưng trong giấc mộng ấy, phiền não [của
tứ thánh pháp giới] nhẹ hơn chúng ta, chỉ là vọng
tưởng, phân biệt. Buông xuống vọng tưởng,
phân biệt, mộng cảnh cũng chẳng còn, tứ
thánh pháp giới cũng chẳng có. Vì thế, nói: “Hễ có hình tướng, đều
là hư vọng”, chẳng giả tí nào! Mười pháp
giới không có, cảnh giới gì xuất hiện? Thế
giới Hoa Tạng xuất hiện, thế giới Cực
Lạc xuất hiện, đó là cõi Thật Báo Trang Nghiêm của
chư Phật. Những cõi ấy có thật hay không? So với
chúng ta mà nói thì là thật, thế giới này của chúng ta thiên
biến vạn hóa. Vì thế, lúc ấy, tôi nghĩ không ra vấn
đề này, biến như thế nào? Cớ sao biến
đến mức chẳng có cùng tận? Tôi nghĩ tới
lúc nhỏ chơi kính vạn hoa (kaleidoscope), bọn họ tìm
rất nhiều kính vạn hoa cho tôi, mấy tấm giấy
màu, đặt giữa ba miếng gương, quý vị xoay
ống kính, vừa xoay thì các kết cấu hình thể (pattern)
trong ấy chưa bao giờ trùng lặp. Do vậy, chúng ta
học bộ Hoàn Nguyên Quán, thấy có câu: “Sanh ra vô tận”, dùng vật này (ống kính vạn
hoa) có thể tượng trưng [nguyên lý ấy], đúng
là sanh ra vô tận, chẳng giả! Điều gì thiên biến
vạn hóa trong vũ trụ? Niệm làm chủ tể, ý niệm
làm chủ tể, thuận theo ý niệm của quý vị mà
dấy lên biến hóa, chuyện là như vậy đó. Do vậy,
phải hiểu rõ chân tướng sự thật này!
Trong kinh này,
đức Phật dạy chúng ta điều gì? Dạy
chúng ta hiểu rõ chân tướng của vũ trụ và
nhân sinh. Mệnh đề này chính là điều các nhà khoa học
truy cầu, triết học cũng truy cầu điều
này, các nhà tôn giáo cũng truy cầu điều này, nhưng
đều chưa thể nói rõ ràng. Vì sao họ chẳng nói
rõ ràng? Nay chúng ta hiểu rõ, bọn họ vĩnh viễn chẳng
thể nói rõ ràng, vì sao? Họ chưa đoạn vọng
tưởng, phân biệt, chấp trước, chưa buông
xuống được, hễ buông xuống sẽ thấu
hiểu! Có những thứ [vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước] này, quý vị nghiên cứu thế nào
đi nữa, đều cách một tầng chướng
ngại, không có cách nào giải thích rõ ràng! Chỉ có buông xuống,
trở về tự tánh. Vì sao? Những thứ này chẳng
thật, hư huyễn. Nếu quý vị không tin, quý vị
có kinh nghiệm nằm mộng hay không? Có! Chúng ta đều
có kinh nghiệm nằm mộng, mộng là thật hay giả?
Thế gian này giống như nằm mộng; vì thế,
trong kinh, đức Phật rất hay dùng mộng làm tỷ
dụ. “Mộng, huyễn, bọt
nước, bóng dáng”, cái chủ yếu trong tỷ dụ
này là mộng cảnh. “Huyễn,
bọt nước, bóng dáng” đều là những thứ
phụ thuộc, chủ yếu là tỷ dụ này. Do vậy,
trong kinh Kim Cang, đức Phật có một bài kệ vô
cùng nổi tiếng nhằm dạy bảo chúng ta: “Nhất thiết hữu vi pháp,
như mộng, huyễn, bào, ảnh, như lộ, diệc
như điển, ưng tác như thị quán” (Hết
thảy pháp hữu vi, như mộng, huyễn, bọt,
bóng, như sương, cũng như chớp, hãy nên quán như
thế). Đây là cái nhìn của đức Phật đối
với chân tướng của vũ trụ và nhân sinh. “Như lộ, diệc như
điển”, “điển”
(電) là tia chớp, “lộ” (露) là sương buổi
sớm, đây là hai tỷ dụ. “Như điển” là nói về một niệm, giống
như tia chớp, [“như lộ”]
là giọt sương mai, nó tồn tại một lúc, mặt
trời mọc lên bèn bốc hơi, chẳng còn nữa! “Bốc
hơi” là nói về tướng tương tục (nối
tiếp liên tục); giống như trong điện ảnh,
chúng ta thấy những hình ảnh trên màn bạc; hình ảnh
là tướng tương tục do các tấm phim
được rọi sáng kết hợp thành, chẳng thật!
Từ khoa học cận đại, chúng ta có thể hiểu
rất rõ ràng, đâu có gì là thật? Tìm chẳng được
thứ nào là thật! Nếu thật sự tìm được
cái nào là thật, có thể nói là “vĩnh hằng không thay
đổi”, tối thiểu phải là cõi Thật Báo.
Những
vật trong thế giới Cực Lạc là vĩnh hằng,
không có biến hóa, nhưng chúng cũng chưa phải chân
thật rốt ráo. Vì sao? Kinh bảo cõi Thật Báo xuất
hiện như thế nào? Đoạn hết vô minh, tuy
đoạn sạch vô minh, nhưng tập khí vô minh hãy còn,
chưa đoạn hết tập khí. Do vậy, cõi Thật
Báo Trang Nghiêm do tập khí vô minh hiện, chẳng phải là
vô minh. Thật sự đoạn hết vô minh nên chẳng
khởi tâm, chẳng động niệm. Chẳng khởi
tâm, không động niệm, nhưng tập khí quá vi tế,
không riêng gì chúng ta chẳng biết, A La Hán không biết, Bích
Chi Phật cũng chẳng biết. Trong kinh, đức Phật
dạy: Từ Thất Địa Bồ Tát trở xuống
đều không biết, từ Bát Địa trở lên mới
nhận biết, mới biết có thứ này tồn tại.
Vì thế, ba đại A-tăng-kỳ kiếp chẳng phải
là nói về công phu tu hành thông thường, mà là nói về đoạn
tập khí vô minh. Không có phương pháp đoạn tập
khí vô minh, chỉ để cho nó mất dần, một thời
gian lâu sau sẽ tự nhiên chẳng còn. Để giảng
về thứ vô minh tập khí này, cổ nhân dùng tỷ dụ
để nói; nếu không giảng rõ ràng, chúng ta cũng chẳng
thể lãnh hội. Họ dùng bình rượu, bình rượu
đựng rượu, đổ hết sạch rượu
trong bình, lau sạch bên trong, quả thật chẳng có giọt
rượu nào, nhưng vẫn ngửi thấy mùi rượu.
Cái mùi ấy gọi là tập khí. Có cách nào để khử
mùi? Không có phương pháp nào! Chỉ có cách mở toang nắp
bình bỏ đó, để một năm hay nửa năm,
sẽ chẳng còn ngửi thấy mùi nữa! Tập khí vô
minh của chúng ta phải bao lâu mới hết? Ba
A-tăng-kỳ kiếp. Quý vị đừng quan tâm đến
nó, điều này gọi là “vô công dụng đạo”, quyết
định chớ nên có ý niệm đoạn trừ nó. Hễ
có ý niệm, vô minh sẽ tăng trưởng, khởi hiện
hành. Không để ý tới nó là xong, chẳng còn chuyện ấy
nữa!
Do vậy,
trong cõi Thật Báo, quý vị chẳng khác gì Phật quả
rốt ráo, chúng sanh hữu duyên trong mười
phương thế giới hễ có cảm, quý vị bèn có
ứng, cảm ứng đạo giao chẳng thể
nghĩ bàn! Như vậy thì sau khi thành Phật, có phải
là chẳng có Sự hay không? Không phải, Sự rất nhiều.
Sự dẫu nhiều, quý vị chẳng cảm thấy mệt
nhọc, có năng lực ứng phó. Vì sao? Trí huệ, thần
thông, đạo lực toàn bộ hiện tiền. Quý vị
có thể hiện vô lượng vô biên thân, tự tại lắm!
Trăm ngàn ức hóa thân, nơi nào có cảm, nơi đó
bèn có ứng, “nên dùng thân nào
để đắc độ” đều chẳng phải
là ý nghĩ của chính mình, chính mình chẳng có ý nghĩ gì.
Hễ chính mình có ý nghĩ, sẽ biến thành phàm phu. Chính mình
chẳng có ý nghĩ gì, tự tánh khởi tác dụng. Do vậy,
trong tánh đức, hiện thời chúng tôi đã đọc
kinh Đại Thừa nhiều năm như thế, bèn hiểu
rõ, đúng như Huệ Năng đại sư đã nói: “Nào ngờ tự tánh, vốn tự
trọn đủ”. Cái trọn đủ thứ nhất
trong tự tánh là trí huệ, trí huệ là gì? Kiến văn giác
tri (thấy, nghe, hay, biết) là tự tánh, là Tánh Đức,
trọn hết thảy các chỗ. Sau khi mê, tự tánh biến
thành A Lại Da. A Lại Da là trạng thái đang mê, kiến
văn giác tri biến thành gì? Biến thành Thọ, Tưởng,
Hành, Thức, chúng ta có cảm nhận, có tư tưởng.
Nói theo bát thức, cũng rất dễ nói: Kiến là nhãn
căn khởi tác dụng, Văn là nhĩ căn khởi tác
dụng; ngoài ra, mũi có thể ngửi, lưỡi có thể
nếm, thân có thể cảm giác, ý có thể biết bèn khởi
tác dụng. Tác dụng ấy do đâu mà có? Là Tánh Đức
trong tự tánh, kiến văn giác trí là vốn có.
Thân thể
có sanh diệt. Thọ, Tưởng, Hành, Thức chẳng
có sanh diệt. Vì thế, người đã chết, đã
tắt thở, thần thức chưa có rời khỏi
[xác thân], thần thức có Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
lũ chúng ta gọi thần thức là “linh hồn”. Linh hồn
có Thọ, Tưởng, Hành, Thức, chuyện này phiền
phức lắm! Nếu quý vị còn có oán hận, còn có
đố kỵ, còn có chuyện gì phải trả thù, từ
đấy, đời đời kiếp kiếp oan oan
tương báo chẳng xong! Chúng ta đọc bài Âm Chất
Văn của Văn Xương Đế Quân, trong phần
đầu, Văn Xương Đế Quân tự nói Ngài
mười bảy đời làm sĩ đại
phu[8].
Quý vị thấy Ngài mười bảy đời nhân
quả báo ứng, thê thảm lắm. Sau này, gặp được
Phật pháp mới giác ngộ, mới hóa giải. Đau khổ
ngần ấy! Báo thù, đôi bên đều đau khổ, cớ
gì phải vậy? Do vậy, dù trong nhãn quan của Phật,
những hiện tượng này đều là hư huyễn,
hệt như mộng cảnh, [nhưng phàm phu] ở trong mộng
cảnh thật sự chịu khổ, thật sự có khổ,
sướng, lo, mừng, xả. Sau khi tỉnh mới biết
là trống không. Nay chúng ta đang nằm mộng, chưa tỉnh,
khi nào có thể bỏ được chấp trước
đối với hết thảy các pháp thế gian và xuất
thế gian, chẳng còn chấp trước nữa, tâm quý
vị sẽ khôi phục sự thanh tịnh, tuy thanh tịnh
nhưng còn chưa bình đẳng. Khôi phục thanh tịnh,
lục đạo chẳng còn nữa! Lục đạo là
nhiễm ô, trong tứ thánh pháp giới không có nhiễm ô,
nhưng nó bất bình đẳng, vì có phân biệt. Không có chấp
trước, nhưng có phân biệt, nên là bất bình đẳng.
Nếu quý vị buông phân biệt, vọng tưởng xuống,
bình đẳng giác sẽ hiện tiền. Buông phân biệt
xuống sẽ bình đẳng, chẳng phân biệt sẽ
bình đẳng, buông khởi tâm động niệm xuống
bèn giác. Tựa đề kinh Vô Lượng Thọ đã dạy
chúng ta ba giai đoạn trong Hạnh môn: Thanh tịnh, bình
đẳng, giác. Tu điều gì? Tu những điều này,
ba món này đều có sẵn trong tự tánh. Nay chúng ta mê mất
tự tánh, nên mới sanh ra chướng ngại, đó là
nghiệp chướng, chẳng biết chân tướng sự
thật. Biết chân tướng sự thật, trọn khắp
pháp giới hư không giới và chính mình là một Thể,
không phải là “một nhà”, mà là một Thể, chẳng
hai, “sanh Phật bất nhị”.
“Sanh” là chúng sanh, “Phật” là chư Phật, sanh
- Phật bất nhị! Phật rất khiêm hư, đặt
chúng sanh ở phía trước, nói chúng sanh trước rồi
mới nói đến Phật, sanh Phật bất nhị!
Những điều này đều là Tánh Đức lưu
lộ.
Trong kinh Hoa
Nghiêm, quý vị thấy Thiện Tài viên mãn Bồ Đề
trong một đời, Ngài đắc Căn Bản Trí
nơi Văn Thù Bồ Tát, chúng ta phải hiểu: Ngài đắc
thanh tịnh tâm, đắc bình đẳng tánh, đã giác rồi.
Cũng có nghĩa là “thanh tịnh,
bình đẳng, giác” như trong tựa đề kinh Vô
Lượng Thọ Ngài đều đạt được,
cũng có nghĩa là Ngài đã hoàn toàn buông vọng tưởng,
phân biệt, chấp trước xuống, đạt
được “thanh tịnh,
bình đẳng, giác”. Sau khi đạt được,
bèn vận dụng trong cuộc sống hằng ngày, vận
dụng vào công việc, vì sao? Nhục thân vẫn ở trong
thế gian này, vẫn chưa vứt bỏ thân thể này.
Nói cách khác, quý vị vẫn phải sống, vẫn phải
mặc áo, ăn cơm, vẫn phải làm việc. Do vậy,
Ngài có thể vận dụng thanh tịnh, bình đẳng,
giác trong cuộc sống, vận dụng vào công việc, vận
dụng xử sự, đãi người, tiếp vật, là
gì vậy? Chính là năm mươi ba lần tham học.
Chúng ta từ sáng đến tối, coi những người
quý vị tiếp xúc trong xã hội là năm mươi ba lần
tham học. Ngài chia xã hội muôn hình muôn vẻ thành năm
mươi ba loại. Quý vị vừa tiếp xúc, trí huệ
bèn khởi tác dụng, đó gọi là Hậu Đắc Trí.
Hậu Đắc Trí là gì? Hậu Đắc Trí là Căn Bản
Trí khởi tác dụng. Khởi tác dụng linh hoạt tột
bực, chẳng khô cứng mà sống động, hoạt
bát, mọi mặt viên dung, người Hoa nói là “bát diện linh lung” (tám mặt
lóng lánh), đắc đại tự tại. Kinh Hoa Nghiêm
nói “Lý Sự vô ngại, Sự
Sự vô ngại”, cảnh giới này hiện tiền. Tới
cuối cùng, quy vào đâu? Cuối cùng quy vào thế giới
Cực Lạc. Quý vị thấy khi Thiện Tài tham học,
vị [thiện tri thức] thứ nhất, “tiên nhập vi chủ” (điều
gì tiếp xúc trước sẽ thành chủ yếu), là tỳ-kheo
Đức Vân. Tỳ-kheo Đức Vân tu gì? Tu Ban Châu tam-muội,
chuyên niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ.
Điều này đúng là đã nói rõ Thiện Tài đồng
tử tu pháp môn nào? Tu pháp môn Niệm Phật. Vị thầy
đầu tiên mà! Vị thứ năm mươi ba là Phổ
Hiền Bồ Tát, mười đại nguyện
vương dẫn về Cực Lạc. Quý vị nhìn vào vị
mở đầu và vị kết thúc, sẽ biết rõ Thiện
Tài tu pháp môn gì. Thiện Tài là học trò ngoan của thầy!
