Ý
nghĩa văn hóa và phương pháp tu trì của Tịnh độ tông chẳng những có thể
đáp ứng mong muốn của con người hiện đại ở trình độ cao mà còn có khả
năng chữa trị có hiệu quả những căn bệnh của xã hội ngày nay.
1. Tịnh độ tông phù hợp với cơ duyên của xã hội ngày nay
Tịnh độ tông
đối với xã hội ngày nay là vấn đề được rất nhiều người trong và ngoài
Phật giáo quan tâm. Tịnh độ tông có tác dụng như một thạch trụ trung tâm
của Phật giáo và xã hội hiện tại cũng như tương lai. Có hai lý do chủ
yếu sau đây:
Một là sự huyền ký về pháp vận Phật giáo của đức Thế Tôn có tác dụng hưng khởi Tịnh độ tông: Trong kinh “Tượng pháp quyết nghi” và kinh “Đại tập nguyệt tạng”
cũng như nhiều kinh điển Đại thừa khác, đem Phật pháp chia làm 3 thời
kỳ, đó là: Chính pháp, Tượng pháp và Mạt pháp. Mỗi thời kỳ pháp vận đều
đầy đủ những đặc trưng của nó. Trong kinh chép: “Chính pháp 1.000 năm là thời kỳ Trì giới kiên cố; Tượng pháp 1.000 năm là thời kỳ Niệm Phật kiên cố”.
Trong kinh lại nói vào thời kỳ Mạt pháp tuy có ức
ức người tu hành, song hiếm có được người nào đắc đạo, duy chỉ có nương
theo pháp môn niệm Phật mà được độ thoát khỏi sinh tử luân hồi”. Một
đoạn huyền ký của đức Thế Tôn quả thực là đuốc tuệ giữa đêm đen xua tan
mọi sự tối tăm, chỉ cho chúng sinh con đường chân chính tốt đẹp, đó cũng
chính là động lực làm cho Tịnh độ tông phát triển mạnh mẽ trong thời
đại ngày nay.
Người chỉ ra tư tưởng mạt pháp và đề xuất pháp môn
Tịnh độ sớm nhất là Đại sư Đạo Xước đời Đường ở Trung Quốc, Ngài đem
giáo pháp của đức Phật chia làm 2 môn là Thánh đạo và Tịnh độ. Từ góc độ
thời giáo tương ứng thì ngày nay đã trải qua hơn 500 năm đầu của thời
kỳ mạt pháp, do vậy nên xả bỏ Thánh đạo môn (dựa vào tự lực đoạn hoặc
chứng chân) chuyển hướng về Tịnh độ môn (dựa vào Phật lực đới nghiệp
vãng sinh).
Nối tiếp tư tưởng đó là Đại sư Thiện Đạo, chính là người tập đại thành thuyết minh về “tha lực bản nguyện”. Đại sư nhận định rằng: “pháp
môn Tịnh độ là pháp môn phương tiện đặc biệt được thiết lập nhằm giúp
cho chúng sinh thời mạt pháp ngang vượt ba cõi, viên thành Phật đạo”.
Chúng sinh bị chìm đắm, bỏ pháp môn này thì khó có thể ra khỏi đường
hiểm sinh tử. Về sau trải qua các đời, các bậc tổ sư Tịnh độ như Đại sư
Vĩnh Minh, Đại sư Liên Trì, Đại sứ Ngẫu Ích, Đại sư Triệt Ngộ, Đại sư Ấn
Quang… đều kế thừa và phát huy tư tưởng phán giáo dị hành đạo của thời
kỳ mạt pháp mà khởi xướng pháp môn Tịnh độ, được đông đảo Tăng Ni Phật
tử hưởng ứng cao độ.
Ngày nay xu hướng Phật giáo toàn cầu hóa ngày một
phát triển sâu rộng, Tịnh độ tông cũng góp mặt và lưu dấu ấn khắp các
nước trên thế giới, từ Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Việt
Nam… cho đến các nước Âu Mỹ, các đoàn thể, hiệp hội, liên xã niệm Phật
phát triển mạnh mẽ.
Hai là đặc tính của xã hội hiện đại và đặc điểm đơn
giản thẳng tắt của pháp môn Tịnh độ tự nhiên thích ứng với nhau, điều
đó chứng tỏ Tịnh độ tông vừa mang tính hiện đại vừa mang tính thời đại.
Xã hội hiện đại là xã hội của khoa học kỹ thuật công nghệ cao và kinh tế
thị trường, đã đem lại văn minh vật chất cho xã hội loài người, thông
tin của xã hội, tri thức của xã hội càng ngày càng tăng lên gấp bội.
Điều đó thúc bách con người hiện đại phải tăng tốc
độ kỹ năng nhận thức, tiếp thụ các loại tri thức hiện đại để thích ứng
và cải tạo thế giới bên ngoài. Trào lưu toàn cầu hóa, kinh tế thị trường
đã làm thay đổi phương thức tư duy của toàn xã hội, đó là chủ nghĩa vật
chất thực dụng, phân chia làm hai thái cực giàu nghèo một cách rõ rệt.
Dân số ngày một tăng, tài nguyên thiên nhiên lại bị khai thác, phá hoại
đến mức cạn kiệt càng khiến cho cuộc đấu tranh sinh tồn của xã hội loài
người càng trở nên gay gắt…
Thực tế đó như một lời thách đố trong việc hoằng
dương Phật pháp ở thời hiện đại. Cho nên ngày nay muốn tu hành thành tựu
liễu sinh thoát tử quả thật là một điều hết sức khó khăn. Do đó các bậc
cố đức trong Phật giáo lựa chọn một loại pháp môn thích ứng và chuyển
hóa xã hội hiện đại, chính nội hàm và đặc tính của Tịnh độ tông phù hợp
với yêu cầu đó của xã hội hiện đại.
Giáo nghĩa và phương pháp tu trì của Tịnh độ tông
hết sức phù hợp với cơ duyên của con người, xã hội ngày nay. Con người
ngày nay sống và làm việc với nhịp độ cao, tính cạnh tranh quyết liệt,
không có thời gian nhàn rỗi để tu tập Phật pháp, song phương thức tu tập
của Tịnh độ tông lại rất phù hợp. Nếu hàng ngày không có nhiều thời
gian nhàn rỗi thì chỉ cần dùng pháp môn thập niệm là được (chỉ cần 5
phút là đủ).
Các chủng loại, phương thức niệm Phật hết sức linh
hoạt không cần phải có đạo tràng, pháp khí trợ giúp mà ở tất cả mọi nơi,
mọi lúc, mọi hành vi, cử chỉ đi đứng nằm ngồi đều có thể niệm Phật được
mà không hề trở ngại. Con người hiện đại ưa thích ngắn gọn đơn giản,
nhanh chóng, Pháp môn niệm Phật cũng đầy đủ đặc tính đó.
Ví dụ bạn đang đối mặt với một vấn đề khó khăn mà
phải bó tay, tâm lý rất hoang mang, lúc đó bạn hãy hít thở sâu rồi chú
tâm niệm Phật một vài câu, tinh thần liền an định, lý trí sáng suốt để
xử lý vấn đề. Nếu bạn gặp phải nghịch cảnh, khi tâm sân hận có thể phát
khởi, bạn hãy chú tâm niệm Phật một vài câu thì lửa sân có thể dập tắt,
tâm ý sẽ trở nên an lành nhẹ nhàng cho đến cả khi lâm chung, nếu dốc
lòng niệm danh hiệu Phật A Di Đà 10 niệm hay thậm chí 1 niệm cũng có thể
nhờ Phật A Di Đà tiếp dẫn vãng sinh cực lạc cứu cánh thành Phật. Điều
đó chứng tỏ pháp môn niệm Phật sinh Tịnh độ là pháp môn rất phù hợp với
tâm lý tiêu dùng của xã hội hiện đại: “Không rời Phật pháp mà hành thế pháp, không bỏ thế pháp mà chứng nhận Phật pháp vậy”.
Tịnh độ tông thể hiện được tinh thần tự do phóng
khoáng của tư tưởng Phật giáo Đại thừa, điều đó càng thích hợp với sự tu
hành của Phật tử tại gia; tức là ở nơi trần lao mà làm Phật sự, chuyển
thế tục thành đạo tràng thanh tịnh, đem phương pháp niệm Phật vào trong
mọi sinh hoạt đời thường nhằm thực hiện “niệm Phật sinh hoạt hóa, sinh hoạt niệm Phật hóa”. Như vậy có thể trở thành hạnh phúc mỹ mãn.
Trong kinh Hoa Nghiêm, Thiện Tài đồng tử đi tham
học với 53 vị Thiện tri thức, trong đó chỉ có 4 vị là người xuất gia,
còn lại đều là cư sĩ tại gia đại diện cho các giới, các tầng lớp và làm
mọi nghề nghiệp trong xã hội, điều đó chứng tỏ pháp thế gian không làm
chướng ngại việc tu trì Phật pháp. Đặc tính giản dị và phóng khoáng của
Tịnh độ tông rất phù hợp với tính chất của xã hội hiện nay.
Ngày nay khoa học kỹ thuật và văn minh vật chất
phát triển với tốc độ cao, nó làm cho môi trường, hoàn cảnh, lối sống,
đạo đức, nhân văn… xuống cấp trầm trọng. Đức Thích Ca đã từng huyền ký: “Sau
khi ta nhập Niết Bàn, tới thời mạt pháp, kinh đạo dần dần tiêu diệt,
nhân dân giả dối lừa gạt lẫn nhau, lại đua nhau làm các việc ác, bấy giờ
năm thứ thiêu đốt, năm thứ khổ đau dần dần thịnh mãn”. Đoạn kinh này chính là tả thực xã hội ngày nay, muốn liễu sinh thoát tử, viên thành Phật đạo thì cần có pháp môn Tịnh độ.
2. Tịnh độ tông với hoàn cảnh sinh thái
Công nghiệp hóa và toàn cầu hóa đồng thời đem lại
nền văn minh vật chất, đi theo nó là hoàn cảnh sinh thái môi trường ô
nhiễm, xuống cấp nghiêm trọng. Đó là hậu quả do công nghiệp hóa đem lại
mà nhân loại không lường trước được. Vấn đề đó đã trở nên nghiêm trọng,
làm cho chính phủ các nước có sự quan tâm chú ý. Có nhà khoa học đã từng
dự báo: Nếu như con người tiếp tục phá hoại hoàn cảnh sinh thái như tốc
độ hiện nay thì 50 năm nữa sẽ không còn chỗ cho con người sinh sống
trên trái đất này. Do đó một vấn đề hết sức nghiêm trọng đặt ra trước
mắt mọi người đó là: “chúng ta chỉ có một trái đất này, chúng ta phải làm gì để chung sống hòa bình với trái đất này?”.
Muốn hóa giải nguy cơ hoàn cảnh sinh thái xuống cấp
một cách hữu hiệu, cần phải chữa trị tận gốc rễ căn bệnh trầm kha của
xã hội ngày nay. Phương diện này, giáo nghĩa Tịnh độ có thể vì con người
ngày nay mà đề xuất phương pháp hữu ích:
Ý nghĩa văn hóa Tịnh độ chú trọng tịnh hóa thân tâm
con người, lấy việc giảm thiểu sự tiêu phí vật chất sẽ đem lại sự tồn
tại cho mạng sống, đem lại sự giải thoát tâm linh và tinh thần, cũng như
hoàn thiện nhân cách đạo đức cho con người. Tại tiền đề “Mục tiêu cuộc sống” cảm quan hưởng thụ vật chất cần phải đạt đến sự điều tiết hợp lý.
Quan điểm giảm thiểu tiêu dùng vật chất, một mặt sẽ
làm giảm bớt sự khẩn trương gấp gáp của cuộc sống, ngăn ngừa tội ác do
tham dục phát động, mặt khác sẽ làm giảm bớt sự khai thác tài nguyên
thiên nhiên, nhờ đó thiên nhiên sẽ được bảo vệ, con người thiết lập được
mối quan hệ sống hòa hợp với tự nhiên.
Đối với muôn mặt của tự nhiên vạn hữu, văn hóa Tịnh
độ bảo đảm duy trì lòng từ bi bình đẳng. Chúng ta chẳng những không tàn
hại tính mệnh của chúng để nuôi dưỡng bản thân mình, mà còn phải thiết
lập mối quan hệ thân thiện cùng chung sống trong hòa bình với tự nhiên
vạn vật.
Trong Phật giáo có 3 loại từ tâm: đó là sinh duyên
từ, pháp duyên từ và vô duyên từ, đều cùng là đồng thể đại từ bi. Trong
đó pháp duyên từ là chỉ cho vạn pháp cùng một thể tính mà chiêu cảm phát
sinh từ tâm đối với khí thế gian (vạn pháp). Xem tất cả địa đại, thuỷ
đại là thân trước của ta. “Tình dữ vô tình đồng viên chủng trí” hay “nhất thiết chúng sinh giai cộng thành Phật đạo” đó là quan niệm tuyệt đãi viên dung của Tịnh độ tông. Quan niệm ấy với quan niệm “Thiên nhân hợp nhất” của Nho giáo hay quan niệm “Thiên địa dữ ngã đồng căn, vạn vật dữ ngã đồng thể” của Đạo gia là tương ứng đồng nhất.
Với quan điểm chủ đạo đó, nền tảng sinh tồn tự thân
của nhân loại là sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đồng
thời phải có sự tái tạo các nguồn tài nguyên như trồng rừng, sử dụng hợp
lý nguồn nước, bảo vệ các nguồn động thực vật quý hiếm… Còn đối với các
nguồn tài nguyên không tái tạo được như khoáng sản, dầu mỏ, kim loại…
thì phải hạn chế khai thác, sử dụng khi thật cần thiết và tăng cường chế
tạo, sử dụng các vật liệu nhân tạo để thay thế.
Thông qua ý nghĩa “y báo chính báo không hai không khác”
của Tịnh độ, chúng ta nhận thấy hoàn cảnh tự nhiên bên ngoài và hoàn
cảnh xã hội nhân văn (y báo) với thân tâm con người (chánh báo) là quy
luật tương ứng của nhau. Tâm tịnh thì quốc độ tịnh, tâm nhơ thì quốc độ ô
nhiễm. Tâm niệm từ bi thanh tịnh thì chiêu cảm pháp giới của Phật, gió
đức mưa hoa, đất bằng vàng ròng. Tâm niệm thiện về ngũ thường thế gian
(nhân - lễ - nghĩa - trí - tín) thì chiêu cảm cõi nhân gian an lành hạnh
phúc; một niệm dâm dục, sân hận phát khởi thì chiêu cảm cảnh giới địa
ngục núi đao rừng kiếm, núi lửa vạc dầu…
3. Tịnh độ với hòa bình thế giới
Từ khi có nhân loại đến nay, con người trên trái
đất luôn sống trong bóng đen của chiến tranh và sự sợ hãi. Trong 100 năm
ngắn ngủi của thế kỷ 20, toàn thế giới đã xảy ra trên 300 cuộc chiến
tranh lớn nhỏ khác nhau, ngay đầu thế kỷ 21 đã xảy ra hàng loạt cuộc
chiến tranh xâm lược và khủng bố. Các loại vũ khí hiện đại có sức công
phá và sát thương hàng loạt ngày càng phát triển.
Hiện nay trên thế giới số lượng vũ khí đạn dược
hiện có đã gấp 5.000 lần với số vũ khí được sử dụng trong chiến tranh
thế giới thứ hai, ngoài ra còn các loại vũ khí nguyên tử, vũ khí sinh
học… có nguy cơ huỷ diệt cả thế giới. Đứng trước sự lựa chọn sinh tồn và
hủy diệt, các dân tộc, quốc gia yêu chuộng hòa bình trên thế giới đều
hô hào ủng hộ lập trường “Hòa bình thế giới” mà đề xuất rất nhiều phương án để giảm trừ tai nạn tránh đi những cuộc chiến tranh. Có nhà chiến lược từng nói: “Nguyên
tử có thể làm thay đổi toàn thế giới nhưng không thể làm thay đổi được
phương thức tư duy của nhân loại, vì thế nhân loại phải hướng đến một
thế giới không có tai nạn chiến tranh”.
Muốn hóa giải tai nạn chiến tranh, điều cốt yếu
phải cải biến tư duy của nhân loại, đem phương thức tư duy của nhân loại
mà trung tâm là tham dục, chiếm đoạt, thù địch và tự ngã ra khỏi đám
bùn lầy đen tối đó. Đối với vấn đề này, văn hóa Tịnh độ tông có những
biện pháp khả thi hữu hiệu.
Đức Thế Tôn thấu hiểu tận cùng nghiệp tính của
chúng sinh cõi Sa Bà luôn bị tham sân si sai khiến, thúc bách mà tạo tác
muôn vàn tội ác. Kẻ mạnh lấn lướt kẻ yếu, cạnh tranh chống đối lẫn
nhau, tàn hại giết chóc, ăn nuốt lẫn nhau không biết làm việc thiện, về
sau phải chịu tai ương hoạn nạn. Chúng sinh ở thế gian này khinh yếu sợ
mạnh, chống đối hận thù hung tàn bạo ngược… làm nhiều điều bất thiện.
Chúng sinh ngu si một khi đã gieo xuống nhân ác, tự nhiên khó thoát khỏi
khổ báo, khi sống gặp phải cảnh oan oan tương báo, lúc chết đi phải đoạ
vào ba nẻo ác địa ngục, ngã quỷ, súc sinh.
Luân chuyển trong đó, đời này kiếp khác, không biết
đến lúc nào có thể thoát ra được. Đức Thế Tôn thấy vậy dùng tâm đại bi
vô tận truyền trao Phật pháp muốn cho chúng sinh là khổ được vui, dạy
con người ta lấy tâm từ bi, tâm bình đẳng, tâm công chính mà đãi nhân
tiếp vật, lấy tâm khiêm tốn nhẫn nhục để xoá giải xung đột trên thế
giới. Chúng sinh đồng một thể, mình và người không khác, lợi người chính
là lợi mình, giết hại kẻ khác chính là giết mình.
Cho nên con người phải hiểu rõ lý nhân quả, bỏ ác
làm lành như thế ắt được quả lành, lo gì thiên hạ không thái bình. Đúng
như lời Phật dạy: “Những nơi Phật đến, làng mạc thành thị đều được
thấm nhuần ơn giáo hóa, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt trong sáng, mưa
gió thuận thời, tai nạn dịch bệnh không phát sinh, nước thịnh dân an,
các loại vũ khí không còn phải dùng đến, nhân dân sùng mộ đạo đức nhân
nghĩa, chỉ chăm làm việc thiện, trong nước không có nạn trộm cắp, không
có người bị oan uổng, mạnh không lấn lướt yếu, mọi người đều vui lòng
toại ý".
Có thể thấy lý tưởng văn hóa Tịnh độ rất có lợi cho việc kiến tạo hòa bình thế giới, nó cũng phù hợp với lý tưởng “Dĩ hòa vi quý” của
nhân dân ta. Chính phủ luôn lấy nguyên tắc hòa bình để đối ngoại và đối
nội, nó thể hiện truyền thống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam
ưa chuộng hòa bình. Lý tưởng hòa hợp, bình đẳng, từ bi nhẫn nhịn, bác
ái của Tịnh độ tông chính là phương thuốc hữu hiệu để chữa trị cơ thể xã
hội từng ngày đang bị các thế lực tà ác, cường quyền xâm nhiễm.
4. Tịnh độ tông với việc xây dựng đạo đức nhân văn
Đạo đức là yếu tố không thể thiếu được trong việc
ổn định, duy trì và phát triển xã hội. Tình trạng đạo đức và trình độ
văn minh của xã hội có quan hệ mật thiết với nhau. Xã hội phong kiến
Việt Nam ảnh hưởng văn hóa tư tưởng nho giáo và Phật giáo nên chủ trương “dùng đức trị quốc”. Do đó đạo đức truyền thống của Việt Nam
đã có bề dầy lịch sử hàng ngàn năm, cho đến nay những giá trị đạo đức
truyền thống bị mai một thay vào đó là tình trạng đạo đức vô lối xuất
hiện mà từ trước chưa hề có.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng xuống cấp về đạo đức
có rất nhiều, nhưng điều căn bản nhất đó là: Con người ngày nay không
tin nhân quả, thậm chí nhạo báng nhân quả, cho rằng thành thực chính là
kẻ gốc, gian ác mới là tài cán, thông minh. Do loại tâm lý đó chi phối
nên một bộ phận người trong xã hội không hề sợ, không hề kiêng kỵ bất cứ
điều gì mà họ không dám làm. Tuy có bị pháp luật nghiêm cấm, trừng trị
nhưng không hạn chế được bao nhiêu.
Thêm vào đó là nền kinh tế thị trường và văn minh
vật chất là động cơ thúc đẩy tính tham dục và tự ngã của con người ngày
càng tăng thịnh, nó từng ngày, từng giờ huỷ hoại, đe doạ con đê đạo đức
vốn đã suy yếu. Trước sự thật đó khiến mọi người phải ý thức được rằng:
Nếu không khôi phục được văn hóa đạo đức cho xã hội ngày nay, chẳng
những quan hệ đến sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
kinh tế của nước ta, mà còn liên quan đến sự thịnh suy, tồn vong của đất
nước.
Sự hủ bại của tâm lý đạo đức làm đảo lộn những giá
trị, tiêu chuẩn, quan niệm về nhân sinh, xã hội và các mối quan hệ. Để
cải tiến được tình trạng đó, trước hết phải đề xướng tư tưởng “Thiện ác nhân quả báo ứng”. Trong kinh điển của Tịnh độ đã từng hiểu dụ: “Các
loài chúng sinh ở thế gian không biết làm thiện, sau phải chịu tai ương
hình phạt; có những kẻ nghèo cùng ăn xin, cô độc, câm, mù, ngọng, điếc,
què quặt, điên cuồng… đều do đời trước không tin đạo đức, không chịu
làm lành. Lại có những người tôn quý, giàu sang hiền triết, trưởng giả,
trí dũng, tài năng… đều do đời trước hiền lương, hiếu thuận, làm lành
chứa đức mà có".
Sau khi đã chỉ rõ lý nhân quả đức Phật khuyên chúng sinh nên giữ giới làm lành. Hành giả Tịnh độ nên tu trì “Tịnh nghiệp tam phúc”
đó là: Tu tập phúc báo thế gian gồm 4 nội dung: Hiếu dưỡng cha mẹ; tôn
thờ thầy dậy; Từ tâm không giết hại; và tu mười thiện nghiệp. Những tội
ác, những hành vi đạo đức đồi bại phần lớn không ngoài sát sinh, trộm
cướp, dâm dật, lừa gạt nói dối. Nếu như có nhiều người thực hành ngũ
giới, thập thiện, thì phong khí đạo đức xã hội sẽ được căn bản hoàn
thiện.
Tiến thêm một bước là phát tâm Bồ đề, niệm Phật, tu
đức thì xã hội chúng ta đã là Tịnh độ thế gian. Như vậy có thể thấy
hiểu và tin nhân quả chính là cơ sở nền tàng căn bản không thể thiếu
được để xây dựng đạo đức xã hội, đó cũng là cống hiến của Tịnh độ tông
trong việc cải thiện nhân tâm thế đạo. Đại sư Ấn Quang từng chỉ dạy: “Nhân quả chính là nguyên tắc để các bậc thánh thế gian, xuất thế gian bình trị thiên hạ, là đại quyền để độ thoát chúng sinh".
Ngày nay nếu không lấy nhân quả làm nhiệm vụ cấp bách để cứu nước cứu
dân, thì cái đạo đức, sự khôn khéo cao siêu của các vị chỉ là giả dối.
Những lời thống thiết xuất phát từ lòng từ bi vô
lượng của chư Phật, chư tổ chính là kim chỉ nam cho chúng ta cứu vãn,
khôi phục và làm rực rỡ nền văn hóa đạo đức truyền thống của dân tộc.
Theo: Nghiên cứu Phật học (Thích Tiến Đạt)
|
0 Kommentare:
Post a Comment