Mỗi
giờ, mỗi phút, niệm niệm quan tâm đến tất cả chúng sanh, nhất là chúng
sanh khổ nạn. Phạm vi của khổ nạn rất sâu, rất rộng. Trong xã hội ngày
nay, người có địa vị, có tiền của, họ cũng đang khổ nạn (việc này phần
đông người thế gian lơ là). Họ khổ nạn ở chỗ nào vậy? Sau khi chết rồi
họ liền đọa tam đồ, họ làm sao mà không khổ, làm sao mà không gặp nạn?
Những người này mê muội trong ngũ dục lục trần, không thể tự giác ngộ.
Họ học Phật, thực tế mà nói, kiểu học Phật của họ là tiêu khiển Phật
pháp, bỡn cợt Phật pháp, đối với Phật pháp không biết một tí gì, họ
không có duyên phận nghe kinh, nghiên cứu giáo lý.
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore
Thời gian: Năm 1999
Cẩn dịch: Viên Đạt cư sĩ, Vọng Tây cư sĩ
Đạo
lý của cảm ứng rất sâu, sự tích của cảm ứng rất rộng. Cổ nhân khích lệ
chúng ta rất nhiều, thương yêu chu đáo mọi bề. Cổ thư dạy bảo chúng ta,
trong thế xuất thế gian pháp, tín tâm là nhân tố thành tựu đệ nhất.
Không luận là mong cầu ở ngay trong đời này đạt được quả báo hạnh phúc
mỹ mãn, hoặc là học Phật, hy vọng ngay trong đời này có thể vãng sanh
Tịnh Độ, thân cận A Di Đà Phật cũng đều nhờ ở tín tâm, chúng ta phải nên
cảnh giác đến. Phật ở trên kinh thường nói: “Thế gian vô thường, quốc độ nguy thúy”.
Thọ mạng của con người rất là ngắn ngủi, một hơi thở ra mà không hít
vào thì đã qua đời khác. Chúng ta có một niệm tín tâm, chính là một niệm
thiện căn; niệm niệm tín tâm chính là niệm niệm thiện căn tăng trưởng.
Phải nên cấp thời nỗ lực tu học, nhất định không thể chờ đợi. Nếu như
bạn cho rằng vẫn còn ngày mai, vẫn còn năm tới, kiểu dáng ngơ ngơ ngác
ngác, nhởn nhơ thì cả đời luống qua uổng phí, đến lúc lâm chung có hối
cũng không còn kịp. Cho nên, chúng ta phải kiến lập tín tâm, phải tinh
cần nỗ lực. Phật pháp không luận là tông phái nào, Hiển giáo, Mật giáo,
v.v… Tổ sư đại đức đều dạy chúng ta phải tu từ căn bản. Cái gì là căn
bản? Tâm là căn bản.
Trong thế pháp, Quảng Tử đã nói:
“Hỷ khí nghinh nhân như huynh đệ.
Nộ khí nghinh nhân, tàn ư binh qua”.
Lời nói này rất có đạo lý. Nhà Phật dạy chúng ta: “Tiếu diện nghinh nhân”.
Các vị xem đạo tràng của nhà Phật, kiến trúc thứ nhất là điện Thiên
Vương. Thờ phụng ở ngay trong điện Thiên Vương là Di Lặc Bồ Tát. Tạo
tượng Di Lặc Bồ Tát là tạo tượng Bố Đại Hòa Thượng. Đây chính là dạy
chúng ta phải dưỡng tâm, phải tu tâm, tâm phải lớn để có thể bao dung
tha thứ, lấy hoan hỷ đối đãi tất cả chúng sanh, đối đãi tất cả mọi
người. Đây là điều đầu tiên trong giáo dục của Phật Đà.