Văn Thù Bồ Tát phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ,
Phổ Hiền Bồ Tát cũng phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ. Học sinh theo thầy cùng nhau tu Tịnh Độ,
học sinh ngoan!
Như vậy
thì Tịnh Độ là kinh Vô Lượng Thọ; còn Hoa
Nghiêm và Pháp Hoa tới cuối cùng quy vào đâu? Quy vào kinh Vô
Lượng Thọ; do vậy, kinh Vô Lượng Thọ trở
thành kinh đệ nhất, thật sự là kinh đệ
nhất. Kinh Vô Lượng Thọ có bốn mươi tám
phẩm, nếu chúng ta tiếp tục không ngừng truy tìm,
phẩm nào là bậc nhất? Trong bốn
mươi tám phẩm, kinh văn của phẩm nào là quan
trọng nhất? Đương nhiên là phẩm thứ sáu.
Phẩm thứ sáu do chính A Di Đà Phật nói, Thích Ca Mâu Ni Phật
thuật lại cho chúng ta biết. Đây là A Di Đà Phật
trong khi tu nhân đã phát ra bốn mươi tám nguyện. Bốn
mươi tám nguyện, trong bốn mươi tám nguyện
này, nguyện nào quan trọng nhất? Cổ đại
đức cho biết: Nguyện thứ mười tám. Nguyện
thứ mười tám là “khi lâm chung, một niệm hay
mười niệm đều có thể vãng sanh thế giới
Cực Lạc”, tuyệt quá! Như vậy thì thập
phương tam thế hết thảy chư Phật Như
Lai ứng hóa trong mười pháp giới và lục đạo
của vô lượng vô biên các cõi Phật, dùng gì để
giáo hóa, tiếp dẫn chúng sanh, giúp chúng sanh thành Phật
trong một đời? Đều bằng pháp môn này. Nói
cách khác, Tịnh Độ Tam Kinh, kinh Vô Lượng Thọ,
kinh Di Đà, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là những
kinh mà tất cả chư Phật Bồ Tát hóa độ lục
đạo chúng sanh trong mười pháp giới nhất
định phải giảng! Đây là phương thức
độ chúng sanh chủ yếu của các Ngài, hết thảy
các kinh giáo khác đều là kèm theo, còn những kinh này là chủ
yếu nhất, chúng ta phải có nhận thức này. Vì sao giảng
những kinh khác? Chúng sanh không tin Tịnh Độ, chẳng
thể tiếp nhận, họ thích những thứ khác. Thích
điều gì, tôi bèn giảng cho quý vị điều ấy.
Giảng đến cuối cùng đều trở về đây,
diệu tuyệt chẳng thể nghĩ bàn! Bất luận
Tông Môn hay Giáo Hạ, quý vị thấy những đại
đức trong Thiền Tông đến tuổi già chuyên niệm
A Di Đà Phật, cầu sanh thế giới Cực Lạc.
Trong Vãng Sanh Truyện có rất nhiều [trường hợp
như vậy]; tông Hoa Nghiêm chẳng cần phải nói nữa!
Mười đại nguyện vương dẫn về Cực
Lạc. Tông Thiên Thai, bản thân Trí Giả đại sư
tu hành theo Quán Vô Lượng Thọ Kinh, [kinh này] còn gọi
là Thập Lục Quán Kinh, Ngài vãng sanh thế giới Cực
Lạc. Từ những tổ sư đại đức này,
chúng ta bèn nhận ra pháp môn này và bộ kinh này đúng là Nhất
Thừa.
“Liễu nghĩa” là gì? Dùng một
câu trong Phật pháp để giải thích, “cứu cánh hiển liễu” (phơi bày rõ rệt
đến tột cùng), “hiển”
(顯) là minh hiển (sáng tỏ, rõ rệt), sáng
tỏ đến tột cùng là “liễu
nghĩa”. Ví như trong kinh Đại Thừa, đức
Phật đã dạy chúng ta: “Phiền
não tức Bồ Đề, sanh tử tức Niết Bàn”,
đây là ý nghĩa rõ rệt đến tột cùng. Khi mê gọi
là “phiền não”, lúc giác ngộ gọi là Bồ Đề. Lúc
mê có sanh tử, khi giác ngộ gọi là Niết Bàn; chỉ
có mê hay ngộ. Trừ mê và ngộ ra, đích xác là hết
thảy các pháp đều bất nhị. Trong quá khứ,
chúng ta từng học pháp môn “mười
hai món Bất Nhị” của tông Thiên Thai, đó là hiển
liễu đến tột cùng. Liễu nghĩa, nói
đơn giản nhất, sau khi chúng ta học xong sẽ
hưởng thụ chân thật thì đó là “liễu nghĩa”. Nếu chẳng chân thật
hưởng thụ, chẳng phải là liễu nghĩa!
Chúng ta hỏi: Chúng ta học pháp môn này, mong có thể liễu
sanh tử, thoát tam giới, có thể chứng đắc quả
vị vô thượng Bồ Đề, pháp môn này có đáp ứng những điều ấy
hay không? Được chứ! Pháp môn này là liễu
nghĩa, thật sự có thể giúp đỡ, thành tựu
chúng ta. Vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới,
tuy chưa thành Phật, nhưng cũng như đã thành
Phật, người ấy thật sự gần như
thành Phật, điều này do chính A Di Đà Phật nói.
Trong bốn mươi tám nguyện có nói: Sanh về thế
giới Cực Lạc “giai tác A
Duy Việt Trí Bồ Tát” (đều là Bất Thoái Chuyển
Bồ Tát). Kinh Vô Lượng Thọ nói như thế, kinh Di
Đà cũng dạy như thế, Quán Kinh cũng giảng
như thế, ba kinh đều có câu này. A Duy Việt Trí là hạng
Bồ Tát nào? A Duy Việt Trí (Avaivartika) là tiếng Phạn,
dịch sang nghĩa tiếng Hán là “Bất Thoái Chuyển”. Trong
ba thứ Bất Thoái Chuyển, môn thứ nhất là Vị
Bất Thoái, môn thứ hai là Hạnh Bất Thoái, môn thứ
ba là Niệm Bất Thoái, chẳng tuyệt lắm sao? Nói
thông thường, hàng Bồ Tát nào chứng đắc Tam Bất
Thoái? Chúng ta nói theo nghĩa rộng thì minh tâm kiến tánh mới
chứng đắc, [người như vậy] còn gọi
là đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh giống như Huệ Năng đại sư đã chứng
đắc. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo như kinh Hoa
Nghiêm đã nói, vượt thoát mười pháp giới. Kẻ
còn thuộc trong mười pháp giới chắc chắn chẳng
thể [chứng đắc ba thứ Bất Thoái]. A La Hán
thuộc trong mười pháp giới là Vị Bất Thoái, chẳng
đạt được những thứ khác như Hạnh
Bất Thoái và Niệm Bất Thoái, chỉ có Vị Bất
Thoái. Pháp Thân Bồ Tát mới thật sự trọn đủ
ba món Bất Thoái này. Nói nghiêm ngặt, từ bậc Thất
Địa trong Viên Giáo trở lên mới thật sự Bất
Thoái, còn sao nữa? Đối với chuyện vãng sanh, kinh
chẳng nói, chẳng bảo “kẻ Hạ Hạ phẩm
vãng sanh trong cõi Đồng Cư không thuộc vào trường
hợp này!” Chẳng nói câu ấy! Có nghĩa là: Chỉ cần
sanh sang thế giới Cực Lạc, Hạ Hạ phẩm
trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng là A Duy Việt Trí Bồ
Tát. Phương pháp khó tin này, ai có thể tin tưởng?
