Những bậc tu hành đã chứng được Vô sanh pháp nhẫn (tức là chứng được thật
tánh bất sanh bất diệt của muôn pháp), thì đối với Tịnh độ trong mười phương,
đều có thể tùy theo ý muốn của mình mà được vãng sanh. Còn những kẻ phàm phu
hoặc nhờ nguyện lực của mình, hay nhờ oai thần của Phật gia bị, mà được sanh về
Tịnh độ, thì đều thuộc về hạng "Đới nghiệp vãng sanh" (nghĩa là nhờ ở
nguyện lực của Phật mà được sanh về Tịnh độ...
VÃNG
SANH TỊNH ĐỘ
Những người đã
từng tu tập theo nghiệp nhân thanh Tịnh, thì khi lâm chung họ liền đi đến chỗ
họ muốn đến, nghĩa là vãng sanh Tịnh độ. Họ không còn phải trải qua những cảnh
giới như trước đã nói. Nhưng trong khoảng 49 ngày, nếu ta biết vì họ mà niệm
Phật giúp, thì cũng có thể làm tăng thêm phẩm vị không đến nỗi uổng công.
Vấn đề vãng
sanh Tịnh độ, ta nên hiểu rằng Tịnh độ trong mười phương đều đáng cho ta cầu
vãng sanh. Nhưng chỉ có thế giới Cực Lạc là có cơ duyên đặc biệt với chúng
sanh, cho nên xưa nay số người được vãng sanh về cõi ấy ta không thể kể xiết
được.
Trong khi sắp
được vãng sanh, thì người chết sẽ cảm thấy có nhiều cảnh tượng. Nay, nương theo
Kinh Quán Vô Lượng Thọ mà chia làm chín phẩm, để thuật lại như sau:
A- Thượng phẩm thượng sanh.
Lên đến cấp nầy, người chết sẽ cảm thấy có Tam thánh là Di Đà, Quán Âm, và
Thế Chí. Lại có vô số vị hóa Phật, trăm ngàn đại chúng Tỳ-kheo và vô số chư
Thiên cùng cung điện thất bảo hiện ra trước mắt, dùng đài Kim-cang điện đem đến
để tiếp rước. Khi đó, họ liền sanh về Cực Lạc, được nghe Phật thuyết pháp,
chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Sau đó, tùy theo ý mình mà đi khắp mười phương
Phật độ và theo thứ tự lần lượt được Chư Phật thọ ký.
B- Thượng phẩm trung sanh.
Đến cấp bực nầy, người chết cũng cảm
thấy có Tam thánh và vô số đại chúng làm quyến thuộc đoanh vây, dùng đài Tử-kim
đến đón rước họ.
Thấy rồi họ liền được sanh về trong
hồ Thất bảo bên cõi ấy; trải qua một đêm thì hoa mới nở và mới được thấy Phật.
C- Thượng phẩm hạ sanh.
Ở cấp bực nầy, người chết cũng cảm
thấy có Tam thánh và các vị Bồ-tát, tay nắm hoa sen vàng chung cùng với các vị
hóa Phật đi đến đón rước họ. Thấy rồi họ liền được sanh về trong hồ Thất bảo
bên cõi kia; trải qua một ngày đêm hoa sen mới nở và phải trải qua thời hạn bảy
ngày mới được thấy Phật.
D- Trung phẩm thượng sanh.
Về cấp bực nầy, người chết cũng được
cảm thấy có Phật A Di Đà và các vị Tỳ-kheo đoanh vây phóng ra hào quang sắc
vàng, hiện ra trước mặt người đó để tỏ lời khen ngợi. Người ấy sẽ ngồi trên đài
Liên-hoa mà sanh về nước Cực Lạc. Đến rồi hoa sen liền nở, họ được nghe Pháp âm
nhiệm mầu, chứng được quả vị A-la-hán (A-la-hán là một địa vị Thánh nhân không
còn luân hồi trong sanh tử - Bất sanh).
E- Trung phẩm trung sanh.
Ở bực nầy, người chết cũng thấy có
Phật A Di Đà cùng đi với đại chúng, phóng ra hào quang sắc vàng, tay nắm hoa
sen Thất bảo đi đến đón rước họ. Người chết thấy rồi liền sanh về trong hồ Thất
bảo bên cõi ấy; trải qua bảy ngày hoa sen mới nở, khi đó họ khen ngợi Đức Di Đà
Thế Tôn, nghe Pháp sanh lòng vui vẻ và chứng được đạo quả Tu-đà-hoàn
(Tu-đà-hoàn là một bực tu hành đã được dự vào đã được vào hạng Thánh - Nhập
lưu).
G- Trung phẩm hạ sanh.
Người ở cấp bực nầy, do căn cơ của
hạng này rất kém, chỉ nhờ nghe lời Thiện tri thức chỉ giáo, mà vui vẻ tin và
thực hành. Cho nên khi lâm chung họ chỉ nhờ nguyện lực mà thôi, chứ không thấy
được một thứ cảnh tượng gì. Nhưng khi đã sanh về cõi ấy rồi, trải qua bảy ngày
họ mới được gặp hai vị Bồ-tát là Quán Thế Âm và Đại Thế Chí, được nghe Pháp âm,
rồi cũng chứng được đạo quả Tu-đà-hoàn.
H- Hạ phẩm thượng sanh.
Về cấp bực nầy, người chết cảm thấy được hóa thân của Phật, và hóa thân của
Đức Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đến rước mà thôi. Nhưng họ cũng được nương trên
hoa sen Thất bảo, đi theo hóa thân mà sanh về trong hồ Thất bảo bên cõi ấy.
Trải qua 49 ngày, hoa sen mới nở và được hai vị Bồ-tát ấy thuyết Pháp cho nghe.
(Hóa thân tức là hình ảnh hóa hiện của Đức Phật; Đấy là một trong ba thứ thân
thể của Phật).
I- Hạ phẩm trung sanh.
Người sanh vào cấp bực nầy, thì trước hết thấy có lửa dữ của Địa-ngục bốc
lên, sau lại bỗng hóa thành luồng gió mát để nâng đưa Liên-hoa. Trên hoa ấy có
hóa Phật và Bồ tát đi đến đón rước người ấy. Khi đã sanh về trong hồ Thất bảo
bên cõi ấy rồi, phải trải qua sáu kiếp hoa sen mới nở, mới thấy hai vị Bồ-tát
nói Pháp cho nghe để giáo hóa. (Kiếp, nói cho đủ là kiếp-ba; 6 kiếp tức là 6
thời gian dài).
K- Hạ phẩm hạ sanh
Ai sanh vào cấp bực nầy, thì sẽ thấy có hoa vàng như vầng mặt nhật hiện ra
trước mắt, tức thì họ liền được vãng sanh. Sau khi Sanh rồi phải ở trong hoa
sen 12 kiếp, bấy giờ hoa mới nở và được nghe hai vị Bồ-tát thuyết Pháp cho
nghe.
Ba hạng vừa nói trên đây (trong phạm vi hạ phẩm) đều có Thiện hữu chỉ giáo
mà phát tâm niệm Phật, rồi tự mình biết sám hối tội lỗi mà cảm được vậy.
Tóm lại, như trên là tùy theo trình độ và năng lực tu hành của Đức Phật mà
chia ra có chín phẩm cao thấp không đồng. Nhưng khi đã được sanh về Tịnh độ,
chúng ta đều được thoát khỏi sanh tử luân hồi và hoặc chậm hoặc mau đều thành
Phật quả vậy.
NHỮNG ĐIỀM BÁO TRƯỚC
Những bậc tu hành đã chứng được Vô sanh pháp nhẫn (tức là chứng được thật
tánh bất sanh bất diệt của muôn pháp), thì đối với Tịnh độ trong mười phương,
đều có thể tùy theo ý muốn của mình mà được vãng sanh. Còn những kẻ phàm phu
hoặc nhờ nguyện lực của mình, hay nhờ oai thần của Phật gia bị, mà được sanh về
Tịnh độ, thì đều thuộc về hạng "Đới nghiệp vãng sanh" (nghĩa là nhờ ở
nguyện lực của Phật mà được sanh về Tịnh độ, nhưng chưa trừ sạch hoặc nghiệp;
nên gọi là Đới nghiệp vãng sanh). Hai cảnh giới này tuy có cao thấp không đồng
nhau nhưng chỗ siêu việt cảnh giới Ta-bà thì vẫn chung một mục đích.
Những tiên triệu (điềm báo trước) khi lâm chung, có thể tùy theo mỗi người
mà cảm thấy có khác nhau, nhưng không ngoài một điểm chung là thấy Tịnh cảnh
hiện ra trước mắt. Hạng thù thắng thì thấy có Y báo, Chánh báo trang nghiêm mỹ
lệ. Hạng thấp hơn thì chỉ thấy có Phật và Bồ-tát. Hạng kém hơn nữa, thì chỉ
thấy có hoa sen. Nhưng những tiên triệu ấy, đều không dính dấp gì với mọi người
chung quanh, nên họ không thể trông thấy được. Nếu nói đến những tiên triệu mà
mọi người chung quanh cũng được cảm thấy; thì từ những chứng tích vãng sanh của
các bậc Thánh hiền xưa nay, ta có thể khảo cứu mà chia ra làm 10 thứ thoại ứng
như sau:
1- Nhất tâm bất loạn - Tâm niệm được chăm chú vào một cảnh, không bị bối
rối.
2- Biết trước thời chết đã đến.
3- Tịnh niệm không mất, tức là tâm niệm chỉ ưa cõi Tịnh độ và quyết chí bỏ
cõi Ta-bà.
4- Biết trước mà lo tắm rửa và thay áo quần.
5- Tự mình hay niệm Phật hoặc niệm có tiếng hay niệm thầm.
6- Ngồi ngay thẳng và xếp tay mà chết.
7- Có mùi thơm lạ khắp nhà.
8- Có hào quang sáng soi vào thân thể.
9- Nhạc trời trỗi giữa hư không.
10- Tự nói ra một bài kệ để khuyên đồ chúng (đệ tử).
Nếu ai có đủ cả 10 thứ điềm tốt trên đây, thì phẩm vị chắc chắn là cao cả.
Còn ai chỉ có đủ một vài điềm tốt cho đến 5 điềm tốt mà thôi, thì cũng được
vãng sanh Tịnh độ.
Trong khi thần thức rời bỏ thân này, thì không phải đồng thời toàn thân đều
lạnh. có khi ở trên thân lạnh trước, rồi dần dần lạnh xuống, có khi ở dưới thân
lạnh trước, rồi dần dần lạnh lên. Như có bài kệ đã nói: "Ai Nghiệp lành,
dưới lạnh trước; còn ai Nghiệp dữ, trên lạnh trước". Tim còn lưu chút hơi
ấm rất lâu, các chỗ khác hơi ấm dần dần hết. Người được xuất thế thì trên trán
lạnh rốt sau. Kẻ sanh lên Trời, thì nơi mặt lạnh rốt sau.
Người sanh vào cõi Người thì nơi rốn
lạnh rốt sau. Kẻ sanh vào Ngạ-quỷ thì hai bên bụng lạnh rốt sau. Người sanh vào
loài Bàng-sinh (Súc-sanh) thì đầu gối lạnh rốt sau (bàng sinh: những loài thân
thể nằm ngang như: trâu, bò v.v...). Kẻ sanh vào Địa-ngục thì dưới chân lạnh
rốt sau.
Cứ theo như trên đây đã chứng
nghiệm, thì đối với quả báo tương lai của người chết, ta cũng có thể dự đoán mà
biết được trước vậy.
Nếu bằng theo ý nghĩa trong đoạn
kinh văn kể trên đây để giải thích, thì người nghiệp lành ở dưới thân lạnh
trước, vì nghiệp thức lưu chuyển ở trên; cho nên dưới thân lạnh trước, trên
thân lạnh sau. Còn kẻ ác nghiệp thì nghiệp thức lưu chuyển ở dưới: cho nên trên
thân lạnh trước, dưới thân lạnh sau. Đến như hàng đạo hạnh xuất thế, thì trên
trán lưu hơi ấm rất lâu, đó là triệu chứng sanh về thế giới Cực Lạc vậy.
Sở dĩ tiên triệu của các loài có
khác nhau, là vì nghiệp nhân lành, dữ của chúng sanh gây ra từ trước mà cảm
được. Đến khi lâm chung, thì các nghiệp nhân ấy sôi nổi trong tâm thức. Nghiệp
nào mạnh, thì sẽ lôi vào cảnh giới khác tương đương với nghiệp ấy để thọ báo.
Như nghiệp lành mạnh, thì sẽ hiện ra cảnh giới sung sướng; Nghiệp dữ mạnh thì
hiện ra cảnh giới khổ sở.
Cảnh giới sung sướng là tiên triệu
sanh lên cõi Trời; cảnh giới khổ sở là điềm báo trước sẽ sanh vào ác thú.
Nếu muốn tìm hiểu hai thứ cảnh giới
Khổ và Vui đó sẽ lôi ta đi đến đâu, thì nương vào Kinh Thủ Hộ Quốc Giới Chủ mà
nhận xét, những điều quan yếu của nó ta thấy như sau:
A - Nếu nghiệp duyên sẽ lôi cuốn vào
Địa ngục, thì sẽ thấy có 15 thứ điềm dữ tiên triệu:
1- Gặp phải con cái và bà con đều
nhìn kẻ chết bằng cặp mắt hung dữ, ghét bỏ.
2- Người sắp chết đó đưa hai tay lên
mà rờ mò giữa hư không.
3- Thiện hữu dầu có chỉ bảo, họ cũng
không chịu tùy thuận.
4- Kẻ sắp chết kêu gào than khóc.
5- Đi ra đại tiện và tiểu tiện mà
vẫn không hay biết gì.
6- Nhắm nghiền đôi mắt.
7- Thường hay che úp mặt mày.
8- Nằm nghiêng mà ăn uống.
9- Mình mẩy, miệng mồm đều hôi hám.
10- Gót chân, đầu gối luôn luôn run
rẩy.
11- Sống mũi xiên xẹo.
12- Mắt bên trái hay động đậy, ta
gọi là máy mắt.
13- Hai con mắt
đỏ ngầu.
14- Úp mặt mà
nằm.
15- Thân hình
co rút và tay bên trái chằm xuống đất.
B - Nếu ai bị
nghiệp lôi vào loài Ngạ quỉ, thì có 8 thứ điềm dữ tiên triệu:
1- Ưa liếm môi
miếng.
2- Thân nóng
như lửa.
3- Thường lo
đói khát và hay nói đến việc ăn uống.
4- Mắt thường
hay trương lên mà không nhắm.
5- Hai mắt khô
khan như mắt chim gỗ.
6- Không đi đại
tiện nhưng tiểu tiện thì nhiều.
7- Đầu gối bên
phải lạnh trước.
8- Tay bên phải
thường nắm lại, đó là biểu hiện ôm lòng bỏn xẻn.
C - Nếu người
chết bị nghiệp lôi vào loài bàng sinh, thì thấy có 5 thứ điềm dữ tiên triệu:
1- Yêu mến vợ
con, đắm đuối không bỏ.
2- Ngón tay và
ngón chân đều co quắp.
3- Khắp trong
thân mình đều toát ra mồ hôi.
4- Tiếng nói ra
khò khè.
5- Miệng thường
ngậm đồ ăn.
D - Nếu ai được
sanh vào Nhân đạo thì có 10 thứ điềm lành tiên triệu:
1- Đến khi chết
hay khởi niệm lành, tức là lòng dịu dàng, lòng phúc đức, lòng vui vẻ, lòng vô
tư.
2- Thân không
đau khổ.
3- Ít sự nói
phô, chăm lòng nhớ nghĩ cha mẹ.
4- Con trai,
con gái đều đem lòng thương mến và gần gũi, coi như việc thường, không ưa không
ghét. Tai thường muốn nghe tên họ của anh em, chị em, và bầu bạn.
5- Đối với việc
lành hay việc dữ, lòng họ không lầm loạn.
6- Tâm tính
chính trực, không ưa dua nịnh.
8- Thấy bà con
chăm sóc trông nom sanh lòng vui mừng.
9- Di chúc việc
nhà, có cất đặt của cải ở đâu thì mách bảo.
10- Sanh lòng
chánh tín, thỉnh Phật, Pháp, và Tăng đến, để đối diện quy y.
E - Nếu nghiệp
duyên sẽ đưa lên Thiên đạo, thì cũng có 10 thứ điềm tốt tiên triệu:
1- Khởi lòng
thương mến.
2- Phát khởi
thiện tâm.
3- Lòng thường
vui vẻ.
4- Chánh niệm
được rõ ràng.
5- Không có
những điều hôi hám.
6- Sống mũi
không xiên xẹo.
7- Lòng không
có giận dữ.
8- Đối với của
cải, vợ con, bà con, lòng không lưu luyến.
9- Mắt được
trong sáng.
10- Ngửa mặt
lên mỉm cười mà nghĩ tưởng Thiên cung đến rước mình.
Năm khoản vừa
kể trên đây, không phải nhất định mỗi mỗi đều phải hiển hiện đầy đủ, chỉ có
những điềm thiết yếu sẽ được biểu hiện mà thôi. Ta nên xét cho kỹ lưỡng: như
hai cảnh giới Nhân và Thiên, thì ý thức của họ đều trong sạch, nên gọi là khởi
thiện niệm. Nhưng một bên chỉ nghĩ đến Thiên cung mà lãng bỏ việc đời; một bên
thì thương nhớ bà con mà dặn dò việc nhà. Như thế thì đôi bên vẫn rất khác nhau
vậy. Còn hai loài Địa-ngục và Ngạ-quỉ, thì ý thức của họ đều mê man nên hiển
hiện ra mọi điều đau khổ. Nhưng một bên thì mất hết sự từ hòa, và hay thay đổi
thái độ; một bên thì nóng nảy, đói khát đáng thương. Như thế đôi bên cũng rất
khác nhau vậy. Đến như loài Bàng-sinh thì thân thể đã tháo mồ hôi, tiếng tăm
khàn nghẹt; nhưng vẫn còn luyến tiếc bà con...
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment