Sáu điều dạy trên đây, nếu chúng ta thực hiện một cách
triệt để thì trong gia đình, cha mẹ, vợ chồng, anh em, đều được hòa thuận yên
vui, gia nghiệp mỗi ngày một thịnh đạt; quốc gia được hùng cường thịnh trị, thế
giới đều hòa bình an lạc. Riêng về trong giới Phật tử chúng ta, nếu áp dụng đúng
đắn pháp "Lục hòa", thì sự tu học của chúng ta mau được tiến bộ, con
đường giải thoát được gần hơn, và cảnh giới Cực lạc không phải chỉ là một ước
vọng...
HT. Thích Thiện Hoa
(Trích Phật Học Phổ Thông)
(Trích Phật Học Phổ Thông)
A. MỞ ĐỀ
1. Tai hại của sự bất hòa
Trong sự sống chung đụng hằng ngày, không có gì tai hại
bằng sự bất hòa. Sự bất hòa làm xung đột cuộc sống chung và bắt buộc người ta
phải xa nhau, nếu không muốn ở gần nhau để làm khổ cho nhau.
Trong gia đình, anh em không hòa, thì tình cốt nhục
chia ly. Vợ chồng không hòa, thì gia nghiệp chẳng thành, con cái phải bị đau
khổ, vì gần cha thì phải xa mẹ; gần mẹ thì phải xa cha. Xóm làng không hòa thì
hay sinh ra rầy rà, kiện cáo, chém giết lẫn nhau. Quốc gia không hòa thì sanh
ra giặt giã loạn lạc, dân chúng khổ sở. Nhân loại bất hòa, thì chiến tranh
tiếp diễn, nhân sinh điêu đứng, suy tàn.
2. Sự quan trọng của nhu hòa
Đã thấy sự bất hòa như thế nào, tất nhiên cũng phải
thấy đức tánh nhu hòa là cần thiết như thế nào cho đời sống tập thể.
Chúng ta thường nghe nói: "Dĩ hòa vi quí
(lấy hòa làm quý). Bốn chữ giản dị ấy có một công dụng ích lợi vô cùng.
Những ai lấy nó làm phương châm, thì bất luận việc lớn việc nhỏ đều thành tựu
dễ dàng. Trái lại, những ai khinh thường nó, thì công việc chung không bao giờ
có kết quả.
Sách Nho cũng có nói: "Thời thế thuận, không
bằng địa thế lợi; địa thế lợi, không bằng nhân tâm hòa" (thiên thời
bất như địa lợi, địa lợi bất như nhân hòa). Xem thế thì đủ biết: yếu tố hòa là
quan trọng hơn hết trong mọi việc, mọi tổ chức. Gia đình hòa thì gia đình có
hạnh phúc; nước nhà hòa thì nước nhà được thạnh trị; nhơn loại hòa thì thế giới
an lạc.
Hiểu biết hơn ai hết sự quan trọng của đức tánh nhu
hòa trong đời sống tập thể, đức Phật đã chế ra pháp "Lục hòa" cho
hàng Phật tử.
B. CHÁNH ĐỀ
I. ĐỊNH NGHĨA
Lục hòa là sáu phương pháp cư xử với nhau cho hòa hợp
từ vật chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm. Hòa ở đây là hòa với mục
đích tiến tới sự cao đẹp, đến con đường giải thoát, toàn thiện toàn mỹ, chứ
không phải hòa một cách nhu nhược, thụ động, ai nói quấy cũng ừ, ai nói phải
cũng gật. Hòa ở ở đây cũng không phải là phương tiện trong giai đoạn để rút
thắng lợi về mình, rồi lại chiến. Hòa ở đây nhằm mục đích làm lợi cho tất cả,
gây hạnh phúc cho tất cả, trong ấy có bòng dáng "tự và tha" không có
so đo "ta và người".
II. LỤC HÒA LÀ NHỮNG GÌ?
Lục hòa gồm có sáu điểm sau đây:
1. Thân hòa cùng ở
(Thân hòa đồng trú)
Nghĩa là cùng nhau ở dưới một mái nhà, trong một phạm
vi, một tổ chức, hôm sớm có nhau, cùng ăn cùng ngủ, cùng học cùng hành.
Khi đã sống chung đụng hằng ngày như thế, thì phải hòa
thuận với nhau, không dùng sức mạnh, võ lực để lấn hiếp, đánh đạp nhau. Nếu là
anh em, vợ chồng, con cái trong một gia đình, thì phải trên thuận dưới hòa, anh
ra anh, em ra em, chồng ra chồng, vợ ra vợ, chứ không được lộn xộn vô trật tự,
hiếp đáp, sát phạt nhau.
Nếu là những Phật tử, cùng ở với nhau học tập dưới một
mái chùa, thì tuy là không phải ruột thịt, nhưng cũng là những người con chung
của đức Phật, cùng một lý tưởng mục đích, thì cũng phải lấy cái hòa khí làm
đầu, không được chia phe phái, ỷ mạnh hiếp yếu, ỷ thế hiếp cô, mạnh ai nấy
được.
Nếu là đồng bào, cùng chung sống trong một quốc gia xã
hội, thì phải lấy sự đoàn kết làm đầu, không được gây cảnh nồi da xáo thịt,
chia năm xẻ bảy, làm thành giặc chòm, giặc xóm; sát phạt nhau, chém giết nhau.
Người nước ta có câu ca dao rất có ý nghĩa:
"Bầu ơi
thương lấy bí cùng,
Tuy rằng
khác giống nhưng chung một giàn".
Khác giống, mà sống chung trên một giàn, còn phải hòa
thuận, thương yêu nhau; huống chi là cùng một dân tộc, một giống nòi !
Cũng thế, đã là nhân loại, cùng chung sống trên quả địa
cầu nầy, thì dù là da trắng, da đen, da vàng hay da đỏ cũng là "Tứ hải
giai huynh đệ" cả. Đã là giống người như nhau mà lại đem nhau ra chiến
trường bắn giết nhau, tàn sát nhau, làm mồi cho súng đạn vô tri, thì thật là vô
cùng phi lý.
Tóm lại, đã cùng chung sống với nhau trong một địa vị,
một giới hạn, một hoàn cảnh, thì bao giờ cũng phải hòa hảo với nhau.
2. Lời nói hòa hiệp, không tranh cãi
nhau
Muốn thân không đánh đạp nhau, không đối chọi nhau,
khi ở bên cạnh nhau, thì lời nói phải giữ gìn cho được ôn hòa nhã nhặn; trong
mọi trường hợp, nhất thiết không được rầy la, cãi cọ nhau.
Có người thân hòa mà khẩu không hòa, ăn thua nhau từng
câu nói, tìm cách mỉa mai, châm thọc nhau, hạch hỏi nhau từng tiếng một, cuối
cùng sanh ra đấu đả nhau.
Trong một gia đình, cũng vì một lời nói không hòa, mà
nhiều khi anh em xa lìa nhau, vợ chồng ly tán nhau, cha con không thấy mặt
nhau, trỏ thành những kẻ xa lạ, thù hằn nhau.
Trong xã hội, cũng vì một lời nói không hòa, mà nhiều
khi quốc gia phải lâm nạn chiến tranh, nhân loại phải bị đẩy vào lò sát sanh
thảm khốc.
Bởi thế, nên thân thể hòa chưa phải là đủ, mà Phật dạy
phải hòa cả miệng nữa. Nghĩa là người Phật tử phải nói lời dịu dàng, hòa nhã
với nhau, nhất thiết không được cãi lẫy, gây gổ nhau. Nếu có gì thắc mắc, cần
phải bàn cãi cho ra lẽ, thì tuyệt đối phải dùng lời nói ôn tồn, hòa nhã mà bàn
luận.
3. Ý hòa cùng vui (Ý
hòa đồng duyệt)
Duy thức học có nói: Ý là hệ trọng hơn hết, nó là
động cơ thúc đẩy miệng và thân. Kể công thì nó đứng đầu, mà kết tội, nó cũng
đứng trước (công vi thủ, tội vi khôi). Bởi thế cho nên, trong một gia đình,
một đoàn thể, mỗi người cần giữ gìn ý tứ, tâm địa của mình. Nếu ý tưởng hiền
hòa, vui vẻ thì thân và lời nói dễ giữ được hòa khí. Trái lại nếu ý tứ bất hòa,
thường trái ngược nhau, ganh ghét nhau, thì thân và khẩu khó mà giữ cho được
hòa hảo. Dù có cố gắng bao nhiêu, để thân và khẩu được hòa khí, hay vì sợ một
uy quyền gì trên, mà phải ăn ở hòa thuận với nhau, thì sự hòa thuận này cũng
chẳng khác gì một lớp sơn đẹp đẽ, tô lên một tấm gỗ đã mục. Một khi sự xung đột
bên trong đã đến một mức độ không thể chứa đựng được nữa, tất nó sẽ nổ tung ra
trong lời nói hay trong những cái đấm đá; cũng như tấm gỗ khi đã mục quá rồi
thì thế nào lớp sơn bên ngoài cũng rạn nứt, đổ bể.
Đức Phật đã thấu rõ như thế, nên Ngài dạy phải có tâm
ý vui vẻ hòa hiệp trong khi chung sống với nhau.
Muốn được tâm ý hòa hiệp, phải tu hạnh Hỷ xả. Hỷ xả
nghĩa là bỏ ra ngoài những sự buồn phiền, hờn giận, không chấp chặt trong lòng
những lỗi lầm của kẻ khác. Có như thế, tâm hồng mới thư thái, vui vẻ được, và ý
nghĩ mới trong sáng, thanh tịnh được. Vậy Phật tử chúng ta hãy cố gắng tu hạnh
hỷ xả mới được.
4. Giới hòa cùng tu
(Giới hòa đồng tu)
Trong một tổ chức, một đoàn thể nào có trật tự, tất
đều có kỷ luật quy củ hẳn hoi.
Trong đạo Phật, mỗi Phật tử, tùy theo địa vị cấp bậc
tu hành của mình, mà thọ lãnh ít hay nhiều giới luật. Người tại gia thì thọ Ngũ
Giới; người xuất gia nếu là Sa Di thì thọ 10 giới; nếu là Tỳ kheo thì thọ
250 giới; nếu là Tỳ kheo ni thì thọ 348 giới…v.v...
Khi Phật tử hội họp lại, hay khi cùng chung sống để tu
học, mỗi ngày tùy theo cấp bậc của mình mà giữ giới. Đã cùng một cấp bực với
nhau, thì tất phải thọ giới và giữ giới như nhau, chứ không được lộn xộn, giữ
giới nầy, bỏ giới kia, giữ giới kia, bỏ giới nọ, mỗi người mỗi thứ. nếu có sự
vô kỷ luật nầy thì lẽ tất nhiên tổ chức ấy sẽ tan rã. Vì thế, đức Phật dạy: khi
Phật tử đã chung sống với nhau, thì triệt để phải cùng nhau tu những giới luật
như nhau, giữ đúng những giới luật của cấp bực mình.
Nói rộng ra, trong một trường học, một gia đình Phật
tử, một hội chẳng hạn, bao giờ cũng lấy kỷ luật làm đầu. Trong trường, nếu học
sinh không giữ kỷ luật của trường, ai muốn ra cứ ra, ai muốn vào cứ vào, ai
muốn học cứ học, ai muốn chơi cứ chơi, thì trường ấy ắt phải sập. Trong gia
đình Phật tử, đoàn sinh mỗi người mỗi làm theo mỗi ý riêng mình, không tuân năm
điều luật của gia đình, không làm theo huấn lệnh của Huynh trưởng, thì gia
đình Phật tử ấy sẽ tan rã. Trong một hội viên không tôn trọng điều lệ của hội,
phân chia giai cấp, tự cho mình sang không cần giữ giới như người hèn, tự cho
mình giàu, không gữ giới như người nghèo, tự cho mình có học thức không giữ
giới như người vô học; nếu có tình trạng như thế tất hội ấy sẽ tan rã.
Nói tóm lại, trong một đoàn thể, đạo hay đời, nếu
không cùng nhau gìn giữ giới điều, kỷ luật, quy tắc, thì chúng ta không bao giờ
sống chung với nhau được. Vậy Phật tử, muốn hòa hợp cùng nhau để tu tập, thì
mỗi người cần phải gìn giữ giới luật như nhau.
5. Thấy biết giải bày
cho nhau hiểu (Kiến hòa đồng giải)
Trong sự sống chung, mỗi người hiểu biết được điều gì,
khám phá được điểm gì, phải giải bày, chỉ bảo cho người khác hiểu. Như thế
trình dộ hiểu biết mới không chênh lệch, sự tu học mới tiến đều về tinh thần
bình đẳng, mới dễ giữ vững giữa những người cùng ở một đoàn thể.
Khi ta khám phá ra được một điều gì mới lạ, hay có một
ý kiến gì hay ho, nếu ta không giải bày cho người chung quanh, thì không những
ta là một kẻ ích kỷ, mà còn tạo ra một sự tắc nghẽn giữa sự thông cảm với những
người khác. Lòng ích kỷ và sự tắc nghẹn ấy là mối dây của sự chia rẽ, bất hòa,
xung đột. Trước một vấn đề, mỗi người sẽ nghĩ, sẽ thấy mỗi cách, và do đó, sẽ
gây nghi ngờ, hoang mang trong đoàn thể, vì phần đông không biết tin vào ai.
Nhất là trong kinh sách Phật, vừa nhiều, vừa cao siêu,
vừa đủ loại, mỗi Phật tử có thể khám phá ra một khía cạnh khác nhau, tìm ra một
ý nghĩa có thể đúng, mà cũng có thể sai. Trong người trường hợp ấy, mà không
gấp rút giải bày quan điểm, ý kiến của mình cho mọi người trong đoàn thể hiểu
biết, thì khó mà có thể sống hòa hiệp với nhau.
6. Lợi hòa cùng chia
cân nhau (Lợi hòa đồng quân)
Về tài lợi, vật thực, đồ dùng phải phân chia cho cần
nhau hay cùng nhau thọ dụng, không được chiếm làm của riêng, hay giành phần
nhiều về mình.
Trong khi sống chung, nếu có người đem cho vật thực, y
phục, mền chiếu, thuốc thang v.v...thì phải đem quân phân tất cả, nghĩa là chia
cho đều nhau, không vì tình riêng, kẻ ít người nhiều, kẻ tốt người xấu, nhưng
phải lấy công bằng làm trọng. Giữ được như thế, thì dù ở chung nghìn người cũng
vẫn hòa vui. Trái lại, nếu vì tính tư, ý riêng tham tài ham lợi thì dù chỉ có
vài ba người chung sống với nhau, cũng không thể hòa được.
Trong xã hội sở dĩ có sự xung đột dữ dội, phân chia
giai cấp, cũng do vì thiếu sự "Lợi hòa đồng quân" cả. Người giàu thì
giàu quá, kẻ nghèo thì nghèo xơ, kẻ dinh thự nguy nga ruộng đất cò bay thẳng
cánh, có kẻ không có một chòi tranh vách đất. Do đó, không thể có hòa bình
được: người vô sản xung đột với kẻ hữu sản, nước nghèo đói sanh sự với nước phú
cường.
Nếu nhân loại thâm hiểu rằng: cuộc giàu sanh phú quý
trong nhân gian, như hạt sương đọng trên cành hoa, công danh vinh hiển trên đời
như bọt nước nổi trên mặt biển, thì chắc sự chênh lệch giữa giàu và nghèo sẽ
bớt đi nhiều lắm, và nhân loại sẽ bớt xung đột nhau hơn.
Với một tinh thần bình đẳng lợi tha, từ bi cứu khổ,
với một tri huệ soi thấu rõ sữ vô thường, giả tạm của cuộc đời, Đức Phật đã
dạy: "Có tài lợi, nên tùy phận chia sớt cho nhau", hay triệt để hơn
nữa: "Lợi hòa đồng quân".
Vậy chúng ta đã là Phật tử, phải nên cố gắng thực hành
cho được lời dạy ấy.
C. KẾT LUẬN
Để có một ý niệm tổng quát về Lục hòa chúng ta hãy ôn
lại một lần nữa, những ý chính trong 6 điều chỉ bảo của đức Phật:
1) Hãy chung
sống với nhau một cách hòa hợp, hãy chung lưng đấu cật, đùm bọc nhau, chứ không
nên dùng võ lực để đàn áp nhau.
2) Hãy nói năng
với nhau một cách dịu dàng, hòa nhã; nếu có điều gì thắc mắc cần bàn cãi, thì
cũng phải bàn cãi trong ôn hòa, lễ độ.
3) Hãy nuôi
dưỡng ý tốt đẹp đối với nhau, hãy trau dồi đức hỷ xả; đừng bao giờ thù hiềm,
ganh tỵ nhau.
4) Hãy giữ đúng
giới luật như nhau, hãy lấy kỷ luật làm đầu. Vô kỷ luật thì không một đoàn thể
nào có thể tồn tại được.
5) Hãy giải bày
những sự hiểu biết, những ý kiến của mình cho người chung quanh. Người thông
hiểu nhiều, phải có bổn phận chỉ bày cho người hậu tiến và dắt họ đi kịp mình.
6) Hãy chia
đồng đều tài lợi thu thập được cho những người cùng sống chung với mình, để mọi
người đều được thỏa mãn, vui vầy.
Sáu điều dạy trên đây, nếu chúng ta thực hiện một cách
triệt để thì trong gia đình, cha mẹ, vợ chồng, anh em, đều được hòa thuận yên
vui, gia nghiệp mỗi ngày một thịnh đạt; quốc gia được hùng cường thịnh trị, thế
giới đều hòa bình an lạc.
Riêng về trong giới Phật tử chúng ta, nếu áp dụng đúng
đắn pháp "Lục hòa", thì sự tu học của chúng ta mau được tiến bộ, con
đường giải thoát được gần hơn, và cảnh giới Cực lạc không phải chỉ là một ước
vọng.
Vậy xin khuyên các Phật tử mỗi người sau khi học hiểu
rõ Lục hòa, phải thật hành cho được và khuyên mọi người thật hành theo, để cùng
hưởng hạnh phúc chung.
0 Kommentare:
Post a Comment