Trong kinh cũng
có tỷ dụ sau đây. Qua tỷ dụ, chúng ta có thể
biết rõ các tin tức. Như người sanh vào thế
gian này, vừa sanh ra liền hưởng tôn quý như đế
vương, có thể đạt được phước
báo lớn như thế hay không? Không được! Đâu
có năng lực ấy! Nếu quý vị sanh trong nhà quốc
vương, làm vương thái tử, há chẳng đạt
được ư? Chẳng phải là không có, nhưng quá
ít. Thế nhưng, sanh vào Tây Phương Cực Lạc thế
giới, A Di Đà Phật là quốc vương, toàn bộ
[nhân dân] đều là vương tử, quý vị hưởng
phước của ai? Phước của phụ
vương. Do vậy, sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới, kẻ Hạ Hạ phẩm vãng sanh đều
được bổn nguyện gồm bốn mươi
tám nguyện của A Di Đà Phật gia trì, tu pháp môn khác chẳng có được điều
này. Bất luận pháp môn nào khác đều chẳng có cách
nói này, chỉ có Tịnh Độ Tam Kinh nói như thế!
Vì thế, nói: Chúng ta được Phật gia trì, Phật
lực gia trì. Trí huệ của Phật gia trì chúng ta, khiến
trí huệ của chúng ta giống như trí huệ của Phật;
công đức của Phật gia trì chúng ta, khiến công
đức của chúng ta giống như Phật, phước
báo của Phật gia trì chúng ta, khiến phước báo của
chúng ta giống như Phật, mọi điều đều
do lẽ này, chẳng phải do chính mình, chuyện là như
vậy đó! Khi nào chính quý vị có năng lực này, không
cần Phật gia trì nữa? Trong thế giới Cực Lạc,
quý vị đã chứng đắc từ Thất Địa
Bồ Tát trở lên sẽ không do Phật gia trì, [trí huệ, phước báo, công đức] là của
chính mình. Trước khi đắc Thất Địa, tất
cả đều do Phật lực gia trì. Điều
này thù thắng khôn sánh, hy hữu khôn sánh, quý vị nói xem: Quý
vị có thể chẳng chọn pháp môn này hay chăng? Người
chẳng học pháp môn này không ít, người nào vậy? Kẻ
rất tự phụ, tự nghĩ mình ghê gớm lắm,
không cam lòng, không bằng lòng làm con nuôi của A Di Đà Phật.
Những kẻ này muốn tự lực. Được
thôi! Quý vị cứ tà tà mà học! Quý vị phải đi
theo một con đường rất dài, thật đấy!
Nếu quý vị quyết theo A Di Đà Phật, quý vị rất
may mắn, thành tựu rất nhanh! Đây là Nhất Thừa
liễu nghĩa, câu này viết hay quá!
“Vạn thiện đồng quy”:
Chữ “vạn” này không phải
là con số, mà có nghĩa là viên mãn. Hết thảy các thiện
pháp thế gian và xuất thế gian quy vào đâu? Quy vào A Di
Đà Phật. A Di Đà Phật là gì? A Di Đà Phật là
Tánh Đức, A Di Đà Phật là danh hiệu của tự
tánh. Dịch theo văn tự, câu này là dịch âm từ tiếng
Phạn, A là Vô, Di Đà là Lượng, Phật nghĩa là
gì? Trong kinh Vô Lượng Thọ, Thích Ca Mâu Ni Phật dùng
hai chữ để giải thích ý nghĩa [của danh hiệu]
Phật: Một là Quang, hai là Thọ. Quang tượng
trưng điều gì? Quang tượng trưng không gian, Thọ
tượng trưng thời gian. Nay chúng ta nói “thời -
không” (thời gian và không gian) thì trong “thời - không” đã bao
hàm hết thảy thiện pháp đều chẳng lìa A Di
Đà Phật. A Di là Vô Lượng, vô lượng quang, vô
lượng thọ, hoàn toàn là tự tánh, là vạn thiện
đồng quy. Quý vị niệm câu Nam-mô A Di Đà Phật
là niệm Nhất Thừa liễu nghĩa, vạn thiện
đồng quy. Như chúng tôi vừa mới báo cáo
đơn giản cùng quý vị: Một câu A Di Đà Phật
bao quát toàn bộ vô lượng Phật hiệu được
tuyên dương trong thập phương tam thế từ
vô lượng kiếp đến nay. Một câu A Di Đà Phật
triển khai thành bốn mươi tám nguyện, bốn
mươi tám nguyện triển khai thành kinh Vô Lượng
Thọ, kinh Vô Lượng Thọ triển khai thành Đại
Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh, kinh Hoa Nghiêm triển
khai thành hết thảy các pháp do đức Thế Tôn đã
nói trong bốn mươi chín năm. A Di Đà Phật là tổng
cương lãnh, là tột đỉnh của hết thảy
các pháp do hết thảy chư Phật Như Lai đã nói; nhận biết rõ ràng điều này chẳng
dễ dàng đâu nhé! Tôi học Phật gần như
ba mươi năm mới hiểu chuyện này, cảm thấy
may mắn khôn sánh, vui mừng khôn sánh, cũng chẳng còn
chao đảo nữa, chẳng hoài nghi nữa! Như thế
thì tám chữ trong hai câu này đã nói trọn vẹn những
điều đó!
Tiếp
đó là “tam căn phổ bị,
phàm thánh tề thâu”, đây là nói đến căn cơ tương
ứng với pháp này, đối tượng được
giáo hóa bởi pháp môn này. Tam căn là thượng trung hạ
tam căn. Thượng căn là căn tánh Đại Thừa,
trung căn là căn tánh Duyên Giác, hạ căn là căn tánh
Thanh Văn, [trung căn và hạ căn] là căn tánh Tiểu
Thừa. Toàn bộ ba thứ căn tánh đều có phần
[trong pháp môn Tịnh Độ]. Thậm chí ngay cả kẻ
chẳng biết chữ, chưa hề tiếp xúc học
thuật thế gian hay xuất thế gian nào, người
trong nước thường gọi hạng người ấy
là “không có văn hóa”, mà nếu có thể tin, tin sâu xa chẳng
nghi ngờ, nếu kẻ ấy thật sự phát tâm cầu
sanh Tịnh Độ, nhất định được
vãng sanh. Trường hợp này rất nhiều, trong Vãng Sanh
Truyện và Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, hạng
người như vậy tối thiểu chiếm hơn
một phần ba. Do nguyên nhân nào? Vì sao hễ nói với các
ông già bà cả, họ bèn tin, còn phần tử tri thức chẳng
tin? Tôi học Phật rất khó khăn, tiên sinh Phương
Đông Mỹ giới thiệu Phật pháp cho tôi. Nếu
tôi không học Triết Học với cụ, nếu cụ
không giảng Triết Học trong kinh Phật, giảng môn này,
tôi vĩnh viễn chẳng tiến vào cửa Phật, từ
chỗ này mà nhận biết Phật giáo. Sau khi đã tiến
vào Phật môn, lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam là học trò của
Ấn Quang đại sư, là người hoằng truyền
Tịnh Độ Tông, tôi học kinh giáo, học giảng
kinh với cụ. Thoạt đầu, tôi hoài nghi pháp môn Tịnh
Độ, nghĩ đây là pháp phương tiện của
Thích Ca Mâu Ni Phật nhằm tiếp dẫn các bà già! Quan niệm
[lệch lạc này] rất sâu, thành kiến rất sâu! Theo
thầy Lý nhiều năm như thế, theo thầy mười
năm, thầy rát miệng buốt lòng giới thiệu pháp
môn này với tôi, tôi đọc [kinh sách Tịnh Độ]
chẳng hoài nghi, không dám khi dễ, chẳng dám khinh mạn
pháp môn này, cũng rất tôn trọng, nhưng chẳng có ý
nghĩ muốn học, hứng thú đều đặt
nơi kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm do thầy Phương giới
thiệu thuở ấy có ảnh hưởng rất lớn
đối với tôi!
Khi nào tôi
mới tin tưởng Tịnh Độ? Cũng phải là
khi đã học Phật được hai mươi năm,
tôi bắt đầu giảng kinh Hoa Nghiêm. Lúc ấy, mỗi
tuần giảng ba ngày, mỗi ngày một tiếng rưỡi,
không có máy thâu hình, ngay cả máy thâu âm cũng không có. Tôi giảng
lần thứ nhất, hình như cũng giảng chẳng
ít năm, giảng được phân nửa [bộ kinh]. Lúc
đó, giảng Bát Thập Hoa Nghiêm và Tứ Thập Hoa
Nghiêm cùng một lúc; cứ hai ngày giảng Bát Thập Hoa
Nghiêm thì một ngày giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm, giảng
hai kinh cùng nhau. Giảng gần hơn phân nửa, có một
hôm, bỗng nghĩ Văn Thù Bồ Tát và Phổ Hiền Bồ
Tát tu pháp môn gì? Thiện Tài đồng tử tu pháp môn gì? Do
chưa giảng đến phần sau kinh, bèn lật phần
sau ra xem, vừa mở phần sau ra xem, bèn sững sờ, cớ
sao Văn Thù, Phổ Hiền đều phát nguyện cầu
sanh thế giới Cực Lạc? Lại xem kỹ phần
nói về Thiện Tài đồng tử bèn thấy rõ. Quý vị
thấy tôi giảng đến phân nửa, toàn là đọc
theo kiểu “nuốt trộng quả táo”, chẳng phát hiện
chuyện này! Thiện Tài kế thừa pháp mạch của
thầy, là đệ tử nhập thất, là đệ tử
truyền pháp của Văn Thù Bồ Tát, chẳng phải là
người tầm thường; nếu thầy phát nguyện
cầu sanh Tịnh Độ, học trò đâu có ngoại
lệ? Do vậy, sau đó, tôi quay trở lại xem những
phần đã giảng qua, xem lại. Khi ấy, tôi dùng bản
Tứ Thập Hoa Nghiêm, [tỳ-kheo Đức
Vân được Tứ Thập Hoa Nghiêm] dịch là tỳ-kheo
Cát Tường Vân, phần này tôi cũng đã giảng xong!
Kinh nói rõ ràng Ngài tu Ban Châu tam-muội, tôi cũng giảng rất
rõ ràng, nhưng không liên kết Thiện Tài với pháp môn Niệm
Phật, chẳng liên hệ đến phần trước.
Khi đọc lại, liên kết với phần trước,
mới biết chẳng sai tí nào, Thiện Tài chuyên tu pháp môn
Niệm Phật; chúng ta nói Ngài niệm một câu Di Đà đến
tận cùng!
Năm
mươi ba lần tham học là chuyện như thế
nào? Năm mươi ba lần tham học là học rộng
nghe nhiều, chẳng trở ngại, đúng là Sự Sự
vô ngại, pháp môn gì cũng đều tiếp xúc. Hễ tiếp
xúc bèn hiểu rõ, hiểu rõ là tăng trưởng trí huệ,
là Hậu Đắc Trí, chẳng có gì không biết. Biết
như thế nào? Đều tiếp xúc, đều hiểu
rõ, chuyện gì cũng đều hiểu rõ, pháp nào cũng
đều thông đạt, tám vạn bốn ngàn pháp môn, môn
nào cũng thông, nhưng như thế nào? Như như bất
động, một câu Di Đà niệm đến cùng;
đối với Hạnh môn của chính mình, chẳng bị
ảnh hưởng mảy may. Đó là công phu định lực
gì? Thành tựu viên mãn Định Huệ của chính mình!
Không có sự từng trải này, làm sao biết Định
Huệ thành tựu? Pháp môn gì cũng đều tiếp xúc,
nhưng chẳng bị ảnh hưởng bởi pháp môn
nào, đều không bị ảnh hưởng. Hai bữa
nay, chúng ta nghe cư sĩ Lưu Tố Vân báo cáo, quý vị thấy
bà ta pháp môn nào cũng đều tán thán “đều hay”, như
vậy đó! Thiện Tài đồng tử giống
như vậy, đối với chúng ta, không chỉ riêng các
pháp môn trong Phật môn đều hay, mà các tôn giáo khác đều
hay. Đã nhiều năm qua, tại các nơi trên thế giới,
tôi làm công tác đoàn kết tôn giáo, mỗi tôn giáo đều
hay, đều đáng tán thán, lễ kính. Tôi cũng đọc
tụng kinh điển của họ, nhưng chẳng trở
ngại niệm Phật. Càng tiếp xúc, càng hiểu rõ. Càng
tiếp xúc, một câu A Di Đà Phật
càng chẳng thể nghĩ bàn,
thích hợp khắp ba căn, thâu tiếp phàm lẫn thánh. Chúng
ta là phàm nhân, Văn Thù, Phổ Hiền là thánh nhân, đều
sanh về thế giới Cực Lạc.
“Hoành siêu tam giới”: Tám vạn bốn ngàn pháp môn được
gọi là Thụ Xuất (thoát
ra theo chiều dọc), tức là nâng cao lên từng bước
một, giống như các địa vị của hàng Bồ
Tát. Từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta thấy có năm mươi mốt
địa vị, từ địa vị Thập Tín, Thập
Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, tới
Thập Địa là năm mươi địa vị;
trên nữa là Đẳng Giác, trên nữa là địa vị
Diệu Giác, còn gọi là địa vị Phật. Thụ
xuất đấy! Pháp môn Tịnh Độ này không cần,
[tiến lên từng bước như vậy] phiền quá,
thời gian quá dài, hoành siêu! Nay chúng ta đang thuộc nhân
đạo, không cần từ nhân đạo sanh lên thiên
đạo. Thiên thì còn có hai mươi tám tầng trời, vượt
lên từng tầng một, tốn công lắm! Từ ngay
trong nhân đạo vượt ra theo chiều ngang (hoành
siêu), trở về thế giới Cực Lạc, đó là “hoành
xuất”, không cần phải trải qua những phiền
phức như thế. Thật sự làm được! Chuyện
này chẳng giả đâu! Trong cuộc đời này, tôi
đã gặp mấy người niệm Phật vãng sanh,
biểu diễn, thị hiện cho chúng ta thấy: Chẳng
ngã bệnh, biết trước lúc mất, đứng vãng
sanh, ngồi vãng sanh. Khoảng bốn mươi năm
trước đây, Phật Quang Sơn thành lập học
viện Đông Phương Phật Giáo, pháp sư Tinh Vân mời
tôi làm chủ nhiệm giáo vụ, tôi ở trên núi ấy
mười tháng. Trong thời gian ấy, nghe một công nhân
dài hạn [kể chuyện]. Phật Quang Sơn công trình rất
nhiều, suốt năm chẳng nghỉ ngơi, không ngừng
xây cất, cho nên công nhân ở đó cũng làm việc cho Phật
Quang Sơn nhiều năm. Buổi tối, tôi hướng
dẫn một vài người học trò thảo luận Phật
pháp, người công nhân ấy cũng tham dự, nói với
chúng tôi: Năm ngoái, một bà cụ hàng xóm của ông ta niệm
Phật, đứng vãng sanh. Ông ta bảo: “Thật đấy,
chẳng giả tí nào!” Hôm ấy, chúng tôi nghe ông ta kể
chuyện, hết sức hứng thú.
Bà cụ
ấy tâm địa hết sức tốt, hết sức từ
bi, cũng chẳng hiểu Phật pháp, đâm ra coi lạy
thần như lạy Bồ Tát, ông Địa cũng là Bồ
Tát, Thành Hoàng cũng là Bồ Tát, những loại
Vương Gia Công[9] mà dân gian thờ cúng, cụ đều
nghĩ là Bồ Tát. Ba năm trước, cụ cưới
dâu, con dâu học Phật, hiểu Phật pháp, liền khuyên
mẹ chồng chuyên niệm A Di Đà Phật, chuyên lạy
Tây Phương Tam Thánh, những vị thần khác đều
thỉnh đi, Bồ Tát đều thỉnh đi. Bà mẹ
chồng này hiếm có, nghe lời con dâu khuyên bảo, thật
sự làm, chỗ nào cũng không tới; bình thường hễ
miếu nào có lễ hội đều
tham gia, cụ không đi nữa, ở nhà niệm Phật, trong
nhà lập Phật đường, [tụng niệm] ba
năm. Đến một tối nọ, đến bữa
cơm tối, cụ dặn dò con trai, con dâu; con trai, con dâu
vô cùng hiếu thuận, cụ bảo: “Các con dùng cơm
trước, mẹ đi tắm”. Thật ra, cả nhà
đợi cụ, đợi thật lâu chẳng thấy
cụ ra. Tới phòng tắm, coi cụ đã tắm xong
chưa, gọi chẳng thấy ai trả lời. Tới Phật
đường, thấy cụ mặc áo tràng chỉnh tề,
tay cầm chuỗi, đứng trước tượng Phật,
gọi chẳng thấy cụ trả lời, tới nhìn kỹ,
cụ đã vãng sanh rồi. Hàng xóm đều đến xem,
cụ đứng mất! Chúng tôi nghĩ: Có lẽ cụ
chẳng báo cho người nhà biết; cho người nhà biết,
sợ họ sẽ ngăn trở, cụ chẳng thể tự
tại dường ấy. Đúng là tự tại, tiêu sái ra
đi, chính mắt ông ta trông thấy, chẳng giả. Vị
công nhân dài hạn ấy đã giảng cho chúng tôi nghe một
bài học do chính mắt ông ta thấy.
Khi tôi
đến Hương Cảng giảng kinh, chúng tôi nghe
băng thâu âm lời khai thị trong Phật Thất của
pháp sư Đàm Hư, tôi nghe thấy lão nhân gia giảng rất
nhiều. Sau đó, qua tác phẩm Ảnh Trần Hồi Ức
Lục [biết thêm nhiều chuyện vãng sanh], đấy
là truyện ký về lão nhân gia do Ngài kể, học trò Ngài
là pháp sư Đại Quang ghi chép. Chúng tôi cũng hết sức
thân thiết với ngài Đại Quang, Sư vãng sanh chắc
cũng đã mười năm rồi. Ba mươi
năm trước, ở Hương Cảng, chúng tôi thường
ở chung một chỗ. Văn tài của Sư hết sức
hay, Ảnh Trần Hồi Ức Lục do Sư viết,
toàn là chuyện thật. Gần đây nhất, chừng ba
năm trước đây, ở Thâm Quyến có cư sĩ
Hoàng Trung Xương ba mươi mấy tuổi, nghe tôi giảng
kinh, nghe nói từ xưa tới nay người thật sự
niệm Phật khoảng chừng ba năm công phu thành tựu
bèn vãng sanh. Trong quá khứ, đã từng có mấy vị
pháp sư hỏi tôi, bọn họ thấy những trường
hợp ấy, bèn nói: Có phải là những người vãng
sanh ấy thọ mạng vừa đúng ba năm là hết
[nên vãng sanh sau ba năm niệm Phật]
đó chăng? Tôi nghĩ nói kiểu này chẳng hợp lý, thỉnh
thoảng có một hai người thì được, chứ
nhiều người như vậy sẽ chẳng hợp với
lý luận, không hợp la-tập (logic). Vì sao vãng sanh? Người
ấy công phu đã thành phiến. Chỉ cần công phu thành
phiến, quý vị muốn ra đi lúc nào cũng được!
Muốn đi thì đi; muốn ở lại cũng
được! Ở lại thế gian này là do có nhiệm
vụ, có sứ mạng, làm cho người khác thấy.
Nếu chẳng có duyên phận với thế gian này,
người ấy đã ra đi. Lúc ấy, cư sĩ
Hoàng Trung Xương bế quan tại Thâm Quyến ba
năm, ông ta nghĩ: “Hãy thử xem, cổ nhân ba năm có thể
thành tựu. Xem ta có đúng ba năm thật sự thành tựu
hay không?” [Bế quan niệm Phật] hai năm mười
tháng, còn thiếu hai tháng, ông ta biết trước lúc mất,
thật sự ra đi, chẳng ngã bệnh. Khi hỏa táng,
lưu lại xá-lợi, nay xá-lợi vẫn còn thờ ở
nơi ấy, làm một cái tháp nhỏ đặt ở
đó. Nêu gương cho chúng ta, thật đấy, chẳng
giả đâu!
Tin thật,
nguyện thiết tha, không ai chẳng thành tựu, đừng
bỏ lỡ cơ hội! Từ vô lượng kiếp đến
nay sanh tử luân hồi trong lục đạo, khổ chẳng
thể nói được! Suốt đời này quý vị gặp
cảnh khổ vẫn chưa phải là Đại Khổ.
Trong quá khứ, quý vị từng nếm mùi địa ngục,
nếm mùi ngạ quỷ, nếm mùi súc sanh, cũng đã từng
làm thân trời; nếu nghĩ đến nỗi khổ
trong tam đồ, quý vị còn muốn ở đây để
làm gì nữa? Nếu chẳng thoát khỏi lục đạo
luân hồi, nói cách khác, đối với bất cứ ai,
cũng dám chắc là thời gian trong tam đồ lâu dài, thời
gian trong nhân thiên ngắn ngủi. Vì sao? Chúng ta học Pháp
Tướng Duy Thức bèn biết: Trong A Lại Da thức,
đối với Tương Ứng Tâm Sở, Thiện Tâm
Sở chỉ có mười một món, Ác Tâm Sở có hai
mươi sáu món, chứng tỏ trong tập khí của quý
vị, thiện ít, ác nhiều. Giáo dục của cổ
thánh tiên hiền chẳng có dụ dỗ, mê hoặc. Sự
dụ dỗ, mê hoặc bên ngoài hiện thời toàn là giết,
trộm, dâm, dối, toàn là bạo lực, tình dục, còn gì
nữa đâu? Thế giới ngày nay vì sao loạn? Tai nạn
vì sao nhiều? Nguyên nhân là như vậy. Quý vị còn có thể
không vãng sanh ư? Thật sự giác ngộ, phát tâm đại
từ bi, trụ nơi đây thêm vài năm nữa, chịu
tội thêm một chút, mong mang thêm một ít người
cùng đi, đấy là sứ mạng. Có người tiếp
nhận, có người nghe lọt tai, có người tin
tưởng thì chúng ta vẫn phải làm, một người
cũng chẳng bỏ, tới lúc công đức viên mãn, tự
nhiên ra đi. Ra đi cũng thị hiện rất tốt
đẹp cho mọi người thấy, giống như
ông Hoàng Trung Xương, giống như bà cụ niệm Phật
ở Đài Nam. Dù bà cụ suốt đời cũng không biết
giảng kinh, cũng chẳng biết hoằng pháp, sự biểu
hiện của cụ đã độ bao nhiêu người,
khiến cho bao nhiêu người dấy lên lòng tin, khiến
cho bao nhiêu người hóa giải nỗi hoài nghi đối
với Tịnh Độ. Đây là Tác Chứng Chuyển
trong Tam Chuyển Pháp Luân; nay mọi người đòi hỏi
chứng cứ, bèn tạo chứng cứ cho quý vị xem.
“Kính đăng tứ độ”, “kính” (逕) là nhanh chóng, “tứ
độ” là Phàm Thánh Đồng Cư Độ, Phương
Tiện Hữu Dư Độ, Thật Báo Trang Nghiêm Độ
và Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Tây
Phương Cực Lạc thế giới hết sức
đặc thù. Trong các thế giới khác của chư Phật,
tứ độ có giới hạn, chẳng ở cùng một
chỗ. Thế giới Sa Bà này là báo độ của Thích
Ca Mâu Ni Phật, tứ độ chẳng cùng một chỗ.
Chúng ta chỉ là nhân đạo trong lục đạo, nhân
đạo là Phàm Thánh Đồng Cư Độ, có Phật,
Bồ Tát ở trên địa cầu hay không? Có chứ! Nhưng
phàm phu chúng ta chẳng thấy các Ngài, người có duyên phận
đặc biệt sẽ đôi khi thấy, các Ngài cũng
không cho quý vị thường thấy. Đâu Suất Thiên là
Phàm Thánh Đồng Cư Độ; trời Đâu Suất
có nội viện và ngoại viện. Ngoại viện là phàm
phu, phàm phu chẳng thấy Bồ Tát trong nội viện,
thật sự có chướng ngại! Nhưng trong thế
giới Cực Lạc không có chướng ngại này, bốn
cõi không có giới hạn, đều ở cùng một chỗ.
Do vậy, người vãng sanh Hạ Hạ phẩm trong Phàm
Thánh Đồng Cư đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới, có thể thấy Quán Âm Bồ Tát, Đại
Thế Chí Bồ Tát, Văn Thù, Phổ Hiền trong cõi Thật
Báo, đều có thể trông thấy. Không chỉ trông thấy,
mà mỗi ngày còn học cùng một chỗ, cùng nghe A Di
Đà Phật giảng kinh, mỗi ngày cùng học tập một
chỗ, duyên này tìm ở đâu ra? Thông thường, không phải
cùng một tầng lớp, sẽ chẳng thể ở
chung một chỗ. Như bậc Sơ Trụ Bồ Tát
trong kinh Hoa Nghiêm đúng là giống như chúng ta học tập
trong nhà trường: Quý vị thuộc lớp Một, hết
thảy mọi người trong phòng học đều là lớp
Một, không có cách nào chuyển sang phòng học của lớp
Hai, tình hình như thế đó! Theo kinh Hoa Nghiêm, Sơ Trụ
Bồ Tát chẳng thấy Nhị Trụ, nhưng Nhị Trụ
có thể thấy Sơ Trụ, Sơ Trụ chẳng thấy
Nhị Trụ; nhưng thế giới Cực Lạc là bình
đẳng, giống như là học sinh của năm
mươi mốt lớp học đều cùng một chỗ.
Tôi dùng tỷ dụ này, có lẽ mọi người hiểu
được, học cùng một phòng học, quý vị
hoàn toàn thấy được.
Vì thế,
sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới là sanh
trọn bốn cõi, các cõi ấy ở cùng một chỗ, trong
ấy chẳng có chướng ngại. Nay chúng ta nói không
gian duy thứ (chiều không gian, spatial dimensions), Cực Lạc
không có không gian duy thứ, đều thấy hết. Không
chỉ có chỗ tốt đẹp này, mà sanh sang Tây
Phương Cực Lạc thế giới, quý vị mỗi
ngày có năng lực đi lạy vạn Phật. Chữ “vạn” này không phải là con
số, mà [có nghĩa] là vô lượng vô biên chư Phật
Như Lai. Quý vị có thể tới thân cận, cúng dường
các vị Phật. Cúng dường là gì? Tu phước, nghe
Phật thuyết pháp, khai trí huệ. Ở đây, chúng ta tìm
một vị thầy tốt đẹp không ra, tới thế
giới Cực Lạc, mỗi ngày bèn có vô lượng vô
biên chư Phật thuyết pháp cho quý vị. Đi bằng
cách nào? Hóa thân tới, thân của quý vị đang ở trước
mặt A Di Đà Phật chẳng động, phân thân
đi. Quý vị có thể phân ra vô lượng vô biên thân. Quý
vị thấy trong kinh Di Đà, Thích Ca Mâu Ni Phật giảng
rất rõ ràng: Mỗi ngày cúng dường mười vạn
ức Phật. “Mười vạn
ức” là biểu thị pháp, vì thế giới Sa Bà cách thế
giới Cực Lạc mười vạn ức cõi Phật,
nghĩa là gì? Quý vị tới thế giới Cực Lạc,
mỗi ngày đều có thể trở về thăm [Sa Bà],
mang ý nghĩa như vậy. Chẳng phải là quý vị còn
có tình chấp đối với thế giới này ư? Cha
mẹ, thầy, người nhà, quyến thuộc trong đời
đời kiếp kiếp ở tại thế giới
này, chẳng muốn tách rời, mỗi ngày đều có thể
thấy họ, dụng ý ở chỗ này! Trên thực tế,
không phải chỉ có vậy, đâu phải chỉ mười
vạn ức! Cho thấy [người trong Cực Lạc]
có đại thần thông. Tôn Ngộ Không trong Tây Du Ký mới
có bảy mươi hai phép biến hóa, hắn còn kém lắm.
Lông trên khắp người hắn, một sợi lông có thể
biến thành một tiểu Tôn Ngộ Không, vẫn là có hạn
lượng! Đến thế giới Cực Lạc, phân
thân không có số lượng. Do vậy, sanh sang thế giới
Cực Lạc là sanh vào hết thảy các cõi Phật, trong các
pháp môn khác không có điều này. Quý vị nói có thù thắng
lắm hay không?
“Cực viên cực đốn, bất
khả tư nghị chi vi diệu pháp môn”, chẳng giả
tí nào! Quý vị nói xem: Đời này gặp gỡ pháp này,
được làm thân người, gặp gỡ Phật pháp,
gặp được Hoa Nghiêm, gặp Vô Lượng Thọ,
phước báo đã viên mãn, đâu có phước báo nào to
lớn như thế! Đâu may mắn như thế! Hoàn
toàn đạt được. Nếu quý vị chẳng biết
quý trọng, sẽ là ở ngay trước mặt mà bỏ
lỡ! Con người sống chẳng phải một
đời, mà là đời đời kiếp kiếp,
điều gì tiếc nuối lớn nhất? Đây là tiếc
nuối lớn nhất, không có gì tiếc nuối hơn nữa!
Gặp cơ hội tốt như vậy, trăm ngàn vạn
kiếp khó gặp gỡ! Thời Càn Long, cư sĩ Bành Tế
Thanh đã nói, vị cư sĩ này cũng rất phi phàm,
ông ta nói: Pháp môn Tịnh Tông là “một
ngày khó thể gặp gỡ từ vô lượng kiếp đến
nay”, [thế mà] quý vị đã gặp. Nói như bây giờ,
Bành Tế Thanh là con em quan chức cao cấp, cha ông ta là Binh
Bộ Thượng Thư của hoàng đế Càn Long, tức
bộ trưởng Quốc Phòng. Vì vậy, gia thế tốt
đẹp, là người thông minh, chưa đầy hai
mươi tuổi đã đậu Tiến Sĩ, phải
biết là [ông ta thi đậu] năm mười chín tuổi,
chưa được hai mươi, [nếu đủ] hai
mươi tuổi sẽ làm lễ Gia Quan (bới tóc lên, đội
mão). Suốt đời chẳng làm quan, học Phật, hoàn
cảnh gia đình tốt đẹp, học Phật
đúng là học đến nơi đến chốn, Tông,
Giáo, Hiển, Mật viên dung, là đại cư sĩ,
đại đức thời ấy. Đến chỗ này
là một đoạn.
Chúng ta xem
đoạn tiếp theo, “nhi kỳ
trung chi Vô Lượng Thọ kinh giả, nãi Tịnh
Độ quần kinh chi thủ yếu, Tịnh tông đại
đức thường xưng vi Tịnh Độ
đệ nhất kinh dã” (nhưng trong ấy, kinh Vô
Lượng Thọ chính là kinh đứng đầu, chủ
yếu trong các kinh Tịnh Độ, các bậc đại
đức trong Tịnh Tông thường gọi kinh này là
kinh Tịnh Độ bậc nhất). Không chỉ là kinh đứng
đầu, chủ yếu trong các kinh Tịnh Độ,
chúng ta có thể nói theo cách như thế này: Kinh này là kinh
đứng đầu, cốt yếu của cả Đại
Tạng Kinh. Do vậy, từ xưa tới
nay, trải qua các triều đại, đặc biệt
là các vị đại đức thời Tùy - Đường,
kinh này được gọi là “Tịnh
Độ đệ nhất kinh”. Luận theo
phương diện thời gian phiên dịch, Tịnh Độ
Tông truyền đến Trung Quốc, bộ kinh [Tịnh
Độ] được phiên dịch đầu tiên là
kinh Vô Lượng Thọ, kinh Di Đà và Quán Kinh được
dịch về sau này. Kinh này được dịch sớm
nhất vào đời Hán, lúc vừa được truyền
tới, nhằm thời ngài An Thế Cao. Thật đấy,
chẳng giả đâu! Hôm nay đã hết thời gian rồi,
chúng ta học tập tới chỗ này.
Tịnh Độ Đại
Kinh Giải Diễn Nghĩa
phần 1
hết
[1] Thích Ca Phổ do ngài Tăng Hựu soạn
vào đời Lương, nội dung trích dẫn rộng
rãi các kinh điển Đại và Tiểu Thừa, ghi chép
lịch sử thị tộc Thích Ca và sự tích của
Thích Ca Mâu Ni Phật, cũng như sự kiện kể từ
sau khi đức Phật nhập diệt cho đến thời
A Dục Vương. Do bộ này viết hơi rườm
rà nên đến đời Đường, ngài Đạo
Tuyên viết tác phẩm Thích Ca Thị Phổ ngắn gọn
hơn.
Thích Ca Phương Chí gồm hai quyển,
do ngài Đạo Tuyên soạn vào năm Vĩnh Huy nguyên niên
(650) đời Đường, ghi chép các khu vực có Phật
giáo lưu truyền, diễn biến truyền thừa Phật
giáo theo từng thời kỳ, kể cả những chi tiết
về núi Tu Di, tứ bộ châu, các tuyến đường
trọng yếu tại Trung Ấn, tiểu sử của
mười sáu vị tăng Trung Hoa sang Ấn Độ cầu
pháp, cũng như các sự kiện Phật giáo trong quá
trình truyền thừa từ Ấn Độ sang Trung Hoa.
[2] Tứ đại lạt-ma là bốn vị sư trưởng cao cấp
nhất theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng và Mông
Cổ, gồm: Đạt Lai Lạt Ma (Dalai Lama, ta thường
đọc trại thành Đại Lai Lạt Ma,
nhưng người Tây Tạng thường gọi Ngài bằng
danh xưng Gyalwa Rinpoche, Kundun hay Yishin Norbu), Ban Thiền Ngạch
Nhĩ Đức Ni (Panchen Erdeni, Ban Thiền Lạt Ma), Triết
Bố Tôn Đan Ba (Jetsundampa) và Chương Gia Hoạt Phật
(Lcang-skya Hutugtu, đôi khi viết là Janggiy-a qutuγ-tu hoặc
Changkya Khutukhtu). Trong bốn vị này, danh xưng Quốc
Sư của Đại Lai Lạt Ma chỉ là mỹ hiệu
phong tặng, nhà Thanh nhiều lần chèn ép Đại Lai Lạt
Ma rất tệ hại, chỉ có ngài Chương Gia là
được trọng vọng, tôn kính đúng thân phận
quốc sư.
[3] Mi chú là viết lời chú thích ở
đầu mỗi trang.
[4] Hào là một vạch liền hay đứt,
mỗi một quẻ trong kinh Dịch gồm sáu vạch, tức
là hai quẻ đơn chồng lên nhau. Quẻ Khiêm có tên gọi
đầy đủ là Địa Sơn Khiêm, gồm quẻ
Khôn chồng lên quẻ Cấn, phần
Hào Từ (giải thích ý nghĩa của mỗi Hào trong một
quẻ) đều giải thích cả sáu Hào của quẻ
Khôn với ý nghĩa tốt đẹp, cả sáu câu đều
có chữ Cát. Chẳng hạn, hào thứ nhất được
giải thích như sau: “Khiêm khiêm
quân tử, dụng thiệp đại xuyên, Cát”. Theo các
nhà chú giải, câu này phải hiểu là: Bậc quân tử
khiêm tốn, có trí huệ, nên có thể tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ, giống như có chiếc thuyền
vững chãi có thể vượt sông to sóng cả an toàn, nên
bảo là tốt lành.
[5] Mười ba tông phái của Phật
giáo Nhật Bản là 1) Hoa Nghiêm Tông (do Lương Biện
sáng lập). 2) Thiên Đài Tông (do Tối Trừng sáng lập).
3) Pháp Tướng Tông (do Đạo Chiêu sáng lập). 4) Luật
Tông (do Giám Chân sáng lập). 5) Lâm Tế Tông (do Vinh Tây sáng lập).
6) Tào Động Tông (do Đạo Nguyên và Oánh Sơn sáng lập).
7) Hoàng Bá Tông (do Ẩn Nguyên Long Kỳ sáng lập). 8) Nhật
Liên Tông (do Nhật Liên sáng lập). 9) Dung Thông Niệm Phật
Tông (do Lương Nhẫn sáng lập). 10) Thời Tông (do Nhất
Biến sáng lập). 11) Tịnh Độ Tông (do Pháp Nhiên
sáng lập). 12) Tịnh Độ Chân Tông (do Thân Loan sáng lập).
13) Chân Ngôn Tông (do Không Hải sáng lập). Tuy có mười
ba tông, nhưng nếu xét đến pháp môn hành trì và kinh
điển chánh yếu làm chỗ y cứ thì chỉ có bảy
tông là Hoa Nghiêm (Hoa Nghiêm Tông), Thiên Thai (Thiên Đài Tông, Nhật
Liên Tông), Duy Thức (Pháp Tướng Tông), Luật Tông, Thiền
Tông (Lâm Tế, Tào Động, Hoàng Bá), Tịnh Độ
(Dung Thông Niệm Phật Tông, Thời Tông, Tịnh Độ
Tông, Tịnh Độ Chân Tông) và Mật Tông (Chân Ngôn Tông).
[6] Chữ Khí Tượng ở đây không
có nghĩa là thời tiết mà có nghĩa là bối cảnh,
tình huống chung.
[7] Chùa Quang Hiếu ở thủ phủ Quảng
Châu, tỉnh Quảng Đông. Chùa này rất cổ, nơi
này vốn là nhà cũ Triệu Kiến Đức, cháu nội
của Nam Việt Vương Triệu Đà (cha của Trọng
Thủy, bố chồng công chúa Mỵ Châu). Thời Tam Quốc,
đô úy Ngu Phiên do bị Ngô Vương Tôn Quyền đày
xuống Quảng Châu, đã mở rộng nơi này thành chỗ
dạy học. Sau khi ông ta chết, người nhà sửa dinh thự của Ngu Phiên thành
chùa, đặt tên là Chế Chỉ Tự. Mãi đến thời
Đông Tấn, khi ngài Đàm Ma Da Xá sang Quảng Châu hoằng
pháp, đã xây chánh điện rộng hơn. Đến
đời Tống, chùa được đổi tên thành
Báo Ân Quảng Giáo Tự. Đến niên hiệu Thiệu
Hưng 21 (1151) đời Tống, mới đổi thành
Quang Hiếu Tự và tên này dùng mãi đến hiện thời.
Dưới đời Lương thời Nam Bắc Triều,
sa môn Trí Duợc của Ấn Độ đã trồng một
cây Bồ Đề tại giới đàn của chùa này và
huyền ký: “Sau này sẽ có một vị nhục thân
Bồ Tát thọ giới tại đây”. Lời huyền ký
này ứng nghiệm vào trường hợp tổ Huệ
Năng.
[8] “Sĩ đại phu” là danh xưng phiếm
chỉ quan chức thời cổ, cũng như dùng để
chỉ những thành phần trí thức có danh vọng và
địa vị. Thoạt đầu, chữ Sĩ
được dùng để gọi những bầy tôi của
các vị khanh đại phu (quan chức cầm quyền lớn
nhất thời Thương - Châu). Về sau, Sĩ thành
danh từ chỉ chung những người có chức vị,
và gọi gộp chung là Sĩ Đại Phu. Về sau, chữ
Sĩ chỉ những người có học thức, có khí
tiết, được dùng lẫn với khái niệm “quân
tử”.
[9] Vương Gia Công là tiếng dân gian gọi
chung các vị thần thánh của Đạo Giáo hay thần
thánh theo tín ngưỡng cổ của dân gian.
0 Kommentare:
Post a Comment