"Nếu chưa vượt được của ải ấy, ít nhất là trên phương diện
lý thuyết, thì có thể nói là người tu tập chưa lọt được vào cảnh giới của Đạo
Pháp..."
Phật giáo giảng rằng mọi vật thể và mọi biến cố, tức mọi hiện tượng trong thế giới này là « ảo giác », « bản thể tối hậu » của chúng chỉ là « trống không ». Bản chất của tất cả những gì xảy ra chung quanh ta, trong đó kể cả bản thân và tâm thức của ta nữa, đều « không thật », tức « không hàm chứa bất cứ một sự hiện hữu tự tại hay nội tại nào cả ».
Vậy thế giới này đây, tức môi trường
trong đó chúng ta đang sinh sống, thật sự là gì ? Chúng ta là ai? Mọi
sự vật và biến cố, tức mọi hiện tượng do đâu mà có, nguồn gốc của chúng là gì?
Để giải đáp cho những câu hỏi trên đây,
Phật giáo đã đưa ra hai khái niệm then chốt là « Tánh không » (Sunyata) của
mọi vật thể và mọi biến cố và khái niệm về sự « tương liên, tương kết
và tương tạo » của chúng. Tiếng Phạn gọi khái niệm tương liên là Pratiya samutpada, kinh sách gốc Hán dịch
là nhân duyên sinh, duyên sinh, duyên
khởi. Hai khái niệm nêu lên trên đây, Tánh
không và nguyên lý tương liên, là
những gì thật đặc thù và độc đáo của Phật giáo, bao hàm và liên kết cả hai lãnh
vực hiểu biết : Khoa học và Triết học. Các học giả và triết gia Hy lạp, đồng
thời hoặc sau Đức Phật một vài trăm năm, hình như đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của
tư tưởng Phật giáo. Tiêu biểu nhất là Héraclite (Hêrakleitos), khoảng 540-480
trước Tây lịch, chủ trương sự biến đổi không ngừng của mọi vật thể, những gì sống
là đang chết, những gì chết sẽ trở thành sống, không có ai tắm hai lần trong cùng
một dòng nước... Những phát biểu của Héraclite tuy gần với cái nhìn của Phật giáo
về bản thể của thế giới này, nhưng chưa đủ để so sánh với những gì thật bao quát
và thâm sâu của khái niệm về vô thường trong
Đạo Phật.
Nếu không quan tâm đến một vài tương
đồng thứ yếu giữa nền triết học cổ đại phương Tây và Phật giáo như vừa kể trên đây,
và nếu chấp nhận hai nền Triết học Đông phương và Tây phương phát triển song hành
và cách biệt nhau, thì cũng có thể nói là chưa có một học phái nào hay một triết
gia Tây phương nào « nhìn thấy » được « bản chất trống không » và « nguyên lý tương liên » của mọi hiện tượng do Đức Phật chủ trương
từ hơn hai ngàn năm trăm năm trước. « Nguyên
lý tương liên » và khái niệm về « Tánh không » chẳng những có thể giải thích được cách thức hiện
hữu của mọi hiện tượng trong vũ trụ này trên phương diện Triết học siêu hình mà
cả trên phương diện Khoa học nữa.
Những khái niệm trên đây làm trụ cột
cho căn nhà Đạo Pháp và cũng là những gì khó nắm bắt và khó thấu triệt nhất
trong nền Triết học Phật giáo. Có thể nói là cửa ải cam go nhất mà những người
tu tập phải vượt qua. Nếu chưa vượt được của ải ấy, ít nhất là trên phương diện
lý thuyết, thì có thể nói là người tu tập chưa lọt được vào cảnh giới của Đạo
Pháp.
Tánh không và nguyên lý tương liên trên phương diện ngữ pháp
Tánh
không tiếng Phạn gọi là Sunyata, chỉ định đặc tính hay bản chất trống không của mọi hiện tượng. Sunyata
diễn đạt bằng ngôn từ Tây phương là « Vacuité »
hay « Emptiness ». Tuy cách
dịch này không gây ra khó khăn nào trên phương diên ngữ pháp, nhưng việc tìm hiểu
ý nghĩa thâm sâu và vai tròn then chốt của Tánh
không trong việc tu tập để đạt đến Giác ngộ và Giải thoát vẫn là một vấn đề
thật gay go và tế nhị. Dù sao, quả thật hết sức quan trọng phải phân biệt Tánh không với hai thái cực của nó là chủ
nghĩa Hư vô, còn gọi là Đoạn kiến (Néantisme, Nihilism) và chủ nghĩa Trường
tồn hay Thường kiến, còn gọi là chủ nghĩa Tuyệt đối (Absolutisme, Eternalism). Một số triết
gia và các nền tư tưởng phương Tây thường rơi vào một trong hai thái cực vừa kể.
Nếu như Tánh không hay Sunyata
không đặt thành vấn đề trên phương diện ngữ pháp, thì nguyên lý về hiện tượng tương liên cần phải được định nghĩa và minh chứng rõ ràng hơn. Tiếng
Phạn chỉ định khái niệm về sự tương liên
của vạn vật là pratitya-samutpada. Các
kinh sách gốc Hán dịch chữ này là : duyên
khởi, duyên sinh, sinh duyên, sinh khởi, nhân duyên sinh.... Cách chuyển ngữ
như thế không được chính xác lắm, có thể vì lý do ấy nên một vài kinh sách gốc
Hán thường lẫn lộn khái niệm này với Mười
hai nhân duyên (Thập nhị nhân duyên)
mà tiếng Phạn gọi là Dvadasanidana hay
Dvadasanga-pratityasamutpada. Nguyên lý tương liên chỉ định đặc tính hay bản chất của vạn vật, trong
khi đó Mười hai nhân duyên chỉ định
những mối liên hệ thúc đẩy và nối tiếp nhau từ vô minh đến cái chết, tức là quá
trình của chu kỳ luân hồi.
Hiện tượng tương liên được dịch sang các ngôn ngữ Tây phương bằng chữ Interdependance, có nghĩa là « lệ thuộc lẫn nhau », chữ này chỉ định
thật rõ ràng khái niệm về sự lệ thuộc,
tương kết và tương tạo giữa mọi vật thể và mọi biến cố. Mười hai nhân duyên được dịch sang ngôn ngữ Tây phương là Mười hai mối dây liên kết, hay tương kết, dịch như thế có vẽ sát nghĩa
hơn. Tóm lại, hiện tượng tương liên
mang đặc tính « không gian », tức « trải rộng theo chiều
ngang », trong khi đó Mười hai mối
dây liên kết, tức thập nhị nhân
duyên chỉ định sự liên kết của một chuỗi hiện tượng tiếp nối nhau từ vô
minh đến cái chết, hàm chứa « đặc tính
thời gian » nhiều hơn, « tức phân bố theo chiều dọc » của
« trục thời gian ».
Tính cách kỳ diệu và lạ lùng của Tánh không
Trong một bài báo (Tạp chí Nouvel
Observateur của Pháp, số đặc biệt về Phật giáo, tháng tư-tháng sáu 2003), ông Patrik Carré, một
trong những học giả hàng đầu về Phật giáo của Pháp đã ghi lại lời phát biểu của
một triết gia có tiếng, một chuyên gia về văn minh Phạn ngữ, là ông Guy Bugault, vào dịp
viếng thăm nước Pháp lần đầu tiên của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma như sau :
« Trong lần viếng thăm nước Pháp lần đầu của
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma, và đấy cũng chính là dịp mà khái niệm về Tánh không [được
nêu lên và] đã kích thích sự tò mò của
tất cả các nhà báo: quả thật là kỳ diệu, và cũng có thể nói là khá lo âu,
vì dù sao đấy cũng là một chướng ngại mà sự hiểu biết có thể vấp phải ».
Hoang Phong
Bures-Sur-Yvette, 16.04.08
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment