Pages

03 April 2019

ĐẠI HẠNH PHÚC KINH - PHẦN I

Trước hết chúng ta phải biết rằng, người ác họ không khác gì ta ở thể chất, hình tướng hoặc dong mạo! Người ác không phải chỉ là hạng người côn đồ, cướp bóc, hay nghèo khó, thất học hoặc bệnh tật; mà có khi họ là người cao sang, quyền quý, học thức, thượng lưu trong các giai cấp xã hội. 



NGUYÊN NHÂN ĐỨC PHẬT GIẢNG PHÁP HẠNH PHÚC
 
Tác giả: Mahà Thông Kham Medhivongs
Hiệu đính: Minh đức Triều Tâm Ảnh

Hai mươi sáu thế kỷ trước đây, nghĩa là khi đức Phật chưa thành đạo, đất nước cổ xưa Ấn Độ đã phát triển cực thịnh về mặt tôn giáo, tín ngưỡng và tâm linh. Các trường phái triết học nườm nượp ra đời để giải đáp những câu hỏi liên quan đến con người, số phận con người và kiếp sống hữu hạn của con người. Đại lược như:
- Người ta từ đâu sanh đến?
- Tại sao lại chết?
- Chết rồi sanh đi đâu?
- Tại sao người giàu sang, kẻ nghèo hèn khác nhau?
- Làm sao tìm được hạnh phúc?
Do giải đáp những câu hỏi đó mà sinh ra nhiều tôn giáo, tùy theo kiến thức và quan niệm của các vị giáo chủ - tìm cách giảng giải sao cho thuyết phục tín đồ.
Phong trào ấy phổ biến rất mau và rất sâu rộng trong miền Trung và Tây Bắc Ấn. Người ta thường tụ tập dưới cội cây to nơi ngã ba đường, ngã tư đường để bàn cãi và giảng giải những vấn đề nêu trên.
Trong tất cả các câu hỏi ấy, câu hỏi cuối cùng là quan trọng nhất. Người ta thắc mắc, ưu tư, trăn trở rằng là: “Cái gì thật sự đem đến hạnh phúc cho nhân loại?”
Có vị giáo chủ đáp: “Phàm trong thân thể con người, mắt là quan trọng nhất - vì mắt đem lại ánh sáng, là nguồn ánh sáng cho con người. Không có mắt, con người sẽ không nhìn thấy vạn vật xung quanh, sẽ sống trong tối tăm vĩnh viễn. Vậy theo chủ kiến của tôi: Mắt đem lại hạnh phúc cho con người. Mắt là nguồn hạnh phúc!”
Khi ấy có người hỏi gặng: “Vậy là ngài xác định, khẳng định rằng, mắt đem đến hạnh phúc thật sự cho con người có phải chăng?”
Vị giáo chủ tự tin đáp: “Đúng vậy! Mắt được xem như là chủ nhân của cái thân nầy và cả đời sống của con người nữa. Tôi còn xác tín rằng, mọi vật mà mắt trông thấy đều đem đến hạnh phúc cho con người!”
Người kia bèn phản bác lại: “Lập luận của ngài không đứng vững được rồi. Đâu phải cái gì, sự vật gì, hiện tượng gì mắt nhìn thấy hẳn là hoàn toàn tốt đẹp? Này nhé, những người phong hủi, ghẻ lở, khuyết tật ngũ quan; phân, xác thối, vật dơ uế, bất tịnh; rồi còn những chuyện trái ý nghịch lòng, những cảnh chướng tai gai mắt... đôi khi chúng mang đến khó chịu, bực bội hoặc mủi lòng thì có - chớ làm gì có chuyện - cái gì mắt nhìn thấy đều đem đến hạnh phúc?”
Ông giáo chủ cụt hứng, im re. Tuy nhiên, thật lạ lùng làm sao, ông vẫn truyền bá được chủ thuyết ngây ngô và ấu trĩ ấy đến quần chúng và cũng được rất đông mọi người tín mộ, nghe theo. Nó vẫn tồn tại giữa cuộc đời. Chủ thuyết ấy được gọi là Diṭṭhamaṅgala - có nghĩa thấy là hạnh phúc!
Lại có vị giáo chủ khác chủ trương “Nghe là hạnh phúc”-  phạn ngữ là Sutamaṅgala. Ông ta nói: “Nếu nói thấy là hạnh phúc thì thật là lầm, vì mắt không quan trọng như người ta nói, chính tai mới là quan trọng. Mắt là một giác quan lười biếng nhứt trong thân nầy; vật gì nằm ở phía trước và có ánh sáng nó mới trông thấy được, nếu thiếu ánh sáng hoặc vật ấy ở sau lưng, nó không trông thấy được! Thế là mắt không quan trọng bằng tai, vì tai nghe không cần ánh sáng, không cần trước mặt, sau lưng, phương hướng nào nó cũng nghe được; vì vậy nên tôi quan niệm rằng tai mới là vật đem lại hạnh phúc cho con người”.
Có người hỏi : “Thưa ngài, vậy những tiếng gì đã nghe do nơi tai đều là hạnh phúc và an lành hết chăng?
Vị giáo chủ ấy đáp: “Chắc chắn vậy"
Người nọ hỏi: “Nếu vậy khi nghe tiếng chửi bới nguyền rủa có phải là hạnh phúc chăng?”
Vị giáo chủ với chủ trương “Nghe là hạnh phúc”không giải thích cho thông sự thật ấy được!
Lại có vị giáo chủ khác nữa, chủ trương rằng “Sự suy nghĩ là hạnh phúc”, phạn ngữ là Cintāmaṅgala. Vị ấy nói rằng: “Sự thật trong thân người, bộ phận quan trọng nhất là tâm. Nhờ có tâm, con người mới biết được mọi việc; có tâm mới hành động và phân biệt được mọi lẽ. Người biết suy nghĩ cũng do nơi tâm, bởi tâm mới là nhân đem đến hạnh phúc cho nhân loại. Vạn vật trên vũ trụ nầy đều do tâm tạo, nên tâm mới thật sự đem lại hạnh phúc cho ta”.
Có người đứng lên hỏi: “Lời ngài dạy dường như chỉ đúng một nửa! Vừa rồi, có một bọn cướp vừa bị xử trảm tại pháp trường! Có phải là do sự suy nghĩ của họ đem sự tai hại cho họ hay không? Vậy ở đây phải cần thêm các yếu tố lành tốt hay xấu ác nữa chứ?!”
Thế là thêm một vị giáo chủ bị loại trừ. Nhưng thiên hạ bấy giờ vẫn còn cố gắng tranh luận, đi tìm biết nguyên nhân của hạnh phúc, nói chung là cứ loanh quanh, luẩn quẩn nơi lục căn và lục trần!
Người ta thường đem những lý thuyết trên kia ra tranh luận với nhau, sự tranh biện như thế kéo dài đến 12 năm cũng chẳng ngã ngũ vào đâu. Đến sau, đức Thế Tôn đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, ngài truyền bá chân lý sâu rộng trong cõi Diêm-phù-đề. Nhiều người bạch hỏi đức Thế Tôn về Hạnh phúc, lúc ấy đức Thế Tôn mới dạy 38 pháp hạnh phúc.

+ Ba mươi tám pháp Hạnh phúc ấy, có thể chia ra làm hai loại là:

1. Hạnh phúc theo quan điểm của các giáo chủ, đạo sĩ, triết gia:  Là tự mình tìm thấy một nguyên nhân nào đó đem lại hạnh phúc cho mình, rồi tưởng rằng, nguyên nhân ấy cũng có thể đem đến hạnh phúc cho nhân loại. Trường hợp ba vị giáo chủ ở trên, với quan niệm hạnh phúc ấy của họ - thì thật là hời hợt, nông cạn, phiến diện, một chiều, rất giới hạn và rất cục bộ vậy!
2. Hạnh phúc do sự thấy biết của đức Phật: Đây là những hạnh phúc do ngài thấy biết bằng sự chứng ngộ, giác ngộ! Những hạnh phúc này không phải là quan niệm, quan điểm của cá nhân ngài - mà nó là sự thực được ngài thấy biết bằng tuệ giác sau khi đắc đạo dưới cội cây bồ-đề - nhờ công đức ba-la-mật huân tu trong vô lượng kiếp.

+ Phàm người muốn được hạnh phúc thì phải thực hành 38 pháp, phân 3 cấp độ là:

1. Từ hạnh phúc thứ nhất tới thứ pháp thứ 18, để tạo nên một đời sống hạnh phúc giữa nhân quần, xã hội...
2. Từ pháp thứ 19 tới pháp thứ 30 là để dạy tâm cho được vững chắc, trong sạch - không để cho tâm bị tiền tài, danh vọng làm cho lung lay, hoen bẩn.
3. Từ pháp 31 tới pháp 38 là để dứt phiền não, nhập Niết-bàn, là nơi an vui, hạnh phúc tuyệt đối.
Các bực tại gia cư sĩ và các hàng xuất gia hành trì các pháp hạnh phúc ấy tùy theo trình độ tinh tấn của mỗi hạng, từ các bực căn cơ thấp kém cho tới bực phước duyên tròn đầy. Nói một thể khác thì, 38 hạnh phúc này dạy cho người Phật tử chơn chính - phương pháp tìm kiếm và an lập được hạnh phúc tương đối ở trên đời; sau đó có thể hành trì, tu tập thêm cho đến nơi giải thoát hoàn toàn, thọ hưởng hạnh phúc siêu thế!
38 hạnh phúc được thuyết giảng trong mười câu kệ ngôn trình bày theo thứ tự sau đây.

HẠNH PHÚC KINH
Như vậy tôi nghe / Một thời Thế Tôn / Ngự tại Kỳ Viên Tịnh Xá / Của Trưởng giả Cấp Cô Độc / Gần thành Xá vệ. / Khi đêm gần mãn / Có một vị Trời / Dung sắc thù thắng / Hào quang chiếu diệu / Sáng tỏa Kỳ Viên / Đến nơi  Phật ngự / Đảnh lễ Thế Tôn / Rồi đứng một bên / Cung kính bạch Phật / Bằng lời kệ rằng:
“Chư  Thiên và nhân loại
Suy nghĩ điều hạnh phúc
Hằng tầm cầu mong đợi
Một đời sống an lành
Xin ngài vì bi mẫn
Hoan hỷ dạy chúng con.
Về phúc lành cao thượng”
(Thế Tôn tùy lời hỏi
Mà giảng giải như vầy)
1. Asevanā ca bālānaṃ
Paṇḍitānañca sevanā
Pūjā ca pūjanīyānaṃ
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ.
 
1. Không gần gũi kẻ ác
Thân cận bậc trí hiền
Đảnh lễ người đáng lễ
Là phúc lành cao thượng.
 
2. Paṭirūpa-desa-vāso ca
Pubbe ca kata-puññatā
Atta sammā paṇīdhi ca
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ

2. Ở trú sứ thích hợp
Công đức trước đã làm
Chân chánh hướng tự tâm
Là phúc lành cao thượng.

3. Bāhu-saccañca sippañca
Vinayo ca susikkhito
Subhāsitā ca yā vācā
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ.

3. Đa văn, nghề nghiệp giỏi
Thông suốt các luật nghi
Nói những lời chân chất
Là phúc lành cao thượng.

4. Mātā-pitu upaṭṭhānaṃ
Putta-dārassa saṅgaho
Anākulā ca kammantā
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ.

4. Hiếu thuận bậc sinh thành
Dưỡng dục vợ và con
Sở hành theo nghiệp chánh
Là phúc lành cao thượng.

5. Dānañca dhamma-cariyā ca
Ñātakānañca saṅgaho
Anavajjāni kammāni
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ

5. Bố thí hành đúng pháp
Giúp ích hàng quyến thuộc
Giữ chánh mạng trong đời
Là phúc lành cao thượng.

6. Āratī-viratī pāpā
Majja-pānā ca saññamo
Appamādo ca dhammesu
Etaṃ mangalam’uttamaṃ.

6. Xả ly tâm niệm ác
Chế ngự không say sưa
Không phóng dật trong pháp
Là phúc lành cao thượng.

7. Gārāvo ca nivāto ca
Santuṭṭhī ca kataññutā
Kālena dhamma-savanaṃ
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ.

7. Đức cung kính, khiêm nhường
Tri túc và tri ân
Đúng thời nghe chánh pháp
Là phúc lành cao thượng.

8. Khantī ca sovacassatā
Samaṇānañca dassanaṃ
Kālena dhamma-sākacchā
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ

8. Nhẫn nhục, lời nhu hòa
Yết kiến bậc sa môn
Tùy thời đàm luận Pháp
Là phúc lành cao thượng.

9. Tapo ca brahma-cariyā ca
Ariya-saccāni dassanaṃ
Nibbāna-sacchikiriyā ca
Etaṃ maṅgalam’uttamaṃ

9. Tự chủ, sống Phạm hạnh
Thấy được lý Thánh đế
Giác ngộ Đại Niết Bàn
Là phúc lành cao thượng.

10. Phuṭṭhassa loka-dhammehi
Cittaṃ yassa na kampati
Asokaṃ, virayaṃ, khemaṃ
Etaṃ maṅgalam’utamaṃ

10. Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động, không sầu
Tự tại và vô nhiễm
Là phúc lành cao thượng

Etādisāni katvāna
Sabbattham’aparājitā
Sabbattha-sotthiṃ gacchanti taṃ
Tesaṃ maṅgalam’uttaman’ti.

Những sở hành như vậy
Không chỗ nào thối thất
Khắp nơi  được an toàn
Là phúc lành cao thượng.

KỆ NGÔN I
HẠNH PHÚC I

Asevanā ca bālānaṃ: Không thân cận với kẻ ác 

Trên thế gian nầy có nhiều giống người, chỉ khác nhau ở màu da, phong tục, tiếng nói, nhưng chung quy có thể chia hai hạng người là:
- Bālā: Là ác.
- Paṇḍita: Là thiện tri thức.
Phật dạy chúng sanh cần phải học để biết người ác đặng lánh xa, vì khi ta thân cận với người ác rồi, thì không thể nào chạy khỏi quả báo đau khổ trong bốn con đường ác.
Vì vậy người ta nên học để hiểu rõ thái độ và cách cư xử của người ác cho rõ ràng để tránh xa. Trước hết chúng ta phải biết rằng, người ác họ không khác gì ta ở thể chất, hình tướng hoặc dong mạo! Người ác không phải chỉ là hạng người côn đồ, cướp bóc, hay nghèo khó, thất học hoặc bệnh tật; mà có khi họ là người cao sang, quyền quý, học thức, thượng lưu trong các giai cấp xã hội. Người ác ở khắp mọi nơi, mọi giai cấp, giai tầng, giàu nghèo, trí ngu gì đều có thể có người ác. Muốn tìm biết, xác định và nhận diện một người ác, là một chuyện không phải dễ dàng vậy.

+ Trong kinh Phật có dạy hai cách thức để ta có thể nhận ra người ác là:

1. Cách thức của các bậc trí thức giàu kinh nghiệm, từng trải việc đời - họ hiểu rõ tâm lý của người ác.
2. Cách thức của đấng Giác Ngộ, ngài hiểu rõ tâm địa của kẻ ác bằng trí tuệ.
Mặc dầu là đấng Giác Ngộ hay các bậc trí thức, hai cách thức ấy chung quy đều dạy tâm lý của con người ác để chúng ta biết mà lánh xa, ví như khoa học dạy chúng ta biết chứng bệnh của người bệnh và tìm cách tránh xa căn bệnh ấy.
Vậy, thiết tưởng chúng ta cũng nên học cho biết rõ hai cách thức để lánh xa người ác ấy.
Trước hết xin giải về cách nhận thức kẻ ác theo lời giảng giải của các bậc trí thức.
Đây tôi xin nhắc lại tích xưa tiền thân của đức Phật Thích Ca trong bộ Túc sanh truyện để quý vị dễ nhận thức:
“- Thời quá khứ, có một vị trưởng giả ở thành Ba-la-nại (Bārāṇasī) tên là Akitta. Sau khi cha mẹ quá vãng, ông nhận thấy đời là vô thường, khổ não, vô ngã; khi mà ba tấc hơi chấm dứt rồi, thì mọi vật ở đời, cho chí bản thân đều không thể mang theo được. Vì nghĩ vậy nên ông mới bố thí hết của cải, tài sản - không biết số lượng bao nhiêu mà kể - rồi xuất gia làm đạo sĩ ở trong rừng sâu tuyết lãnh.
Đạo sĩ Akitta hành theo hạnh tri túc, chỉ ăn lá cây và trái cây rụng ở gần bên mà thôi. Pháp hành cao thượng như thế của đạo sĩ đã làm cho tảng đá ngai vàng của đức Đế Thích nóng rực lên. Khi ấy Thiên vương mới hiện xuống và nói với ngài:
- Bạch đạo sĩ, tôi lấy làm trong sạch với hạnh tri túc của ngài. Vì vậy tôi hiện xuống đây và xin hứa với ngài rằng: Ngài mong ước điều gì, có sở nguyện như thế nào, tôi xin vui lòng giúp ngài đạt thành như ý!
Đạo sĩ Akitta đáp rằng:
- Tâu Thiên chủ! Lời hứa của ngài thật là quý giá, nhưng sự mong ước của bần đạo không có gì khó.
- Tôi biết rồi - Thiên vương nói - Đạo sĩ có một đời sống tri túc và dị giản; chẳng lẽ sở nguyện của ngài cũng tương tợ như lá cây, trái cây rụng này chăng?
Đạo sĩ nói:
- Tâu Thiên vương! Hiện giờ lá và trái cây vẫn còn, bần đạo không mong ước điều đó! Nếu đại vương có lòng từ bi thì hãy ban bố một pháp hạnh phúc cho bần đạo...
Đức Đế Thích nói:
- Đạo sĩ cứ nói, chẳng cần phải dè dặt gì cả! Cứ thật tình mong ước điều chi, ví như thuốc men, y phục... chẳng hạn - tôi sẵn lòng tuân theo sự sai bảo của ngài...
Đạo sĩ lắc đầu:
- Không! Tôi  không cần những thứ ấy.
Đức Đế Thích nóng lòng hỏi:
- Vậy ngài cần thứ gì?
Đạo sĩ Akitta chậm rãi:
- Điều cần thiết nhất là “Xin cho tôi đừng gặp kẻ ác, không bao giờ làm công chuyện gì có kẻ ác nhúng tay vào”.
Đức Đế Thích hỏi lại cho kỹ:
- Vậy, lời thỉnh cầu của ngài là không bao giờ muốn gặp kẻ ác! Điều ấy còn có nghĩa là, dẫu tin tức của kẻ ác cũng xin không muốn nghe đến, nhắc đến?
Đạo sĩ gật đầu:
- Phải đúng như vậy!
Đức Đế Thích tò mò hỏi:
- Bạch đạo sĩ! Xin ngài có thể cho tôi được biết, là người ác đã từng làm gì đối với ngài trong quá khứ, để ngài phải sợ hãi dường vậy?
Đạo sĩ đáp:
- Thôi đi, thưa Thiên chủ! Đừng bắt tôi nói lại chuyện đã qua của kẻ ác! Nhưng tôi có thể nói sơ lược hành động của kẻ ác là:
* Kẻ ác hằng rủ người khác làm điều sai lầm.
* Kẻ ác làm những chuyện không phải phận sự của mình.
* Kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải!
* Kẻ ác, mặc dầu chúng ta nói ra sự chân thật, lời hay lẽ phải, nó cũng không đúng đắn nhận thức, lại còn hờn giận, chuốc oán, gây thù nữa.
* Kẻ ác không chịu hành theo luật lệ hoặc luật pháp của một nơi chốn, một xứ sở, một quốc độ.
Thưa Thiên vương, xét rằng người ác thường hay có những điều xấu xa như thế, nên ở gần chúng, gặp mặt chúng, nghe tin tức về chúng, tôi đều không muốn, đều nguyện được lánh xa! Vậy, với oai lực của đấng Thiên chủ, xin ngài hãy cho tôi được thỏa nguyện ước vọng ấy!”
Câu chuyện chấm dứt ngang đó, nhưng có lẽ tất cả chúng ta đều biết rằng, dẫu với oai lực của trời Đế Thích, ông ta cũng đành chịu, không thể nào thỏa mãn được ước nguyện cao vợi, tối thượng của bậc Đại chúng sanh!
+ Dưới đây tôi xin giải 5 loại hành động của người ác theo quan niệm của vị đạo sĩ ấy.
1- Anayaṃ nayati dummedho [i]: Kẻ ác thích rủ rê, xúi giục kẻ khác làm điều ác, tức là kẻ ác hằng rủ người làm điều xấu quấy, sai lầm.
Khi muốn biết một người là thiện hay ác, chúng ta nên để tâm xem coi người ấy rủ rê, xúi giục ta làm những việc gì, điều gì; mà việc ấy, điều ấy là tốt hay xấu, thiện hay ác?
Ta chớ nên quên rằng: Người ác bao giờ cũng có ý định rất khác thường, là làm cho người khác đau khổ. Như ta đã biết, không phải người ác toàn là những hạng mà ta gọi là côn đồ, du đãng; trái lại lắm khi người ác lại là người mà ta tưởng là hạng trí thức, giàu sang, vinh dự; và cũng có khi chúng ta tin tưởng, sùng kính xem họ như bậc tu hành chơn chính, là vị đại đức xứng đáng với sự lễ bái, cúng dường của chúng ta, hoặc ta xem họ là người nối chí từ bi của đức Từ Phụ để tế độ chúng sanh. Vì vậy, chúng ta không nên tin càn, tưởng quấy thiếu suy xét, mà chúng ta phải dùng trí tuệ mà nhận định kẻo sai lầm - như tích vua A-xà-thế dưới đây:
“- Ông Đề-bà-đạt-đa là một vị đệ tử của Phật, người bấy giờ lầm tưởng là đấng có giới đức trang nghiêm; nhưng thật sự ông ta là người rất là ác, đã dụ dỗ, xúi giục vua A-xà-thế tin tưởng nơi ông - vì ông là một nhà sư mang lá cờ của Phật. Hơn nữa, nhà vua tuy có nhiều đức tin nhưng thiếu trí tuệ - bị Đề-bà-đạt-đa rủ rê xúi giục mới phạm tội trọng giết cha”.
2- Adhirāyaṃ niyuñjati: Kẻ ác thường làm những chuyện không phải là phận sự, là trách nhiệm của mình.
Trường hợp này, có nghĩa là kẻ ác thường hay can thiệp vào việc làm của người khác, ở gần bên mình hay với mọi người, chỉ khiến cho người ta bực mình, khó chịu, đau khổ. Để tránh nạn can thiệp nguy hại ấy, khi chúng ta làm việc gì đang trôi chảy mà có kẻ khác chen vào, gợi ý việc này, bày mưu điều nọ, chúng ta nên cẩn trọng, suy nghĩ cho kỹ, không nên vội tin cho rằng kẻ ấy có thiện chí đối với ta, giúp ta.
Tiện đây tôi xin kể một câu chuyện để quý vị suy gẫm:
“- Có một vị trưởng giả, ruộng đất cò bay thẳng cánh, bề làm ăn rất phát đạt, tấn tới - nhờ tá điền và người làm công đối với ông hết lòng thành thật. Ông trưởng giả ấy có nuôi một bầy chó thật dữ để giữ nhà.
Đột nhiên, về sau, lợi tức của ông ngày càng suy giảm, kém đi trông thấy. Ông ta lấy làm lạ, vì số ruộng và người làm công đều như cũ, và cũng không có ai thiếu công, mắc nợ. Ông hỏi lại người quản gia thì đâu đâu cũng không có gì sai sót. Điều tra mãi không ra duyên cớ, ông mới hỏi người chăn bầy trâu bò của ông, chừng ấy mới vỡ lẽ ra rằng: Bầy chó dữ của ông không giữ nhà, mà hằng ngày nó đi cắn trâu bò làm cho chúng không ăn uống gì được, vì vậy mà chúng ốm đói, gầy yếu  nên không có sức lực để cày ruộng hoặc kéo xe nữa! Lợi tức bị sút giảm là do vậy!
Biết vậy, ông trưởng giả đem bầy chó nhốt lại -  từ ấy lợi tức về đồng áng của ông mới trở lại mức bình thường”.
Qua câu chuyện ấy, ta thấy bầy chó đã không làm phận sự giữ nhà mà đi làm chuyện ngoài phận sự của mình, nên đem tai hại cho chủ như thế.
Xin nhắc thêm một tích nữa, tuy hơi ngây ngô, nhưng cũng gợi cho chúng ta một bài học nào đó liên hệ đến chủ đề:
“- Có một người làm vườn của vua Ba-la-nại (Bārāṇasī), y tính đi xem lễ bèn gọi người phụ tá lại bảo:
- Ta định đi xem lễ trong vài ngày, vậy các người ở nhà lo chăm sóc vườn, lo tưới cây, đừng bỏ quên nghe.
Khi người làm vườn đi xong, người phụ tá ấy mới gọi những người làm công trong nhóm, bảo rằng:
- Người làm vườn đối với ta thật là tốt. Vậy chúng ta thay anh ấy tưới cây, nhưng trước khi tưới chúng ta hãy nhổ hết cây lên coi rễ ăn xuống bao sâu, đặng tưới cho vừa sức nó.
Tất cả những người kia vâng lời, làm y như lời dạy bảo, những cây bị nhổ lên, đều héo và chết hết”.
Đức Bồ Tát, tiền thân của Phật Thích Ca, nghe thấy chuyện này, ngài mới nói rằng: “Những kẻ ngu muội không hiểu việc làm của mình, đành hanh suy nghĩ việc làm ngoài phận sự cho phép nên đem tai hại đến cho mình và cho người khác”.
Khi ấy ngài mới đọc câu kệ với nghĩa là: Người ngu muội dầu cố làm điều lợi ích để tìm sự an vui cũng không kết quả được, trái lại bị hư hại cũng như những người làm vườn kia vậy.
3- Dunnayo seyyaso hoti: Kẻ ác thường nhận thức sai lầm, cho quấy là phải.
Theo câu Pāḷi nầy, ta thấy sự nhận thức nầy có hai điều tương quan, liên hệ với nhau là: Nhận thức sai lầm và hành động sai lầm - đều bắt nguồn ở nơi tâm là thích điều quấy.
Nguyên người ác thường thích điều hung ác, xấu xa như hiếp đáp, cướp giựt, hành hung kẻ khác. Ai ai cũng thấy các điều đó thật là đáng ghê, đáng ghét. Nhưng kẻ ác thì trái lại, cho các điều đó là cử chỉ anh hùng, là hay, là giỏi - nên có khi còn đem những hành vi xấu ác ấy khoe khoang và lấy làm tự đắc.

+ Người ác thường có ba đặc điểm để cho ta nhận thức được dễ dàng:

a- Người ác thích quấy.
b- Tự mình làm điều ác, mà không biết ăn năn, trái lại thỏa thích và đem khoe với người khác.
c- Thấy kẻ khác làm ác thì rất thích thú và khi nghe người khác làm ác như mình, lại càng thích.
Những người ác ấy luôn thù ghét người lương thiện, coi người lương thiện là đối thủ của họ, mặc dù người lương thiện vẫn sợ họ và hay nhường nhịn họ trong mọi việc, mọi lúc, mọi khi.
4- Sammāvutto pi kuppati: Kẻ ác, mặc dù chúng ta nói lời chơn chất hay nói đúng sự thật, chúng cũng tức giận.
Tâm lý của người ác, theo câu nầy, khỏi phải giải nhiều cũng dễ hiểu. Đã là người ác thì họ không bao giờ chịu nhận lẽ phải, hay là sự chân thành của người khác đối với họ. Mặc dù người nói lời chân thật ấy với tấm lòng từ bi, hay người nói ấy là thầy tổ, cha, mẹ, là quyến thuộc hoặc vợ chồng - họ cũng đều không bao giờ nghe theo.
Họ không chịu nhận sự thật, không chịu phục thiện.
5- Vinayaṃ so na jānāti: Kẻ ác không chịu hành động theo luật lệ, luật pháp.
Kẻ ác không bao giờ chịu hành động theo luật lệ, luật pháp của quốc độ hoặc của tôn giáo nào, mà chỉ biết làm theo bản tánh ác của chúng mà thôi.
Luật lệ của làng xã hoặc luật pháp của một quốc gia thường bảo đảm phần nào hạnh phúc cho con người - vì luật lệ, luật pháp ấy bảo vệ quyền lợi cá nhân, không cho người nầy làm hại kẻ khác.
Kẻ ác thì không chịu câu thúc theo luật lệ, luật pháp ấy, lại cứ muốn phóng túng vượt thoát ra ngoài để thỏa mãn ác tâm của mình và gây tổn hại cho người khác.
Năm điều vừa kể ở trên, kẻ ác được mô tả theo nhận định của bậc trí thức, còn dưới đây thì đức Phật phân tích kẻ ác theo tuệ giác của ngài.
Trong Tam tạng, đức Thế Tôn có dạy điều ấy trong đoạn kinh 
Uparipaññāsaka - bài kinh Bālapaṇḍitasutta rằng: Nầy các thầy tỳ-khưu! Người ác có ba thái độ thấy rõ là:
1. Duccintācinti : Suy nghĩ ác
2. Dubbhāsitabhāsī : Nói lời ác
3. Dukkataṃ kārī: Làm điều ác.
Nói một cách khác thì, theo lời Phật dạy, thái độ của người ác là suy nghĩ ác, nói ác, mà làm cũng ác; nghĩa là thân, khẩu, ý đều ác.
Thế nào gọi là suy nghĩ ác? Nói ác? Làm ác?
Lời chú giải trong kinh có dạy rằng:
* Suy nghĩ ác: Có ba điều là tham lam thái quá, mưu hại kẻ khác, oán thù và tà kiến; là không tin nghiệp báo, nhân quả và luân hồi.
* Nói ác là: Nói dối, nói đâm thọc, chửi rủa, mắng nhiếc, nói biếm, nói lời vô ích.
* Làm ác: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm. Ba hành động ấy có khi ở ẩn trong tâm chúng sanh, có khi phát hiện ra ngoài mặt; nên trong bộ chú giải 38 điều hạnh phúc, ba thái độ ấy chia ra làm hai hạng là:
a. Ác bên ngoài: Trong thế gian, ác bên ngoài này có thể phân làm hai loại là:
- Aṅdhabāla [ii]: Ác ôn, nghĩa là hạng người nầy rất hung dữ, khiến người ta sợ như là bệnh ôn dịch, họ có thể giết người bằng mọi cách, hoặc bằng vũ lực, hoặc bằng mưu kế, miễn là hại được người mới vừa lòng. Hạng người này phạm đủ thập ác, chúng không tránh một điều nào, không trừ một tội lỗi nào mà không làm!
- Kalyāṇabāla [iii]: Kẻ ác, nhưng vẫn còn điểm thiện tâm, nghĩa là đôi khi cũng làm lành, hoặc giúp đỡ người nghèo khó, bệnh tật... Vì lòng nông nổi mà họ làm ác, nhưng lúc nào đó, họ lại ăn năn, mặc dầu không ai dạy bảo. Như vậy là hạng người nầy có ngày lo tu hành, không hoàn toàn theo thập ác.
b. Ác bên trong: Ý nói ác tính trong lòng của ta. Cũng ngụ ý nói ác tính trong lòng của chúng sanh chưa dứt trừ hẳn phiền não. Ác tính ấy là 26 điều ác của tâm, đấy là 14 bất thiện tâm sở (akusalacetasikā) và 12 bất thiện tâm (akusalacitta)[iv].
Những ác tính kể trên có tính cách xấu xa khác nhau, làm cho thiện tâm lu mờ và yếu hẳn đi, không đủ khả năng nhận định được lẽ phải quấy, nên tâm hằng phóng túng hoặc dã dượi buồn ngủ. Mặc dầu tâm ấy không thật là ác nhưng cũng không phải thiện, không tham thiền, bố thí được [v].