Thành
tựu của một người chính là ở đức hạnh. Đức hạnh chính là học vấn chân
thật, vận dụng trí huệ chân thật. Khổng Tử là một người bình dân thông
thường, không có địa vị, không có tiền của, vì sao Ngài có thể thành tựu
thù thắng như vậy? Thích Ca Mâu Ni Phật tuy sinh ra ở hoàng tộc, nhưng
Ngài đã từ bỏ tất cả địa vị, tiền của v.v…, thảy đều bỏ hết, trải qua
đời sống bình dân thông thường, thành tựu của Ngài là gì? Thực tế mà nói
chính là một tấm lòng thương yêu, thanh tịnh, bình đẳng, ái hộ tất cả
chúng sanh. Chúng ta trong quá trình tu học của bốn mươi năm, sắp gần
năm mươi năm, tổng kết lời giáo huấn của Phật Bồ Tát đã tìm ra một cương
lĩnh. Khởi tâm động niệm, lời nói hành động của chúng ta đều có thể
không trái với cương lĩnh này, y giáo phụng hành thì tự nhiên liền có
thành tựu.
Một
đời tu học của tôi không có che dấu một chút nào, tất cả đều dâng hiến
cho mọi người. Đầu tiên phải tu tâm chân thành, không nên sợ người ta
dùng hư ngụy đối đãi với mình. Chúng ta phải đem tâm chân thành đối đãi
người, phải hiểu rõ họ đem tâm hư ngụy đối đãi ta là đương nhiên, tại
sao vậy? Vì đối với chân tướng sự thật họ không hiểu rõ, họ không biết
được hư không pháp giới tất cả chúng sanh là đồng một duyên khởi, họ
không biết được hư không pháp giới là do một niệm tự tánh biến hiện ra,
cho nên họ dùng tâm không thành thật để đối nhân, tiếp vật là đương
nhiên đó mà. Phật Bồ Tát minh bạch rồi, chúng ta tiếp nhận Phật pháp,
hung đúc sắp gần 50 năm, chúng ta cũng minh bạch. Sau khi minh bạch rồi
mà vẫn còn dùng tâm hư ngụy đối đãi với người thì đó là tội lỗi. Không
hiểu rõ thì không hề gì, hiểu rõ rồi thì không thể được.
Dưỡng
tâm chân thành, tâm thanh tịnh của chính mình. Tâm thanh tịnh chính là
xả bỏ tất cả chấp trước, buông bỏ thị phi nhân ngã, những thứ này không
để ở trong lòng thì tâm bạn liền được thanh tịnh.
Dưỡng
tâm bình đẳng của chính mình, lìa khỏi tất cả vọng tưởng phân biệt, rời
khỏi tất cả thị phi cao thấp thì tâm liền bình đẳng. Tâm thanh tịnh,
bình đẳng chính là tâm chân thành, là tâm giác ngộ. Đem cái tâm này nhìn
tất cả chúng sanh, nhìn tất cả vạn vật, lòng thương yêu tự nhiên liền
lưu lộ ra. Cho nên, đề kinh Vô Lượng Thọ vì chúng ta nêu ra cương lĩnh
tu hành là năm chữ: “Thanh Tịnh - Bình Đẳng - Giác”.
Pháp môn Tịnh Độ chính là dựa trên thanh tịnh, bình đẳng mà hạ công
phu. Thanh tịnh, bình đẳng là giác. Giác chính là chân thành, giác chính
là từ bi. Đây là dưỡng tâm.
Mỗi
giờ, mỗi phút, niệm niệm quan tâm đến tất cả chúng sanh, nhất là chúng
sanh khổ nạn. Phạm vi của khổ nạn rất sâu, rất rộng. Trong xã hội ngày
nay, người có địa vị, có tiền của, họ cũng đang khổ nạn (việc này phần
đông người thế gian lơ là). Họ khổ nạn ở chỗ nào vậy? Sau khi chết rồi
họ liền đọa tam đồ, họ làm sao mà không khổ, làm sao mà không gặp nạn?
Những người này mê muội trong ngũ dục lục trần, không thể tự giác ngộ.
Họ học Phật, thực tế mà nói, kiểu học Phật của họ là tiêu khiển Phật
pháp, bỡn cợt Phật pháp, đối với Phật pháp không biết một tí gì, họ
không có duyên phận nghe kinh, nghiên cứu giáo lý. Duyên phận của họ ở
trong hí trường thế gian. Người thế gian thấy hạng người này sống rất
hạnh phúc, có không ít người ngưỡng mộ, thảy đều là sai lầm! Những ngày
tháng hoan lạc đó của họ có thể qua được mấy ngày? Sau khi qua hết rồi
thì họ luân lạc đến ba đường ác. Sự việc này Phật Bồ Tát nhìn thấy rất
rõ ràng, đây là chúng sanh khổ nạn. Cho nên loại khổ nạn này không thấy
được, còn những cái khổ thiếu hụt cơm áo ở trước mắt thì rất rõ ràng,
rất dễ thấy.
Những
người đại phú đại quí không biết học Phật, không hiểu được tu tâm,
trong khoảng chớp mắt là đọa tam đồ. Loại khổ nạn này bạn không thể thấy
được, nên mọi người chúng ta bỏ sót mất. Những người bây giờ bần cùng
hạ tiện, nhưng họ một ngày từ sớm đến tối biết niệm Phật. Chúng ta mở to
mắt ra mà xem, qua vài năm nữa thì họ vãng sanh đến Tây Phương Cực Lạc
làm Phật, làm Bồ Tát, họ không có khổ nạn. Người thế gian điên đảo, họ
chỉ nhìn thấy trước mắt, không nhìn vào chiều sâu. Nếu chúng ta không
học Phật, không có tu dưỡng thì cũng không biết, chúng ta làm gì có thể
nghĩ đến những sự việc này?
Thế xuất thế gian Thánh hiền, chư Phật Bồ Tát chính là một cái tâm từ bi. Nhà Phật thường nói: “Từ bi vi bổn, phương tiện vi môn”,
chính là cái tâm này. Lại lấy phương tiện khéo léo áp dụng trong đời
sống, áp dụng trong đối nhân xử thế để giáo hóa chúng sanh. Áp dụng
trong đời sống là tự hành; áp dụng trong đối nhân xử thế tiếp vật là hóa
độ tha nhân. Tự hành, hóa tha là bổn trước Chân Thành – Thanh Tịnh – Bình Đẳng – Chánh Giác – Từ Bi.
Họ thành tựu sự nghiệp của thánh hiền, siêu phàm nhập thánh. Việc hiếu
đạo, họ có khả năng tận hiếu. Đối người tiếp vật thì họ có đầy đủ lòng
nhân từ, nhân ái với người, thương yêu với vật. Gặp việc thiện, họ sanh
tâm hoan hỷ, thành tựu việc tốt cho người. Gặp việc ác, họ có khả năng
nhẫn chịu. Bạn tỉ mỉ mà quan sát, những người đó một niệm chân thành,
hòa khí, đoàn kết, nên phước đức của họ không thể tính đếm được.
Các
vị có thể xem thấy từ Thế Tôn, từ Khổng Tử. Phu tử một đời đối nhân xử
thế là “Ôn, Lương, Cung, Kiệm, Nhượng”. Hai vị đại đức này là mẫu mực
cho chúng ta. Phật pháp không phải là tôn giáo, mà Phật pháp là sư đạo.
Đức Khổng Tử và đức Phật Thích Ca đều là mô phạm, là tấm gương tốt nhất
cho chúng ta. Cả hai đều làm công tác giáo dục, người thế gian tôn xưng
các Ngài là nhà giáo dục xã hội. Chúng ta là đệ tử của thánh hiền, phải
nên hướng đến các Ngài mà học tập.
Ấn
Quang đại sư đặc biệt giới thiệu quyển sách này để cho chúng ta có một
chỗ bắt tay vào. Đây chính là phương tiện khéo léo mà trong Phật pháp
gọi là “Tối sơ phương tiện”. Chúng ta xem đoạn thứ nhất của bổn văn. Thái Thượng viết:
“Họa phước vô môn,
Duy nhân tự chiêu.
Thiện ác chi báo,
Như ảnh tùy hình”.
Bốn
câu này là tổng cương lĩnh của Cảm Ứng Thiên. Toàn văn trên thực tế
chính là chú giải của bốn câu này, thuyết minh một cách tỉ mỉ bốn câu
này. Trong bốn câu, hai câu trước là chủ, hai câu sau là nền. Hai câu
nói này nếu các vị tham thấu thì có thể hóa hung thành kiết, có khả năng
thành thánh, thành hiền, cũng có khả năng làm Phật, làm Tổ.
Họa phước từ đâu mà đến? Là tự làm, tự chịu, do chính mình tạo ra. Đây là nguyên lý căn bản của cảm ứng. Phật pháp nói: “Phá mê khai ngộ, ly khổ đắc lạc”,
chẳng phải là hai câu nói này hay sao? Mê-ngộ là năng chiêu; khổ-lạc là
sở chiêu; trí cùng lạc là phước; mê cùng khổ là họa. Đây là một thiên
tông chỉ chủ yếu, là tổng thuyết tồn tâm của thánh hiền nhân. Chúng ta
nếu muốn cầu phước, tránh họa, có thể làm được hay không? Cầu Phật Bồ
Tát thần minh bảo hộ hay miễn xá tội lỗi cho chúng ta, đây đều là mê
tín, không hợp nguyên lý của cảm ứng. Nếu các bạn đem hai câu nói này
tham thấu, bạn sẽ không cần đi cầu thần minh bảo hộ, vì biết đó là mê
tín.
“Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu”.
Họa phước là tự mình tạo, tự mình tu thiện, tự mình hồi đầu là được
phước; tự mình tạo ác mà không thể hồi đầu, đó là họa, không liên can gì
đến người khác. Đạo lý này chúng ta phải hiểu, đây là chân lý. Trên
kinh Đại thừa, Phật thường nói: “Phật không độ chúng sanh”, chúng sanh làm sao được độ? Là chúng sanh tự mình giác ngộ, tự mình độ mình. “Ta tự ngộ, tự tu, tự độ”, đây là Phật nói lời chân thật. Tự ngộ, tự tu, tự độ, đó chẳng phải là “duy nhân tự chiêu”
hay sao? Ta đọa lạc tam đồ, đọa lạc đến địa ngục, cũng chẳng phải là
người khác can thiệp đến, là tự mình tạo tác ác nghiệp chiêu cảm đến ác
báo, làm sao có thể trách người? Phật Bồ Tát tuy rất từ bi nhưng không
thể thêm cho chúng ta một chút phước, cũng không thể nào thay cho chúng
ta chịu một ít tội, hay miễn thứ cho chúng ta một ít tội, vì các Ngài
làm không được. Nếu Phật Bồ Tát làm như vậy thì chúng ta liền không thể
tin tưởng các Ngài. Phật Bồ Tát dạy bảo chúng ta, hôm nay ta hưởng
phước, phước từ nơi nào đến? Hôm nay ta thọ tội, tội từ nơi nào đến?
Ngài đem chân tướng sự thật này nói cho chúng ta nghe tường tận, đem đạo
lý giảng cho chúng ta nghe rõ ràng để chúng ta giác ngộ. Chúng ta không
còn tạo ác nghiệp thì họa liền rời khỏi; chúng ta nỗ lực hành thiện thì
phước liền hiện tiền, đây là lời giáo huấn chân thật của Phật Bồ Tát.
Chúng ta nghe rồi, xem rồi, thấy hợp tình, hợp lý, hợp pháp thì vui vẻ
tiếp nhận, tự cầu được phước. Cá nhân như vậy, gia đình như vậy, xã hội,
quốc gia, thế giới cũng là như vậy. Hy vọng mọi người chúng ta tự mình
trân trọng.
“Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu”.
Câu này nói rõ nguyên lý cảm ứng đạo giao. Văn tự tuy đơn giản, nhưng
đạo lý sâu thẩm. Dùng nhãn quan khoa học ngày nay để nhìn cái gọi là cảm
ứng tâm điện. Tâm là thật, điện là tỉ dụ. Tỉ dụ luôn không thể tỉ dụ
đến được thỏa đáng, chỉ có thể tỉ dụ gần giống. Hiện tượng vật lý ở thế
gian, tốc độ của điện là nhanh nhất, cùng với tốc độ ánh sáng là đồng
nhau. Thế nhưng tốc độ cảm ứng của tâm còn nhanh hơn không biết bao
nhiêu lần so với tốc độ ánh sáng và điện, nói đơn giản là không thể so
sánh. Tốc độ của sóng điện một giây mới có ba mươi vạn cây số, còn trong
tâm, tốc độ của ý niệm vừa sanh liền khắp hư không pháp giới. Chúng tôi
trong lúc giảng đã nhiều lần nói qua với các vị, đây là nói nguyên lý
của cảm ứng.
Trong
“Hội Biên” nội dung rất phong phú, nêu ra rất nhiều công án, cố sự để
chứng minh. Kỳ thật, những liệt cử chứng minh này nêu ra không hết. Chỉ
cần chúng ta tĩnh lặng quan sát hoàn cảnh chung quanh, liền có thể thể
nghiệm được cảm ứng là hiện tượng chân thật, người phương Tây gọi là
chân lý. Đoạn thứ năm trong “Hội Biên” nêu ra một câu nói rất hay được
trích từ trong “Đàn Kinh” của Lục Tổ Huệ Năng (đại sư Thiền tông đời
Đường): “Nhất thiết phước điền, bất ly phương thốn”. Câu này là tổng thuyết, cùng một ý với “họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu”.
“Phương thốn”
chính là ý niệm của ta. Khởi tâm động niệm trong lòng liền cảm được
kiết hung, họa phước. Quả báo nhỏ gọi là kiết hung, lớn thì gọi là họa
phước. Phật ở trên kinh nói: “Kiết hung, họa phước đều do tâm tạo”,
lại nói, “tội và phước”, hai việc này cùng “khổ và lạc”, hai loại quả
báo này đều là do ba nghiệp thân-ngữ-ý tạo tác mà chiêu cảm. Người thế
gian không hiểu được đạo lý này. Nếu như thông suốt đạo lý này, họ mới
thực sự tự cầu đa phước. Không hiểu rõ đạo lý này, tùy thuận phiền não
vọng tưởng của chính mình mà tạo tác, thì quyết định chiêu cảm họa hung.
Chúng ta muốn tiêu trừ thiên tai nhân họa của thế gian này, có thể làm
được không? Đáp án là khẳng định, quyết định có thể làm được. Dùng
phương pháp gì? Giáo dục!
Lần
này ở Âu châu, cục trưởng văn hóa đến thăm tôi, nói về vấn đề hòa hợp
chủng tộc, hòa hợp tôn giáo. Làm thế nào để mọi người đều có thể buông
bỏ thành kiến của chính mình, tôn trọng lẫn nhau, hòa thuận cùng ở với
nhau? (Bởi vì ông ấy ở Âu Châu chủ quản những sự vụ này). Tôi nói với
ông ấy một câu, đó là “Giáo dục”. Cổ thánh tiên hiền Trung Quốc dạy bảo
chúng ta, “kiến quốc quân dân, giáo học vi tiên”. Bạn kiến lập một chánh
quyền, kiến lập một quốc gia, bạn dùng phương pháp gì để thống trị nhân
dân? Giáo dục là trước nhất. Ngày nay, nếu muốn đạt đến xã hội hài hòa,
thế giới hòa bình, ngoài giáo dục ra thì không có biện pháp thứ hai.
Nội dung của giáo dục là gì? Chính là đạo lý của cảm ứng. Nếu đem đạo lý
làm cho rõ ràng, đem chân tướng sự thật làm cho thông suốt, khởi tâm
động niệm của chúng ta tự nhiên sẽ tốt hơn. Chúng ta nỗ lực hành thiện,
tiêu chuẩn của thiện là thập thiện nghiệp đạo. Nhiều người đều có thể
phụng hành thập thiện nghiệp đạo thì thiên tai nhân họa tự nhiên không
còn nữa, không thể phát sinh.
Phật
ở trên kinh giảng, nếu như vọng tưởng ý niệm của chúng ta tùy thuận
theo sân hận, tùy thuận theo đố kỵ, tà dâm thì hiện tượng địa ngục liền
hiện tiền. Địa ngục từ đâu đến, ta cần phải hiểu rõ. Nếu như tùy thuận
san tham, tham không biết chán, tự mình có nhưng không thể xả ra bố thí
là tạo nghiệp ngạ quỷ, cảnh giới ngạ quỷ liền hiện tiền. Nếu như tùy
thuận ngu si, cái gì gọi ngu si? Thế xuất thế gian pháp không có năng
lực phân biệt chân-giả, không có năng lực phân biệt tà-chánh, không có
năng lực phân biệt phải-quấy, thậm chí đến thiện-ác, lợi-hại đều điên
đảo, đây là ngu si. Ngu si là hành nghiệp của súc sanh. Cho nên tham sân
si là nghiệp nhân của ba ác đạo. Chúng ta bình lặng quan sát quảng đại
quần chúng trong xã hội này, ai mà không có tham sân si? Không những có,
mà còn đang không ngừng phát triển với tốc độ tăng trưởng thật đáng lo
sợ. Tham sân si, những ý niệm này tăng trưởng thì ba đường ác hình thành
nên rất nhanh. Sợ chúng ta chưa kịp đọa vào ba đường ác thì e rằng xã
hội này đã biến thành địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh rồi. Các vị thử nghĩ
xem, điều này có đáng sợ không?
Ngày
nay có một số người giác ngộ, những nhân chí sĩ muốn cứu vãn xã hội
này, như Ấn Quang Đại sư, Ngài dẫn đầu chúng ta, khải thị, bảo chúng ta
cứu cấp kiếp nạn này. Đạo lý của nhà Nho không còn kịp nữa, đạo lý của
nhà Phật cũng không còn kịp, nên Ngài mới đề xướng Liễu Phàm Tứ Huấn,
Cảm Ứng Thiên và Văn Xương Đế Quân Âm Trắc Văn để cứu khổ, cứu nạn.
Trong
tất cả ác nghiệp, sát nghiệp và dâm nghiệp là nặng nhất. Cho nên đối
với hai loại ác nghiệp này, trong An Thế Toàn Thư, dùng độ dài của bài
viết đặc biệt nói rõ, nhắc nhở để chúng ta chú ý. Hai loại ác nghiệp này
là đại tội căn bản của họa hung. Thập thiện có thể cứu vãn vận kiếp.
Niệm Phật là thiện pháp đệ nhất. Sau cùng họ có “Tây Quy Trực Chỉ”,
khuyên dạy chúng ta niệm Phật cầu sanh thế giới Cực Lạc.
Nghiệp
nhân của ba đường ác, chúng ta hiểu rõ rồi, còn ba đường thiện. Trong
ba đường thiện, cõi A Tu La tuy có thể hành thiện, tâm hạnh cùng với
thập thiện nghiệp đạo tương ưng, thế nhưng tập khí ngạo mạn của họ quá
nặng, nóng nảy quá nặng, tâm hiếu thắng cũng quá mạnh nên đọa đến cõi A
Tu La. Nếu có thể kiên trì giữ ngũ giới, thập thiện, khởi tâm động niệm,
đối nhân xử thế tiếp vật tuân thủ nguyên tắc này thì có thể được thân
người. Nếu như có thể đem thập thiện nghiệp đạo nâng cao, làm được rất
viên mãn thì đó là Thiên đạo. Trong giáo dục Phật pháp, mục tiêu thứ
nhất là dạy người đoạn ác tu thiện. Đây chính là bảo chứng cho chúng ta
đời sau không đọa ác đạo, ngoài ra còn có thể được phước báu trời người,
nhưng không thể siêu việt tam giới, siêu việt sáu cõi luân hồi.
Người
thông minh hơn một chút biết được ba đường thiện cũng không phải là
biện pháp, không có khả năng giải quyết gốc rễ, nên phải hướng cao lên,
siêu việt tam giới, như A La Hán đã biết được nhân ngã, biết được chân
tướng sự thật, giống như trong kinh Kim Cang đã nói: “Nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”. Cho nên, buông bỏ chấp trước đối với ta chính là Phật pháp thường nói “vô ngã”,
cũng chính là hữu ngã thì có sáu cõi luân hồi; vô ngã thì sáu cõi luân
hồi liền không có. Siêu việt sáu cõi luân hồi thì chứng được quả A La
Hán.
Nếu
như họ hiểu rõ những hiện tượng này trong vũ trụ là duyên khởi, tánh
không. Những hiện tượng này từ đâu đến? Sáu cõi từ đâu đến? Mười pháp
giới từ đâu đến? Tất cả những hiện tượng này là đồng một duyên khởi.
Hiểu rõ đạo lý này thì ngay đến chấp trước nhỏ nhất cũng xả bỏ, vì biết
được chấp trước là sai lầm. Cảnh giới này cao hơn so với A La Hán, có
thể chứng được địa vị Bích Chi Phật.
Giác
ngộ nhân không, lại có thể phát tâm giúp đỡ tất cả chúng sanh, dạy bảo
tất cả chúng sanh học tập lục độ, đó chính là sự nghiệp của Bồ Tát.
Nếu
lại đem từ bi chân thành, từ bi bình đẳng tự độ, độ người, đây chính là
sự nghiệp của Phật. Những lời này Phật đã nói và đã làm, đây là giảng
nói đến chánh báo. Phật là người, Bồ Tát cũng là người. Chỉ cần một niệm
hồi đầu liền siêu phàm nhập thánh, tại vì sao chúng ta không nỗ lực,
không nghiêm túc học tập? Học tập theo Phật Bồ Tát được đại kiếp đại
lợi, phước báu vô biên.
Kiết
hung họa phước “vô môn”, chính là không nhất định, không có định pháp,
đều ở trong một niệm của con người. Người phàm chỉ biết một niệm thiện
ác, không biết được trong thiện ác còn có khác biệt nhiều đến như vậy.
Phật pháp giảng cho chúng ta nghe một cách thấu triệt, chánh báo của
chúng ta chuyển rồi thì y báo liền theo đó mà chuyển đổi (y báo là hoàn
cảnh chúng ta đang ở). Trên kinh Hoa Nghiêm đã nói, thế giới Hoa Tạng là
hoàn cảnh sinh hoạt của Tỳ Lô Giá Na Phật. Lại xem, thế giới Cực Lạc là
hoàn cảnh sinh hoạt của A Di Đà Phật, gọi là hương đài, bảo thọ. Thanh
tịnh, trang nghiêm từ đâu mà ra vậy? Đều là từ chân thành, từ bi, bình
đẳng giáo hóa chúng sanh mà chiêu cảm biến hiện ra.
Ngày
nay, chúng ta cư trú trên địa cầu này (địa cầu là hoàn cảnh sinh hoạt
của chúng ta), mọi người đều nhìn thấy, đều nghe thấy địa cầu này đã
bệnh rồi, bệnh rất nghiêm trọng, nơi nơi đều là thiên tai nhân họa.
Thiên tai nhân họa từ nơi nào đến vậy? Từ tham sân si mà biến hiện ra.
Tâm tham nặng thì thủy tai liền hiện tiền; tâm sân nhuế nặng thì hỏa tai
liền hiện tiền; ngu si là phong tai; tâm địa không bình đẳng là địa
chấn. Xã hội đại chúng bây giờ có tâm trạng như thế nào thì sẽ chiêu cảm
những thiên tai nhân họa như thế đó. Cho nên tôi thường nói, thiên tai
nhân họa có thể tiêu trừ, có thể hóa giải, nhưng những sự việc này chính
trị không làm được, quân sự vũ lực không làm được, kinh tế không làm
được, khoa học kỹ thuật cũng không làm được, mà do ở lòng người phải
chuyển biến nhân tâm, chỉ có sự dạy dỗ của thánh hiền mới có thể làm
được. Giáo học của thánh hiền là giáo học bình đẳng.
Tôi
tiếp xúc và trò chuyện với rất nhiều lãnh tụ tôn giáo trên thế giới.
Bây giờ mọi người đều ý thức được rằng tai nạn thế gian này thật đáng
sợ. Họ đều mong cầu chúng ta làm sao có thể hòa bình, hòa thuận cùng ở
với nhau, có thể hợp tác lẫn nhau. Ý thức này rất là tốt. Trong Phật
pháp nói, thỉ giác bắt đầu giác ngộ rồi. Đây là một hiện tượng tốt. Nếu
muốn thực hiện nguyện vọng của chúng ta thì phải qua giáo dục. Tôi nói
với họ, bây giờ tôn giáo không có cách gì giải quyết vấn đề, bởi vì
chúng ta chỉ có “Tôn” mà không có “Giáo”, mọi người nghĩ thử xem có đúng
hay không? Tôi đã nói trong hội nghị hòa bình tôn giáo thế giới ở
Paris, chúng ta có “tôn”, cần phải coi trọng “giáo dục”. “Tôn giáo”,
giáo là giáo dục, làm thế nào dạy bảo tín đồ của các vị phát huy đại ái
bình đẳng. Trong Thiên Chúa giáo, Ki Tô giáo nói “Thượng đế ái thế
nhân”. Các vị nghĩ xem, câu nói “Thượng đế ái thế nhân” này tuyệt nhiên
không phải nói Thượng đế chỉ yêu thương tín đồ của Ngài. Người tín
ngưỡng Thượng đế thì Thượng đế yêu thương họ; người không tín ngưỡng Thượng đế, Thượng đế vẫn yêu thương
họ, bởi vì Ngài yêu tất cả thế nhân mà, không thể nói có khác biệt ở
trong đó. Nhà Phật nói nhân từ bình đẳng, ái hộ tất cả chúng sanh. Dùng
tâm yêu thương chân thành ban pháp vô tư, vì tất cả chúng sanh phục vụ
vô điều kiện, vậy thì vấn đề này liền được giải quyết. Nếu còn mang điều
kiện thì không thể giải quyết được vấn đề, cho nên phải vô điều kiện mà
vì tất cả chúng sanh phục vụ. Chúng ta học rồi thì phải làm được. Học
rồi mà không làm được vậy có ích gì? Ta chiêu cảm đến vẫn là tai nạn.
Sau khi học rồi thì phải lập tức áp dụng, phải làm cho được.
Ngày
nay chúng ta thăm hỏi các tôn giáo, các dân tộc, chúng ta phải đem lòng
yêu thương chân thành, vô tư cúng dường, nhiệt tình giúp đỡ. Chúng ta
được lời hưởng ứng, chứng minh Phật Bồ Tát đã nói, chứng minh “Thái
Thượng” đã nói là “duy nhân tự chiêu”. Chúng
ta chiêu cảm đến là rất nhiều chúng sanh cũng yêu mến đối với chúng ta.
Từ điểm này, chúng ta liền có thể thể hội một cách sâu sắc, xã hội an
định thế giới hòa bình là có hy vọng. Phải nhờ vào các tôn giáo trên
khắp thế giới nhiệt tâm dẫn dắt, phát huy đại ái, vậy mới có thể giải
quyết tai họa trước mắt. Cái ý này chúng ta nên thể hội sâu sắc.
Tốt rồi, thời gian đã hết, chúng ta chỉ giảng đến đây.
A Di Đà Phật.
Thái Thượng Cảm Ứng Thiên (tập 03)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore
Thời gian: Năm 1999
Cẩn dịch: Viên Đạt cư sĩ, Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Hương
0 Kommentare:
Post a Comment