Ta ngồi
thiền để cũng cố trạng thái tâm an lạc và trau dồi tâm lực. Không phải ngồi đó
để làm chuyện gì khác. Thiền Minh Sát chỉ là tọa thiền, an trụ tâm trong trạng
thái định...
AJAHN CHAH
Người dịch: SUNANDA PHAM KIM KHANH
Người dịch: SUNANDA PHAM KIM KHANH
Lời tựa
Ngài Ajahn Chah sanh trưởng
từ một gia đình khá giả ở vùng đồng quê, miền Bắc xứ Thái. Ngài
xuất gia Sa Di vào lúc thiếu thời và đến 20 tuổi thì thọ giới Tỳ
Khưu. Sau khi học đủ phần Kinh điển và Giáo Lý căn bản Ngài đi
vào rừng sâu, học pháp hành với nhiều vị Thiền sư nổi tiếng thời
bấy giờ. Trong số các vị này Ngài Ajahn Mun được xem là bậc Đại Thiền
Sư lỗi lạc nhất và có nhiều uy tín nhất tại Thái Lan trong thế kỷ này.
Theo truyền
thống các vị tu thiền sống trong rừng Ngài Ajahn Chah không ở một nơi cố định
nào mà chỉ sống dưới gốc cây và chỉ thọ thực một lần trong suốt 24 tiếng. Các
Ngài dành hết thì giờ để hành thiền.
Điểm chánh
yếu trong phương pháp hành thiền của Ngài Ajahn Chah là tự hiểu biết mình, bằng
cách luôn luôn tự quán chiếu, luôn luôn tỉnh thức chú niệm : thân và tâm mình.
Tất cả pháp hành chỉ là nhìn thẳng vào tâm và thân, theo dõi sinh hoạt của nó.
Gom tâm
an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân
và tâm. Nếu tâm không an trụ, cứ nhìn vào và theo dõi nó. Ta sẽ thấy đặc tướng
Vô Thường của vạn pháp. Cho đến trạng thái vắng lặng của tâm cũng là vô thường.
Nếu bám níu nào đó ắt có đau khổ khi nó mất.
Theo Ngài
Ajahn Chah, hành thiền không phải để thành tựu điều gì mà để bỏ đi tất cả. Cũng
không phải chỉ lúc ngồi thiền hay lúc đi kinh hành mới thiền mà luôn luôn giác
tỉnh chú niệm, bất cứ lúc đang làm gì. Luôn luôn giữ tâm trong hiện tại. Hay biết
mỗi khi có tư tưởng phát sanh. Chỉ nhìn, rồi để nó trôi qua. Không muốn, cũng
không làm điều gì để đuổi nó đi. Hãy để nó trôi qua một cách tự nhiên. Không
nên giữ nó lại.
Phải trau
giồi hạnh nhẫn nhục và đức tính chịu đựng. Phải kiên trì gia công, nhưng không
cố gắng quá sức. Chỉ giản dị sống một cách tự nhiên, chú niệm và hay biết. Nếu buồn
chán, hãy nhìn vào, quán xét tình trạng buồn chán ấy. Không nên để ngoại cảnh
chi phối. Người khác tốt hay xấu, có nghiêm chỉnh trì giới hay không, nhìn vào
họ không làm cho ta trong sạch hay phát triển trí tuệ. Giới luật chỉ là một
công cụ giúp ta hành thiền dễ dàng, không phải là một loại khí giới để ta chỉ
trích người khác. Không ai hành thiền cho mình mà mình cũng không hành được
cho ai. Hãy luôn luôn chú niệm vào việc gì ta đang làm. Đó là hành thiền.
An Lạc vượt ngoài
thế gian
Thực hành
Giáo Pháp là công trình vô cùng quan trọng. Nếu không có pháp hành tất cả hiểu
biết của chúng ta chỉ là hiểu biết trên bề mặt, chỉ hiểu biết cái vỏ bề ngoài.
Cũng giống như ta đã có một loại trái cây nhưng chưa bao giờ ăn đến. Mặc dầu
trái cây sẵn có trong tay, nhưng ta không hưởng lợi ích của nó. Chỉ bằng cách
thực sự có ăn, ta mới cảm nhận được mùi vị của trái.
Đức Phật
không ca ngợi những ai chỉ tin tưởng suông nơi người khác. Ngài tán dương người
hiểu biết bên trong chính mình. Cũng như trái cây kia, nếu ta đã có nếm qua rồi
thì không cần phải hỏi ai khác cũng đủ biết nó chua hay ngọt thế nào. Vấn
đề của ta đã chấm dứt ? Tại sao nó đã chấm dứt ? Bởi vì ta đã thấy đúng theo
chân lý: Là Người đã chứng ngộ Giáo Pháp, cũng như người kinh nghiệm vị chua
hay ngọt của trái cây. Tất cả mọi hoài nghi đều chấm dứt, ngay tại đây.
Mặc dầu
khi đề cập đến Giáo Pháp ta có thể thuyết trình dài dòng, nhưng thông thường tất
cả chỉ bao gồm bốn điều. Nó chỉ giản dị là : hiểu biết Đau Khổ, hiểu biết
Nguyên Nhân sanh Đau Khổ, hiểu biết sự Chấm Dứt Đau Khổ và hiểu biết Con
Đường của pháp hành dẫn đến Chấm Dứt Đau Khổ. Tất cả chỉ có thế. Tất cả những
gì mà ta chứng nghiệm trên con đường thực hành, đến đây chỉ keo gọn lại thành bốn
điều ấy. Khi đã thấu triệt trọn vẹn bốn điều, vấn đề của chúng ta đã chấm dứt.
Bốn điều
ấy, phát sanh từ đâu? Nó chỉ phát sanh từ bên trong thân và tâm này, không đâu
khác. Vậy, tại sao giáo pháp do Đức Phật ban truyền lại mênh mông rộng rãi đến ấy?
Đó là vì Ngài muốn giải thích một cách vi tế với nhiều chi tiết, nhằm giúp chúng
ta lãnh hội đầy đủ bốn điều ấy.
Thái tử
Siddhatha được sanh vào đời, và trước khi chứng ngộ Giáo pháp Ngài chỉ là một
người thường như chúng ta. Đến khi thông hiểu những gì cần phải hiểu, tức chân
lý về Đau Khổ (Khổ Đế), về Nguyên Nhân sanh Khổ (Tập Đế), về sự Cấm Dứt Đau Khổ
(Diệt Đế) và về Con Đường Chấm Dứt Đau Khổ (Đạo Đế) thì Ngài chứng ngộ Giáo
Pháp và trở thành Đức Phật Toàn Giác.
Khi đã
chứng ngộ Giáo Pháp thì bất luận nơi nào mà ta ngồi ta luôn luôn thông hiểu
Giáo Pháp, bất luận nơi nào mà ta ở ta luôn luôn nghe lời dạy của Đức Phật. Khi
ta thông hiểu Giáo Pháp, Đức Phật luôn luôn ngự trị bên trong tâm ta, Giáo Pháp
luôn luôn ở bên trong tâm ta, và pháp hành dẫn đến trí tuệ nằm bên trong tâm
ta, được Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng ngự trong tâm có nghĩa là dầu hành động của
chúng ta thiện hay bất thiện chúng ta vẫn tự mình hiểu biết rõ ràng bản chất thật
sự của nó. Cũng do vậy mà Đức Phật đã gạt bỏ dư luận của thế gian. Ngài gạt bỏ
ngoài tai những lời tán dương hay chỉ trích. Khi người đời tán dương hay chỉ
trích, Ngài chỉ chấp nhận nó là vậy. Dầu chỉ trích hay tán dương cũng chỉ là thế
gian pháp, không thể làm cho Ngài chao động. Tại sao? Bởi vì Ngài thấu triệt bản
chất của Đau khổ. Ngài thấu hiểu rằng nếu tin theo những lời tán dương hay chỉ
trích thì nó sẽ là nguyên nhân sanh đau khổ.
Khi đau
khổ đến, nó làm cho ta chao động, cảm nghe không thoải mái. Nguyên nhân của đau
khổ ấy là gì? Chúng ta không thấu hiểu chân lý, đó là nguyên nhân. Khi nguyên
nhân hiện hữu thì đau khổ phát sanh. Một khi đau khổ đã phát sanh thì ta không
biết phải làm thế nào để ngưng nó lại. Ta càng cố gắng chận đứng thì nó càng lấn
lướt xông đến ta. Ta nói , “ chớ có chỉ trích tôi ”, hoặc “ Đừng chỉ trích tôi
”. Cố gắng chận đứng như vậy là đau khổ sẽ thật sự xông đến, không ngưng.
Do đó Đức
Phật dạy rằng con đường dẫn đến chấm dứt đau khổ là làm cho Giáo Pháp thật sự
phát sanh trong tâm của chúng ta. Ta trở thành người tự mình chứng ngộ Giáo
Pháp. Nếu có ai khen ta tốt, ta không để bị lạc lối trong đó. Người ta chê mình
không tốt, mình không tự quên mình. Làm như vậy ta hoàn toàn tự do, không dính
mắc. “ Tốt ” và “ Xấu ” chỉ là thế gian pháp - những sự vật trong thế gian trần
tục. Nó chỉ là những trạng thái tâm. Nếu ta chạy theo nó thì tâm ta trở thành
thế gian. Ta chỉ mù mờ mò dẫm trong đêm tối mà không biết lối thoát. Làm như thế
ắt chúng ta không tự chủ, không làm chủ lấy mình. Ta cố gắng chiến thắng kẻ
khác, nhưng hành động như vậy ta chỉ vì cái ta. Trái lại, nếu tự mình làm chủ
lấy mình ta sẽ chủ động trong tất cả, sẽ làm chủ tất cả -- tất cả những tâm sở,
tất cả sắc, thinh , hương, vị và xúc.
Đến đây
Sư chỉ đề cập đến bên ngoài, nó là vậy. Nhưng bề ngoài cũng ảnh hưởng đến bên
trong. Vài người chỉ biết bề ngoài, họ không biết bên trong. Như khi nói, “
Nhìn thân trong thân”. Nhìn thấy phía bên ngoài thì không đủ, ta phải hiểu biết
thân bên trong cái thân. Và khi quán chiếu tâm, ta phải hiểu biết tâm bên trong
cái tâm.
Tại sao
phải quán chiếu thân ? “ Thân bên trong thân là gì ?” . Khi nói, phải hiểu biết
tâm, cái “ tâm ” ấy là gì? Nếu không hiểu biết tâm ắt không hiểu biết những gì
bên trong tâm. Đó là làm người không hiểu biết Đau Khổ, không hiểu biết Nguyên
Nhân sanh Đau Khổ, không hiểu biết sự Chấm Dứt và Con Đường dẫn đến Chấm Dứt
Đau Khổ. Những gì có khả năng giúp ta dập tắt đau khổ sẽ không thể giúp, bởi vì
ta bị xao lãng, lạc lối trong những gì chỉ tăng trưởng, làm cho đau khổ càng
thêm trầm trọng. Cũng như người bị ngứa trên đầu mà gãi dưới chân! Nếu ta bị ngứa
trên đầu mà chỉ gãi dưới chân thì tác động gãi của ta rõ ràng không thể làm cho
đầu bớt ngứa. Cùng thế ấy, khi đau khổ phát sanh chúng ta không biết phải đối
phó thế nào, không biết pháp hành dẫn đến chấm dứt đau khổ.
Thí dụ
như thân này, cái thân này mà mỗi người chúng ta mang theo đến buổi họp mặt hôm
nay. Nếu chúng ta chỉ thấy hình thể bên ngoài của thân thì không có cách nào lẫn
thoát ra khỏi đau khổ. Tại sao ? Bởi vì chúng ta vẫn chưa thấy được bên trong của
thân, ta chỉ thấy bề ngoài. Ta chỉ thấy nó là cái gì xinh đẹp, cái gì có thực
chất. Đức Phật dạy rằng bấy nhiêu đó không đủ. Bằng mắt, chúng ta thấy bề
ngoài của cái thân; một em bé cũng có thể thấy như vậy, một con thú cũng có thể
thấy như vậy, không có gì khó. Thấy bề ngoài của thân thì quá thật là dễ, nhưng
khi đã thấy rồi ta bị dính mắc, kẹt luôn trong đó. Ta không thông hiểu chân lý
của nó, không hiểu thật sự nó là thế nào. Thấy nó rồi ta liền chụp lấy và nắm
chặt, rồi bị nó cắn!
Như vậy,
ta phải quán chiếu thân bên trong thân. Bất luận gì ở bên trong thân, ta hãy
nhìn vào. Nếu chỉ nhìn bề ngoài ta không thấy rõ. Ta thấy tóc, móng chân móng
tay v.v… và cho đó là những gì đẹp đẽ, có sức quyến rũ chúng ta. Do đó Đức Phật
dạy nên nhìn sâu vào bên trong của thân, nhìn thân trong thân. Bên trong thân
có những gì? Hãy nhìn tận tường, nhìn thật kỹ vào bên trong! Có nhiều cái sẽ
làm cho ta ngạc nhiên bởi vì mặc dầu nó ở ngay bên trong ta, chúng ta không bao
giờ thấy. Mỗi khi đi đâu là ta mang nó theo, ngồi trên xe ta cũng mang
theo, vậy mà ta vẫn không biết nó chút nào!
Cũng như
ta đến nhà viếng một người bà con và họ cho ta một món quà. Ta nhận lấy quà, cất
giữ trong bao, rồi ra về mà không dở ra xem trong đó có gì. Khi cuối cùng về đến
nhà, dở ra thì … đầy là rắn độc! Thân của ta cũng dường thế ấy. Nếu chỉ nhìn
cái vỏ bề ngoài ta nói rằng nó xinh tươi đẹp đẽ. Chúng ta tự quên mình. Chúng
ta quên lý Vô Thường, Khổ và Vô Ngã. Nếu thận trọng nhìn vào bên trong thân này
thì quả thật là đáng nhờm chán. Nếu chúng ta nhìn thấy đúng thực tại, không có
dậm muối hay thêm đường, không tô điểm cho nó, thì ta sẽ thấy rằng thật sự nó
đáng thương hại và đáng chán. Ta sẽ không còn luyến ái, bám níu vào thân này. Cảm
giác “không trìu mến” ấy không có nghĩa là ta cảm nghe hờn giận thế gian hoặc
phiền trách bất cứ ai hay bất luận gì. Chỉ giản dị là cái tâm của ta sáng tỏ và
biết buông bỏ. Chúng ta nhận thấy rằng sự vật không có chi là thực chất, không
có chi mà ta có thể ỷ lại vào. Nhưng tất cả mọi sự vật đã là vậy, bản chất của
thiên nhiên chỉ là vậy. Dầu ta có muốn nó như thế nào, nó chỉ đi theo con đường
của nó. Dầu ta cười, dầu ta khóc, nó vẫn giản dị như thế đúng như nó là vậy. Sự
vật nào không bền vững và ổn định, thì nó không vững bền ổn định. Sự vật nào
không đẹp đẽ xinh tươi, thì nó không xinh tươi đẹp đẽ.
Do đó Đức
Phật dạy rằng khi chứng nghiệm sắc, thinh, hương, vị, xúc hay pháp, ta hãy
buông thả nó ra. Khi tai nghe âm thanh, hãy để cho nó qua. Khi mũi hưởi mùi,
hãy để cho nó qua … chỉ bỏ nó ở lại mũi! khi cảm giác xúc chạm của thân phát
sanh, hãy buông bỏ cảm xúc ưa thích hay ghét bỏ theo liền đó, hãy để cho nó trở
về nguyên quán. Tư tưởng phát sanh cũng vậy. Tất cả những hiện tượng ấy, hãy để
cho nó đi theo con đường của nó. Đó là hiểu biết. Dầu hạnh phúc hay đau khổ, tất
cả đều như nhau. Đó là hành thiền.
Hành thiền
có nghĩa là làm cho tâm an lạc nhằm tạo duyên cho trí tuệ phát sanh. Công trình
này đòi hỏi phải thực hành với thân và tâm, hầu trông thấy và hiểu biết những cảm
xúc phát sanh do: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Thâu gọn lại, nó chỉ là vấn
đề hạnh phúc và đau khổ. Hạnh phúc là hoan hỉ thỏa thích trong tâm. Đau khổ là
cảm giác khó chịu, không thoải mái. Đức Phật dạy nên tách rời hạnh phúc và đau
khổ ấy ra khỏi tâm. Tâm là cái gì hiểu biết. Thọ (Vedana ) là đặc tính của hạnh
phúc và đau khổ, thương và ghét ( Danh từ “thọ” ở đây được phiên dịch từ Phạn
ngữ “ vedana ” và nên được hiểu trong ý nghĩa mà Ngài Ajahn Chah mô tả nơi đây:
như những tâm sở ưa thích, ghét bỏ, vui buồn, v.v… ) khi tâm dễ duôi, tự buông
trôi theo những cảm xúc ấy ta nói rằng nó bám níu vào, hoặc chấp rằng hạnh
phúc và đau khổ đáng được nắm giữ. Bám níu, hay “ thủ ” ấy, là một sinh
hoạt của tâm, còn hạnh phúc và đau khổ là thọ.
Khi nói
rằng Đức Phật dạy tách rời tâm ra khỏi thọ, không có nghĩa là vứt bỏ nó ở một
nơi nào. Ngài muốn dạy rằng tâm phải hiểu biết hạnh phúc và hiểu biết đau khổ.
Thí dụ như khi tọa thiền, trong trạng thái định, tâm thấm nhuần an lạc thì hạnh
phúc đến, nhưng không vào tâm, đau khổ đến, nhưng không vào tâm. Đó là tách rời
thọ và tâm. Ta có thể ví như nước và dầu trong một cái lọ. Nó không hòa tan. Dầu
có muốn trộn lộn hai thứ, dầu vẫn ra dầu và nước vẫn ra nước. Tại sao vậy? Vì
trọng lượng khác nhau.
Trạng thái
thiên nhiên của tâm là không hạnh phúc, không đau khổ. Khi thọ nhập vào thì hạnh
phúc hay đau khổ phát sanh. Nếu có niệm ta nhận biết thọ lạc là thọ lạc. Cái
tâm hiểu biết không “bóc” nó lên. Hạnh phúc có đó, nhưng nó “ở ngoài”, không đắm
chìm trong tâm. Tâm chỉ hiểu biết rõ ràng.
Tách rời
đau khổ ra khỏi tâm. Phải chăng điều này có nghĩa là không còn đau khổ, rằng ta
không còn chứng nghiệm đau khổ nữa? Không phải vậy, ta vẫn còn chứng nghiệm
đau khổ, nhưng lúc bấy giờ ta hiểu biết tâm là tâm, thọ là thọ. Ta không bám chặt
vào thọ cảm đau khổ ấy và mang nó đi theo mình. Đức Phật tách rời những trạng
thái ấy bằng tuệ giác. Ngài có đau khổ không? Ngài biết trạng thái đau khổ
nhưng không bám níu vào đó. Do vậy ta nói rằng Ngài cắt đứt đau khổ. Và khi có
hạnh phúc, Ngài hiểu biết đó chỉ là hạnh phúc. Nếu không hiểu biết như vậy thì nó
là thuốc độc. Ngài không nắm giữ nó lại và cho rằng nó là mình. Do trí tuệ, hiểu
biết rằng có hạnh phúc hiện hữu, nhưng hạnh phúc không nằm trong tâm. Vậy ta
nói rằng Ngài tách rời hạnh phúc và đau khổ ra khỏi tâm.
Nói rằng
Đức Phật và chư vị A La Hán diệt trừ ô nhiễm không có nghĩa là các Ngài thật sự
giết chết ô nhiễm ( danh từ “ô nhiễm” ở đây được phiên dịch từ Phạn ngữ kilesa,
là những thói hư tật xấu phát sanh từ si mê, hay những bợn nhơ tinh thần luôn
luôn ngủ ngầm bên trong tất cả những chúng sanh trong tam giới). Nếu các Ngài
đã giết chết tất cả những ô nhiễm thì có lẽ chúng ta không còn ô nhiễm nào! Các
Ngài không giết chết. Khi hiểu biết thực tướng của nó, đúng như nó là vậy, các
Ngài buông bỏ, để cho nó đi qua. Người điên rồ sẽ nắm giữ nó lại, nhưng các bậc
Giác Ngộ đã thấu hiểu rằng ô nhiễm trong tâm là thuốc độc nên liền quét sạch nó
đi. Các Ngài quét sạch những gì là nguyên nhân tạo đau khổ chớ không giết chết.
Người không thấu hiểu như vậy sẽ thấy những gì như hạnh phúc là tốt đẹp và nắm
chặt, giữ nó lại, nhưng Đức Phật chỉ hiểu biết nó và giản dị tẩy sạch nó đi.
Nhưng đối
với chúng ta, khi thọ phát sanh thì ta lợi dưỡng trong đó, có nghĩa là tâm của
ta mang hạnh phúc và đau khổ theo cùng với nó. Trong thực tế tâm và hạnh phúc
hay đau khổ là hai sự việc khác nhau. Những sinh hoạt của tâm, thọ lạc, thọ khổ
v. v… là những cảm xúc. Nó là thế gian pháp. Nếu tâm hiểu biết như vậy thì dầu
hạnh phúc hay đau khổ tâm vẫn xem như nhau và phản ứng cùng một cách. Tại sao ?
Bởi vì tâm hiểu biết chân lý của sự vật. Người không thông hiểu sẽ thấy hạnh
phúc và đau khổ có hai giá trị khác biệt, những người đã thấu hiểu sẽ thấy
nó như nhau. Nếu quí vị bám chặt vào hạnh phúc thì nó sẽ là nơi phát sanh đau
khổ về sau, bởi vì nó không ổn định vững bền mà luôn luôn biến đổi. Khi hạnh
phúc tan biến ắt đau khổ khởi sanh.
Đức Phật
thấu triệt rằng cả hai, hạnh phúc và đau khổ, đều là bất toại nguyện, tức đau
khổ, nên cả hai đều có giá trị bằng nhau. Khi hạnh phúc phát sanh Ngài để nó
trôi qua. Ngài có Pháp Hành Chân Chánh và thấy rằng cả hai đều có giá trị và sức
trở ngại bằng nhau. Cả hai đều nằm dười sự chi phối của Định Luật Thiên Nhiên,
tức bất ổn định và bất toại nguyện. Sanh rồi diệt. Khi thấy rõ như vậy Chánh Kiến
phát sanh và pháp hành chân chánh trở nên sáng tỏ. Bất luận cảm thọ hoặc tư tưởng
nào phát sanh Ngài biết rõ rằng đó chỉ giản dị là trò đùa luôn luôn tiếp diễn của
hạnh phúc và đau khổ. Ngài không bám níu vào.
Vậy,
nếu quý vị không nhận thức rõ ràng để kịp thời buông bỏ, không bám
níu vào, thì chính trong hạnh phúc đã có mầm mống đau khổ rồi. Nó
cũng giống hệt như khi ta nắm đuôi con rắn – nếu không buông bỏ ắt sẽ
bị rắn quay đầu lại cắn. Như vậy, dầu là đầu hay đuôi con rắn,
tức thiện hay bất thiện nghiệp, tất cả đều có đặc tính cột chắc ta
vào những kiếp sống triền miên vô cùng tận của vòng luân hồi.
Khi Đức
Phật mới Thành Đạo Ngài thuyết giảng một thời Pháp về Lợi Dưỡng trong Dục Lạc
và Lợi Dưỡng trong Đau Khổ. “ Này chư Tỳ Khưu! Lợi Dưỡng trong Dục Lạc là con
đường dễ duôi buông lung, Lợi Dưỡng trong Đau Khổ là con đường căng thẳng”. Đó
là hai con đường làm trở ngại pháp hành của Ngài cho đến ngày chứng ngộ đạo quả,
bởi vì trước đó Ngài không buông bỏ cho nó trôi qua. Khi đã thấu hiểu, Ngài để
cho nó trôi qua và do đó mới có thể ban truyền Bài Pháp Đầu Tiên.
Như vậy
chúng ta cần nói rằng người hành thiền không nên đi trên con đường của hạnh
phúc và đau khổ, mà phải thấu hiểu bản chất của nó. Thấu hiểu chân lý của Đau
Khổ, hành giả sẽ thấu hiểu Nguyên Nhân sanh ra Đau Khổ, sự Chấm Dứt Đau Khổ và
Con Đường dẫn đến Chấm Dứt Đau Khổ. Và con đường dẫn thoát ra khỏi Đau Khổ
chính là pháp hành thiền. Nói một cách đơn giản, ta phải luôn luôn chú niệm.
Chú
niệm là hay biết, hay có tâm hiện hữu. Ngay trong giờ phút này, chúng ta đang
nghĩ gì, chúng ta đang làm gì? Điều gì xảy đến ta trong hiện tại? Chúng ta quán
chiếu như vậy, luôn luôn hay biết ta đang sống như thế nào. Trong khi thực hành
như vậy trí tuệ có thể phát sanh. Lúc nào chúng ta cũng đang suy niệm và quán
chiếu, trong mọi oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi. Khi một cảm giác phát sanh mà ta
ưa thích, hãy biết đúng như vậy, nhưng chúng ta không giữ nó lại như một cái gì
có thực chất: đó chỉ là hạnh phúc. Khi đau khổ phát sanh chúng ta hiểu biết
ngay rằng đó là Lợi Dưỡng trong Đau Khổ, không phải là Con Đường của người hành
thiền.
Đó là điều
gọi là tách rời tâm ra khỏi thọ. Nếu là sáng suốt , ta không bám níu vào mà để
cho sự vật tự nhiên trôi chảy. Chúng ta trở thành “người hiểu biết”. Tâm và thọ
cũng chỉ như nước và dầu; cùng ở chung trong một cái lọ, nhưng không hòa tan.
Chỉ đến khi lâm bệnh hay đau nhức ta vẫn hiểu biết thọ là thọ, tâm là tâm.
Chúng ta hiểu biết những trạng thái đau đớn hay thoải mái dễ chịu nhưng không tự
mình đồng hóa với chúng. Chúng ta chỉ ở với thanh bình an lạc, sự an lạc thanh bình
vượt lên trên cả hai, thoải mái hoặc đau đớn.
Quí vị
phải thấu hiểu như vậy, bởi vì đã không có một tự ngã trường tồn, ắt không có
chỗ nương tựa. Quí vị phải sống như vậy, tức sống không có hạnh phúc và không
có đau khổ. Quí vị chỉ sống với sự hiểu biết, không bận bịu mang kè kè sự vật
theo mình.
Ngày nào
mà chúng ta chưa giác ngộ thì tất cả những điều trên đây nghe hình như quái lạ,
nhưng không hề gì, chúng ta chỉ nhắm hướng đi. Tâm là tâm. Tâm sẽ hội kiến với
hạnh phúc và đau khổ, chúng ta chỉ nhận thấy suông như vậy, ngoài ra không có
gì khác. Tách rời riêng biệt không trộn lộn. Nếu tâm và hạnh phúc - đau khổ pha
lẫn nhau ắt chúng ta không hiểu biết chúng. Cũng giống như ta đang ở trong một ngôi
nhà; cái nhà và người ở trong nhà liên quan với nhau, nhưng riêng biệt, không
phải là một. Nếu nhà hư hỏng thì ta có bổn phận phải bảo vệ nhà cửa. Nhưng nếu
nhà bị hỏa hoạn ta phải nhanh chân thoát ra khỏi đó. Nếu cảm giác đau khổ phát
sanh, ta phải thoát ra khỏi đó, cũng như ta chạy thoát ra khỏi căn nhà đang
cháy. Nó là hai sự việc riêng biệt; nhà là một việc, người ở trong nhà là
việc khác.
Chúng
ta nói rằng ta tách rời tâm và thọ ra khỏi nhau, nhưng trong thực tế bản chất của
chúng, là đã rời nhau. Công việc làm của chúng ta chỉ giản dị là nhận thức trạng
thái thiên nhiên tách rời khỏi nhau, đúng như thực tại vậy. Nói tâm và thọ
không riêng biệt, không tách rời nhau là bởi vì do vô minh, chúng ta bám níu
vào nó và vì vậy, ta không thông hiểu Chân Lý.
Do vậy Đức
Phật dạy ta hãy hành thiền. Pháp hành thiền vô cùng quan trọng. Chỉ hiểu biết
suông với trí thức không đủ. Kiến thức phát sanh do pháp hành với tâm an lạc.
Và kiến thức đến với ta bằng cách học hỏi, nghiên cứu thật sự xa nhau một trời
một vực. Sự hiểu biết thâu thập bằng cách học hỏi không phải là hiểu biết thật
sự của tâm. Cái tâm chỉ cố gắng bám chặt và giữ lại điều học hỏi hiểu biết ấy.
Tại sao ta cố gắng giữ lại? Chỉ để nó mất đi! Và khi nó mất chúng ta than khóc!
Nếu thật
sự hiểu biết ắt sẽ không có sự cố gắng giữ lại mà cứ để nó tự nhiên trôi qua, để
cho sự vật tự nhiên, đúng như sự vật là vậy. Chúng ta thấu hiểu sự vật là thế
nào và không tự quên mình. Nếu không may lâm bệnh chúng ta không để lạc lối
trong đó. Vài người nghĩ rằng “ Năm nay tôi bệnh suốt năm, không hành thiền được
chút nào”. Đó là lời nói của người thật sự cuồng si. Người đang bệnh hoặc sắp
lâm chung, càng phải chuyên cần tinh tấn hành thiền. Có thể ta nói rằng người ấy
không có thì giờ để hành thiền. Người ấy bệnh, người ấy đang bị đau nhức, người
ấy không còn tin tưởng nơi cơ thể mình và do đó cảm nghe rằng mình không thể
hành thiền. Suy tư như vậy, sự việc ắt trở nên khó khăn. Đức Phật không dạy như
vậy. Ngài dạy rằng ngay tại đây chính là nơi hành thiền. Khi lâm trọng bệnh hoặc
lâm chung đó là lúc ta có thể thật sự hiểu biết và nhận thức thực tại.
Vài người
khác nói rằng họ không may mắn được hành thiền vì luôn luôn có việc làm bận rộn.
Có vài giáo viên đến đây viếng Sư và nói rằng vì đa đoan với nhiệm vụ họ không
có thì giờ để hành thiền. Sư hỏi họ, “ Trong khi dạy học Ông có thì giờ để thở
không?”. Họ trả lời, “Bạch Sư, có”. Nếu công việc bề bộn và đa đoan, làm thế
nào Ông có thì giờ để thở? Nơi đây Ông đã rời xa Giáo Pháp.
Thật ra,
pháp hành chỉ liên quan đến tâm. Nó không phải là điều mà quí vị phải chạy
theo, hoặc phải tranh đấu để được. Trong khi làm việc ta vẫn thở. Chính thiên
nhiên đã chăm lo để cho tiến trình thở vào thở ra được tự nhiên – tất cả những
gì ta phải làm chỉ là hay biết. Quý vị chỉ chuyên cần cố gắng, nhìn trở lại vào
trong và thấy rõ ràng. Hành thiền là vậy.
Nếu chúng
ta giữ tâm hiện hữu như vậy thì bất luận trong công việc nào ta làm nó sẽ là dụng
cụ hữu hiệu giúp ta luôn luôn hiểu biết điều nào là phải và điều nào sai. Có rất
nhiều thì giờ để hành thiền, chỉ vì ta không thông hiểu pháp hành đầy đủ, chỉ
có thế. Trong khi ngủ ta thở, ăn ta thở, có phải vậy không? Tại sao ta không có
thì giờ để hành thiền? Bất cứ ở đâu ta cũng thở. Nếu nghĩ như vậy thì kiếp sống
của chúng ta có giá trị nhiều như hơi thở, bất luận ở đâu ta cũng có thì giờ .
Tất cả
các loại tư tưởng đều là những điều kiện tinh thần, không thuộc về cơ thể, như
vậy ta chỉ cần giữ tâm hiện hữu và chừng ấy lúc nào chúng ta cũng hiểu biết điều
nào là phải, điều nào sai. Đi, đứng, nằm, ngồi, có rất nhiều thì giờ. Chỉ vì ta
không biết sử dụng một cách thích nghi. Xin quý vị hãy suy xét lại.
Chúng ta
không thể bỏ chạy, lẫn trốn những cảm giác, phải hiểu biết nó. Cảm giác, hay thọ
chỉ là cảm giác, hạnh phúc chỉ là hạnh phúc, đau khổ chỉ là đau khổ. Nó chỉ giản
dị là vậy. Tại sao ta phải bám níu vào nó? Nếu tâm sáng suốt thì chỉ nghe bấy
nhiêu cũng đã đủ để tách rời thọ ra khỏi tâm.
Nếu chúng
ta thường xuyên quán chiếu như vậy tâm sẽ nhẹ nhàng, nhưng đó không phải là tẩu
thoát qua đường lối của vô minh. Tâm buông bỏ, nhưng nó hiểu biết. Không phải
buông bỏ vì si mê, hay buông bỏ vì không muốn sự vật giống như trong hiện tại.
Tâm buông bỏ, không bám níu vào thọ, vì ta hiểu biết đúng theo Chân Lý. Đó là
nhận thức Thiên Nhiên. Thấy đúng thực tại ở quanh mình.
Khi
hiểu biết được như vậy ta đã là người thuần thục, đối với tâm và đối với thọ.
Khi đã thuần thục làm chủ mình trước những thọ cảm ta cũng thuần thục đối với
thế gian. Đó là “Người Hiểu Biết Thế Gian”. Đức Phật là bậc hiểu biết rõ ràng
thế gian và những vấn đề khó khăn ở thế gian. Ngài hiểu biết rằng những gì khuấy
động và những gì không khuấy động đều ở ngay tại đây! Thế gian này quả thật phức
tạp, làm sao Đức Phật có thể thấu hiểu được? Nơi đây ta phải nhận thức rằng
Giáo Pháp do Đức Phật ban truyền không vượt ra ngoài khả năng của chúng ta.
Trong tất cả oai nghi -- đi, đứng, nằm, ngồi -- chúng ta phải giữ tâm niệm hiện
hữu và tự hay biết mình, và khi tọa thiền cũng vậy, luôn luôn chú niệm và tự hay
biết mình.
Ta ngồi
thiền để cũng cố trạng thái tâm an lạc và trau dồi tâm lực. Không phải ngồi đó
để làm chuyện gì khác. Thiền Minh Sát chỉ là tọa thiền, an trụ tâm trong trạng
thái định. Ở vài nơi người ta bảo, “ Bây giờ ta hãy ngồi thiền định (Samadhi),
rồi sau đó hãy thiền Tuệ ”. Không nên phân chia như vậy! Trạng thái vắng lặng
là nền tảng để trí tuệ phát sanh; trí tuệ sẽ được khai triển trên nền tảng vắng
lặng. Nói rằng giờ đây ta hãy hành thiền Vắng Lặng, sau đó sẽ hành Minh Sát –
ta không thể làm như vậy! Ta chỉ có thể phân chia như vậy qua lời nói. Cũng như
lưỡi dao, bề mặt ở một bên, bề trái ở bên kia. Quý vị không thể phân chia. Nếu
lấy bề mặt lên thì cũng lấy luôn cả hai bề. Vắng lặng làm nền tảng cho trí tuệ
phát sanh cũng cùng thế ấy.
Giới đức
là cha mẹ của Giáo Pháp. Từ lúc sơ khởi chúng ta phải nghiêm chỉnh trì giới. Giới
là an lạc. Trì giới có nghĩa là giữ thân và khẩu trong sạch, không nói và không
hành động sai lầm. Không làm gì sai bậy thì không bị khuấy động; không bị chao
động, tâm sẽ được an lạc thanh bình và dễ dàng an trụ. Do đó ta nói rằng Giới,
Định và Tuệ là Con Đường mà tất cả chư Hiền Thánh đều đã trải qua để thành tựu
Đạo Quả. Tất cả ba pháp là một. Giới là Định, Định là Giới. Định là Tuệ, Tuệ là
Định. Cũng giống như một trái xoài. Khi còn là bông thì ta gọi là bông xoài. Lúc
trổ thành trái ta gọi là trái xoài và đến lúc chín thì ta gọi là trái xoài
chín. Tất cả chỉ là một trái xoài luôn luôn thay đổi trạng thái. Trái xoài già
lớn lên từ xoài non. Xoài non trở thành trái xoài già. Ta có thể gọi bằng những
danh từ khác nhau nhưng tựu trung chỉ là một trái xoài. Giới, Định, Tuệ cũng
liên hệ với nhau cùng một thế ấy. Sau cùng tất cả ba pháp đều nhập chung lại
thành Con Đường dẫn đến giác ngộ.
Trái xoài,
từ lúc sơ khởi là bông xoài, chỉ giản dị trưởng thành để trở thành xoài chín. Bấy
nhiêu đã đủ, ta phải thấy như vậy. Dầu ai khác có gọi nó như thế nào, điều đó
không thành vấn đề. Một khi được sanh ra nó lớn dần đến già, và rồi đến đâu? Ta
phải suy niệm như vậy.
Vài người
không muốn già. Khi thấy tuổi già đến thì họ buồn phiền, luyến tiếc thời son trẻ.
Những người ấy không nên ăn xoài chín! Tại sao họ muốn xoài non trở thành chín?
Dầu xoài không chín đúng lúc họ cũng giú ép, có phải vậy không? Nhưng khi chính
ta trở thành già, ta lại tiếc. Vài người than khóc, sợ già hay sợ chết. Nếu như
vậy thì họ chớ nên ăn xoài chín mà chỉ ăn bông xoài! Nếu thấy được như vậy ắt
ta có thể trông thấy Giáo Pháp. Mọi việc đều sáng tỏ, chúng ta an lạc. Hãy quyết
tâm thực hành như vậy.
Hôm nay
có Ông Cố vấn Trưởng cùng nhiều quan khách đến nghe Pháp. Quý vị hãy nhận lãnh
những gì Sư giảng để về nhà suy gẫm. Nếu có gì sai lầm xin quý vị thông cảm cho
Sư. Tuy nhiên có hiểu được là đúng hay sai cũng tùy theo pháp hành và quan điểm
của quý vị. Bất cứ gì là sai, hãy vứt bỏ. Điều nào đúng, hãy giữ lấy để sử dụng.
Nhưng, trong thực tế. chúng ta thực hành để buông bỏ cả hai, đúng và sai. Rốt
ráo sau cùng chúng ta chỉ vứt bỏ tất cả. Điều đúng, hãy vứt bỏ; sai, vứt bỏ.
Thông thường, nếu là đúng thì ta bám níu vào tính cách đúng của nó, còn sai thì
ta giữ lại cái sai, rồi sau đó tranh luận, bàn thảo v.v… Nhưng Giáo Pháp là nơi
chốn không có gì – Chẳng có gì cả!
(Còn tiếp)
(Nguồn: thuvienhoasen.com)
0 Kommentare:
Post a Comment