+ Ba trường hợp ác trên đây sẽ đem lại cho chúng sanh 08 điều tai hại trong kiếp nầy và vị lai:

1. Làm mất lợi ích kiếp nầy và vị lai của mình cũng như với người thân thuộc.
2. Thân, khẩu, ý của mình bị nhơ đục.
3. Làm cho tên tuổi xấu xa hay càng ngày càng lu mờ đi, trong xã hội không ai nhắc tới.
4. Bậc trí thức và tất cả ai cũng ghê tởm như một món đồ bẩn thỉu.
5. Ai cũng cố xa lánh không dám gần hoặc kinh sợ, như sợ một tai họa; nói theo ngôn ngữ chiến tranh bây giờ, thì sợ một quả bom nổ chậm.
6. Kẻ ác tâm không được sáng suốt để phán đoán điều phải lẽ quấy, tâm không có an lạc.
7. Kẻ ác làm cho thanh danh trong họ hàng bị lu mờ hay bị người đời xóa bỏ đi.
8. Kẻ ác sau khi chết sanh vào bốn đường ác.

+ Vì vậy, muốn được lợi ích, chúng ta phải hành theo 06 điều sau đây:

1. Không đến gần kẻ ác
2. Không ngồi gần kẻ ác.
3. Không nghe kẻ ác.
4. Không chơi với kẻ ác.
5. Cố càng xa kẻ ác càng hay.
6. Cố tâm trì giới, bố thí, tham thiền.

+ Người không thân cận với kẻ ác sẽ được 12 quả báo lành là:

1. Người không gần gũi với kẻ ác là người được hạnh phúc ưu thắng.
2. Người không chơi với kẻ ác là người đi trên chánh đạo.
3. Người không chơi với kẻ ác là đã gieo trồng giới, định, tuệ.
4. Người không thân cận với kẻ ác là đã đi theo pháp học, pháp hành và pháp thành.
5. Người không chơi với kẻ ác là không cắt đứt những điều lợi ích quá khứ, hiện tại và vị lai của mình. Nghĩa là: Khi thân thiện với kẻ ác là tự mình chuốc lấy lầm lỗi, tai họa, đôi khi làm điều tội lỗi; lại không làm lành, thì quả lành của mình có từ kiếp trước không thể trả quả được. Ví như đức vua A-xà-thế do thân cận với Đề-bà-đạt-đa để cho ông ta xui giết cha, hại Phật, phạm ngũ nghịch đại tội nên không thể đắc đạo quả được, mặc dầu vua có duyên lành từ kiếp trước.
6. Người không chơi với kẻ ác là người ở trong thiện pháp.
7. Người không chơi với kẻ ác là người hằng được các bậc thiện trí thức ngợi khen.
8. Người không chơi với kẻ ác hằng được thạnh lợi
9. Người không chơi với kẻ ác được bậc đạo đức, trí thức yêu mến.
10. Người không chơi với kẻ ác thì không đi vào đường tội lỗi.
11. Người không chơi với kẻ ác sẽ được sanh về cõi trời
12. Người không chơi với kẻ ác thì hạnh phúc đến với họ hằng ngày, không lo sợ tai họa gì do người ác gây nên.
Theo đây, tôi xin nhắc lại một vài tích xưa trong Túc sanh truyện, để mình học lời dạy của đức Phật về sự thân cận với kẻ ác, người thiện sẽ như thế nào.

Chuyện Chim Két

“- Khi xưa trên một ngọn đồi gần rừng Tuyết Lãnh, trong một ổ két có hai con két con. Ngày nọ, do bão tố, két bị lạc mỗi con một nơi. Một con rơi vào nơi cư ngụ của các đạo sĩ, một con lại rơi vào làng của kẻ cướp. Hai con chim đều được hai nơi nuôi dạy tử tế.
Hôm kia, đức vua xứ Pañcala tên Pacala ngự đi săn, vì bị lạc đường nên ngài mới nằm nghỉ trưa dưới một cội cây bên bờ suối gần làng bọn cướp. Két của bọn cướp trông thấy đức vua trang sức vàng ngọc, mới gọi bọn cướp và bảo rằng:
- Chúng ta hãy đến giết người kia để cướp của!
Nhà vua nghe được kinh sợ, lật đật chạy trốn. Ngài lại đi lạc vào nơi cư ngụ của chư vị đạo sĩ. Két của đạo sĩ trông thấy đức vua mới nói:
- Người ơi, từ xa người đến đây chắc là mệt nhọc lắm, xin mời người vào ngồi nghỉ, nơi đây là đất lành không có gì đáng phải sợ hãi cả đâu.
Đức vua lấy làm trong sạch với két và nghĩ thầm rằng:
- Cùng một loài két với nhau, một con ở với bọn cướp thì hung ác, đáng sợ; còn con ở với bậc chơn tu thì thật là thiện lương, dễ mến làm sao!”
Tích nầy cho chúng ta thấy rằng, mặc dầu là loài điểu thú nhưng chúng bị ảnh hưởng cái ác và thiện của con người nuôi. Thế thì con người làm sao thoát khỏi ảnh hưởng của cái ác và điều thiện khi sống chung lẫn giữa thế gian.

Chuyện Cây Xoài

“- Ngày xưa, đức vua Dadhivāhana ngự đi tắm dưới sông, sau khi bảo quân lính phải giăng lưới quanh nơi ấy để phòng ngừa tai nạn. Trong khi ấy có một trái chín trôi từ rừng Tuyết Lãnh, mắc vào lưới, quân hầu vớt được mới đem dâng cho vua. Ngài thấy trái lạ mới cho gọi tất cả thợ rừng để hỏi là trái chi. Những người ấy bảo rằng đó là trái xoài, một thứ trái có vị ngọt và mùi thơm. Nhà vua bèn ăn thử và cảm nhận trái xoài ấy có vị ngon ngọt, thơm lựng hiếm có! Ngài mới truyền lấy hột đem về trồng nơi thượng uyển và dạy phải chăm nom kỹ lưỡng và đặc biệt tưới bằng sữa tươi. Ba năm sau cây xoài sanh được trái, mùi vị thơm tho. Đức vua đem biếu tặng lân bang để khoe trái quý của xứ mình; nhưng trước khi đem biếu, ngài dạy phải lấy dùi nhọn đâm thủng mầm non của trái xoài. Vì vậy các nhà vua lân quốc lấy hột đem trồng nhưng không nẩy mầm, cây không mọc được.
Lần sau, khi được biếu xoài, vị vua kia liền cho lấy hột xoài lên để tìm xem duyên cớ, thì mới thấy cái mầm trong hột đã bị đâm hư rồi. Vị vua ấy hiểu được ác ý của vua Dadhivāhana, liền nghĩ ra kế độc, bèn sai một người làm vườn tin cậy đến xin vào làm vườn của đức vua Dadhivāhana.
Người làm vườn ấy đến tâu cùng vua Dadhivāhana rằng:
 - Tâu Hoàng thượng, hạ thần là người chuyên môn về nghề trồng cây và hoa, đã từng làm nhiều nơi và phục dịch cho nhiều nhà vua rồi, ai cũng hài lòng. Hôm nay, hạ thần đến đây xin được phục dịch bệ hạ.
Đức vua lấy làm vừa ý, bèn thâu nhận.
Khi được vào làm, người ấy mới đem dây thần thông trồng ở nơi gốc xoài và trồng cây sầu đâu gần đó. Lúc thấy cây thần thông bò trên thân cây xoài, còn cây sầu đâu lớn lên giao nhành với cây xoài - người làm vườn tự biết là mình đã thi hành xong phận sự phá hoại, nên lanh lẹ trốn đi.
Ngày nọ, vua Dadhivāhana ngự vào vườn thượng uyển, truyền quân hầu bẻ xoài cho ngài dùng. Lạ lùng làm sao, màu sắc xoài không còn vàng óng, tươi mọng; và vị xoài lại trở nên đắng chát, chẳng còn thơm ngọt như trước. Đức vua mới phán hỏi vị quốc sư ở gần bên rằng:
- Nầy hiền khanh, tại sao mùa nầy xoài trở nên đắng hôi, mầu không đẹp như trước?
Vị quốc sư - vốn là bậc trí - quan sát kỹ cây xoài, từ gốc lên ngọn, phát giác sự việc, thấy rõ nguyên do, nói rằng:
- Tâu Đại vương, cây xoài nầy trước kia được vun trồng chu đáo, tưới sữa tươi, hiện giờ bị dây thần thông và cây sầu đâu là loại đắng quấn nhau và giao nhành đã làm cho cây mất mùi vị của xoài.
Xong, vị quốc sư mới ngâm câu kệ rằng:
“- Vaṇṇagandharasupeto
Amdayaṃ ahuva puri
Tameve pujaṃ labhamāno
Kehamb kutukapphalo
Pucinanda parivāro
Ambote dadivāhanaṃ
Mulaṃ mulenasanlatthaṃ
Sākhāsākhaṃ nisevare
Asatasannivāsene
Tenambo katukapphalo”(?)[vi]
Nghĩa là: Cây xoài nầy trước đây có màu, mùi, vị - đẹp, thơm, ngon - nhờ được chăm sóc chu đáo. Nhưng tình trạng hiện giờ như thế nào? Tâu Hoàng thượng! Cây xoài của ngài bị cây sầu đâu và cây thần thông ở chung, rễ và rễ xen lẫn nhau, nhành với nhành giao nhau. Vì mọc chung chạ với dây thần thông và sầu đâu nên xoài của ngài không còn vị ngon ngọt, mà trở nên đắng chát khó chịu  như thế”.
Tích nầy chỉ cho ta thấy rằng: Sự thân cận chung lộn có ảnh hưởng như thế.
Nếu ở với người lành thì được an vui, ở với kẻ ác thì phải đau khổ, như câu tục ngữ Việt Nam: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Hoặc: “Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài!”
Cây xoài là vật vô tri, vô giác mà còn bị ảnh hưởng như thế. Vậy chúng ta nên lấy đó làm gương, phải biết thương mình, nên xa lánh kẻ ác, dầu người ấy là thân bằng, quyến thuộc chăng nữa. Chúng ta thường sợ kẻ ác hơn thương mình, vì vậy thường hay xu hướng theo kẻ ác để lao vào con đường rượu trà, cờ bạc, đàng điếm - đã hư thân, mất nết mà còn tạo tác thêm ác nghiệp. Đừng dại khờ bị kẻ khác xúi giục! Đừng nghĩ, nếu không theo họ thì sợ họ buồn! Cũng đừng ngại người ta cười chê là mình không biết xã giao, không biết vui chơi với bằng hữu! Nguy hiểm lắm đó! Lửa địa ngục đấy!

(Còn nữa)

0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites