Pages

01 June 2015

KHÔNG GIỮ BÁT QUAN TRAI GIỚI PHẢI ĐOẠ SANH LÀM RỒNG


https://i.ytimg.com/vi/nfvWUVQ4EHk/hqdefault.jpgCũng do lòng không vững chắc và nhất là nể vợ, sợ vợ! Nên anh thoái chí bỏ trai pháp, tức là phá giới "Bát quan trai", ngồi ăn cơm phi thời với vợ.
Hai người nguyện tu trai pháp ấy, tùy theo tuổi thọ dài vắn rồi cùng chết cả. Người nguyện làm vua thì được sinh vào nhà vua, vì giữ trai giới được hoàn toàn, sau sẽ được làm vua; người nguyện sinh lên trời, vì phá trai giới phải đọa sinh trong loài Rồng.

Chính tôi được nghe: Một lần Phật ở nước Xá Vệ, tại vườn cây của ông Cấp Cô Độc và Thái tử Kỳ Đà. Lúc đó trời vừa sẩm tối, có hai người cõi trời vào yết kiến Phật, thân thể to lớn đẹp đẽ, người có hào quang, ánh sáng chiếu khắp rừng Kỳ Hoàn trở thành vàng ửng. Tới nơi họ cúi đầu lễ Phật nhiễu ba vòng, rồi lui đứng về một bên, và bạch Phật rằng:
- Kính lạy Đức Thế Tôn! Đấng Từ bi cao cả làm Thầy cho hết thảy trời, người, hôm nay chúng con tới đây cúi xin Ngài chỉ dạy cho một lối tu hành thoát khổ trong sáu thú, được an vui đạo Niết bàn?
Khi đó Ngài cũng tùy theo căn khí của họ, thuyết cho họ nghe những pháp thích hợp với tâm lượng của họ, nên hai người đều chứng được đạo quả rồi cúi đầu lễ tạ trở về trời.
Sáng hôm sau buổi trà nước dâng Phật vừa xong, giữa lúc bầu trời êm dịu, thanh khí ôn hòa, trong cuộc thư nhàn vấn đạo, tôi (A Nan) tới trước bạch Phật rằng:
- Kính lạy đức Thế Tôn! Tối hôm qua hai người cõi trời, lại yết kiến Ngài, coi tướng mạo, và oai nghi tốt đẹp, ánh sáng chói loà, phúc đức đầy đủ, không rõ đời trước họ tu những hạnh gì, nay được kết quả tốt lành như vậy?
Phật bảo tôi rằng:
- Này A Nan! Ông lắng nghe tôi nói: Thuở xưa đức Phật Ca Diếp ứng thế độ sinh, sau khi Ngài đã diệt độ, bấy giờ pháp đã tới thời cuối rốt (thời mạt), thuở ấy có hai người tu theo dòng Bà la môn, họ thấy công đức Pháp Bát quan trai cao cả, nên họ xin thụ trì (tu giữ), người thứ nhất nguyện sinh lên trời, người thứ hai nguyện làm Quốc vương.
Thụ rồi trở về nhà vào lúc đã quá giờ ngọ, người thứ nhất được vợ gọi ăn cơm; anh nói:
- Thôi, em ăn cơm đi, hôm nay anh đã thụ giới Bát quan trai của Phật dạy, cử quá giờ ngọ không ăn! Vậy anh không ăn đâu, em ăn đi, để cho sự trai giới của anh được hoàn toàn.
Cô vợ thấy chồng nói thế, bực bội cau mặt nghiến răng nói:
- Anh xưa nay thuộc dòng Phạm chí (đạo Bà la môn) đã có đủ giới pháp, cớ sao hôm nay anh lại đi thụ trai giới của đạo Phật? Nếu anh không chịu bỏ trai giới ấy, mà ăn cơm với tôi, thì tôi đem chuyện này, nói cho tất cả mọi người trong đồng đạo họ biết, họ sẽ đuổi anh ra khỏi bọn họ và chính tôi cũng không chung sống với anh nữa.
Cũng do lòng không vững chắc và nhất là nể vợ, sợ vợ! Nên anh thoái chí bỏ trai pháp, tức là phá giới "Bát quan trai", ngồi ăn cơm phi thời với vợ.
Hai người nguyện tu trai pháp ấy, tùy theo tuổi thọ dài vắn rồi cùng chết cả. Người nguyện làm vua thì được sinh vào nhà vua, vì giữ trai giới được hoàn toàn, sau sẽ được làm vua; người nguyện sinh lên trời, vì phá trai giới phải đọa sinh trong loài Rồng.
Cũng do lòng tin vững chắc, trai giới hoàn toàn thanh tịnh, người làm vua nói trên được hưởng một cuộc đời vương giả trong hoàng cung, đầy vẻ tôn sang, thỏa lòng vui sướng với năm cảnh dục lạc của thế gian! Ông vua này có một vườn cây, trong vườn trồng đủ các thứ quả, mùa nào thứ ấy; vườn này có một người trông nom, để hàng ngày dâng quả lên vua, gọi là Viên Giám, vua vẫn tin dùng anh là người có khả năng trồng cây coi vườn, tưới bón, tùy thời dâng các hoa quả. Một hôm Viên Giám ra giếng nước ngắm chơi, bỗng nhìn thấy một quả nổi trên mặt nước, quả này trên thế gian chưa từng có, sắc đẹp mùi thơm lạ thường, anh vớt lấy và đặt tên cho nó là quả nại, được quả quý này rồi thầm nghĩ rằng:
- Mỗi khi ta vào thành, quan Môn Giám đã chạy ra đón ta, đối với ta một cách thân mật, ta chưa có gì để đền đáp tấm lòng quý hóa ấy, vậy ta đem quả này biếu Ngài.
Nghĩ thế rồi đem quả ấy biếu Môn Giám. Quan Môn Giám được quả này cũng tự cho là một vật quý, nên không ăn, lại đem biếu ông bạn thân là quan Hoàng Môn, quan Hoàng Môn thấy quả quý cũng không ăn, lại dâng lên bà Hoàng hậu, để mua lấy tấm lòng ưu đãi của bà. Bà thấy quả đẹp lạ thơm khác đời, nên bà dâng lên vua dùng. Nhà vua dùng quả này thấy ý vị, mùi thơm từ thuở sinh đến nay chưa từng ăn thứ quả nào được ngon như vậy, liền gọi bà lên hỏi căn do:
- Này bà! Quả mà tôi vừa ăn xong, ngon lắm! Tôi chưa từng thấy quả nào quý như vậy, quả này ai cho?
Phu nhân đáp: - Tâu Bệ hạ! Quả này do quan Hoàng Môn dâng.
Cho gọi quan Hoàng Môn.
Nhà vua hỏi: - Quả này mua tại xứ nào?
Đáp: - Tâu Bệ ha! Quả này nhà hạ thần không có, hôm qua quan Môn Giám cho con, xin bệ hạ khoan thứ.
Cho gọi Môn Giám, vua hỏi:
- Quả ngươi cho Hoàng Môn hôm qua là quả gì, mua ở đâu?
Đáp: - Tâu Bệ hạ quả đó nhà hạ thần không có, hôm qua quan Viên Giám cho, xin Bệ hạ lượng thương.
Cho gọi Viên Giám, hỏi:
- Viên Giám trong vườn của ta có những thứ quả ngon lành như thế, sao không đem dâng ta lại đem cho kẻ nào?
Đáp: - Tâu Bệ hạ quả này trong vườn không có giống trồng, hôm qua hạ thần ra giếng thấy nổi trên mặt nước, xin Bệ hạ thương xét.
Nhà vua nói: - Từ ngày mai trở đi ngày nào ngươi cũng phải đem quả này dâng cho ta, nếu không thì ngươi bị tử hình.
Viên Giám nghe xong chết điếng người, mắt xanh lè, run sợ toát mồ hôi lễ tạ, trở về vườn, tiu nghĩu một mình, sầu khổ một mình! Không biết kêu ai cho mình thoát được cái oan ức ấy? Anh òa lên khóc, đương khóc có người tới hỏi:
- Anh có việc chi lo sợ hãi hùng như vậy? Anh nói cho tôi biết, nếu có thể giúp được tôi sẽ giúp anh!
Đáp: - Thưa bác, tôi là một người coi vườn cho nhà vua, chịu trách nhiệm trông coi vườn quả và hàng ngày dâng quả cho nhà vua dùng, hôm qua tôi bắt được một quả nổi trên mặt giếng, vì thấy quả lạ, quý nên tôi không ăn, đem biếu quan Môn Giám, sau quả đó đưa tới vua; vua ăn thấy ngon lành, giờ đây bắt tôi ngày nào cũng phải dâng, nếu không dâng thì bị tử hình, tôi không biết tìm đâu ra được nên tôi khóc.
- Thôi anh khỏi lo nữa! Nhà tôi có rất nhiều, tôi sẽ cho anh một mâm dâng vua.
Nói xong Từ biệt ra về. Viên Giám vui mừng an lòng đã có người cứu mình. Chính người này là con Rồng hóa hiện ra thân người để hỏi thử chơi đó thôi.
Một lát anh đã đội lên một mâm đầy quả ngon lạ dưới Long cung, thuần những quả trên thế gian không có, trao cho Viên Giám và dặn rằng:
- Khi anh dâng mâm quả này lên vua thì anh nói rằng: Tôi với nhà vua vốn là bạn thân với nhau, đời trước ở dòng Phạm chí, cùng nhau thọ pháp "Bát quan trai", mỗi người có một bản nguyện: Nhà vua tu hành giữ giới hoàn toàn được làm nhân vương, tôi không giữ được toàn, nên phải đọa sinh vào loài Rồng, chịu nhiều cực khổ, thân thể xấu xa, giờ đây tôi muốn tu theo Trai pháp, để cầu bỏ thân này sinh về cõi trời. Vậy nhà vua tìm hộ cho tôi bài văn "Bát quan trai" ấy để tôi tu tập, nếu trái lời tôi, thì tôi sẽ lật đổ nước của nhà vua biến thành biển cả.
Viên Giám mừng rỡ; hai tay cất lấy mâm quả trịnh trọng cảm ơn, dâng mâm quả ấy lên vua và trình bày những lời của Rồng dặn cho vua nghe.
Nhà vua nghe xong, trong tâm thổn thức không yên, trống ngực đập liên hồi, vẻ mặt mất vui tươi! Tại sao thế? Là vì thời đó không có kinh của Phật. Nhà vua đêm ngày âm thầm lo nghĩ cho chính mình và tánh mạng cả một nước, nhưng không tìm được một phương tiện gì để giải quyết, trong lúc đương ngồi suy nghĩ, thì thấy một ông quan Đại thần vào chơi, ông này là một người quan trọng nhất thời đó. Nhà vua liền đem câu chuyện Rồng đòi xin văn "Bát quan trai", nói cho ông nghe và nhờ ông tìm hộ.
Ông thưa rằng: - Tâu Bệ hạ! Đời này không có Phật pháp, thì không thể tìm đâu ra được.
Nhà vua nói: - Việc này khanh phải chịu khó tìm cho bằng được, nếu không tìm được thì khanh cũng chết, ta cũng chết, cho đến toàn quốc cũng chết, vậy việc này ta giao cho khanh phải chịu trọng trách!
Theo lời vua truyền xong, ông bái tạ ra về. Ông là người rất có hiếu với cha già, mỗi khi ông đi đâu về, ông cũng làm ra vẻ mặt tươi, để cho cha ông yên lòng, mừng con được an lạc! Nhưng ngày hôm đó ông không thể nào làm nét mặt của ông tươi được nữa! Cha ông thấy thế hỏi ông rằng:
- Hôm nay con vào chầu vua có việc gì bất trắc mà lo buồn như vậy, nói cho cha biết với!
Đáp: - Thưa cha! Hôm nay nhà vua truyền cho con phải tìm bài văn "Bát quan trai" của Phật giáo, nếu không tìm được thì nguy cả một nước nên con lo quá! Mà con không thể nào gượng sầu làm vui được!
Người cha nói: - Con ạ! Cái cột nhà ta, thường thường cha nhìn thấy có ánh hào quang hiện lên, con bảo người phá ra xem trong đó có vật gì?
Nghe lời người cha nói, ông sai gia nhân lấy cây cột khác thay vào và bổ ra được hai quyển kinh: Một quyển nhan đề là "Thập Nhị Nhân Duyên", một quyển nhan đề là "Văn Bát Quan Trai". Thấy thế, ông vui mừng quá! Vội đem dâng vua, nhà vua cũng hoan hỷ cảm ơn, sai người chép lấy một quyển để lại, còn một quyển giao cho Viên Giám biếu Rồng. Rồng được kinh cũng rất hài lòng với nguyện ước! Trở về đem rất nhiều bảo vật dưới Long cung tạ ơn nhà vua.
Từ đó Rồng chuyên tu trai giới, lúc chết được sinh lên trời, nhà vua cũng chăm tu trai giới, sau khi mạng chết cũng được sinh lên trời, hai người này cùng ở với nhau một nơi. Nói tới đây Ngài lại nhắc cho tôi biết rằng:
Này A Nan! Hai người trời đó, chính là hai người dòng Phạm chí thụ giới "Bát quan trai" thuở xưa ấy, hôm qua tới đây nghe ta thuyết pháp chứng quả Tu đà hoàn cắt đứt ba đường ác, là Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc sanh, đời đời thường được sinh trong cõi trời, cõi người. Từ đây trở đi hai người này sẽ được đạo Niết bàn.
Phật thuyết nhân duyên của hai người xong, tất cả trong đại hội ai ai cũng vui mừng! Kính tin phúc tu của Bát quan trai giới, đều hoan hỷ phụng hành lễ tạ lui ra.

(Trích từ Kinh Hiền Ngu)

0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites