PHẨM BÁO-ÂN 
Khi đức Thế-Tôn từ chính-định 
 dậy Ngài gọi Bồ-tát Di-Lặc bảo: "Quý hóa! Các ông cùng hết thảy 
 đại-chúng vì muốn thân-cận Tôi, muốn nghe pháp xuất-thế, muốn suy-nghĩ 
 như-như-lý, muốn tu-tập như-như-trí nên tới đây cung-kính,cúng-dàng. Nay 
 Tôi sẽ nói về diệu-pháp (Tâm-địa)), dắt-dẫn chúng-sinh chứng-nhập 
 Phật-trí. Chúng-sinh chỉ xu-hướng về Bồ-đề của Nhị-thừa mà không thích 
 diệu-quả thường-lạc của Đại-thừa. Song, Như-Lai chuyển-pháp-luân tùy 
 bệnh cho thuốc, làm sao phải hợp hoàn-cảnh, hợp thời, hợp trình-độ, hợp 
 pháp, khiến họ thoát khỏi được sự mê-chấp ấy!”
 
 
 Lúc đó, có 500 ông Trưởng-giả 
 ở thành Vương-xá thấy những ảnh-hiện khó làm ở nơi hào-quang của Phật và 
 nghe đức Phật tán-thán về pháp-môn "Tâm-địa” của Đại-thừa, các ông ấy 
 liền bạch Phật: "Hành-nguyện tu-hành của Bồ-tát không phải là sự 
 "tri-ân, báo-ân” và phải tu lâu lắm mới tới nơi Bồ-đề được, không bằng 
 tu về Thanh-văn, Duyên-giác chóng ngộ đạo và được là báo-ân!”
 
 
 Đức Phật bảo các ông 
 Trưởng-giả: "Ơn của thế-gian, xuất-thế-gian có bốn bậc: 1/ Ơn cha mẹ. 2/ 
 Ơn chúng-sinh. 3/ Ơn Quốc-vương. 4/ Ơn Tam-bảo. 
 
  
Ơn cha mẹ: 
 Cha thuộc từ-ân, mẹ thuộc bi-ân. Bi-ân của mẹ dù nói một kiếp cũng không 
 hết được. Vì sự vất-vả khó-nhọc, hy-sinh và thương nhớ con của mẹ từ khi 
 có thai, khi sinh nở, trưởng-thành cho đến trọn đời, quá lớn-lao không 
 kể xiết được. Ngay như sữa mẹ giúp con sinh-trưởng đến 180 hộc. Do 
 nhân-duyên ấy nơi mẹ có mười thắng-đức. Thế nên, người con biết 
 thừa-thuận cha mẹ, được chư Thiên hộ-niệm, được là dòng-giống của Thiên, 
 Nhân tôn-quý và là Bồ-tát hóa-hiện độ-sinh. Kể sự báo ân cha mẹ vô cùng, 
 nhưng nếu chỉ một niệm để tâm hiếu-thuận, đem chút ít vật nuôi nấng cha 
 mẹ, công-đức ấy còn gấp trăm nghìn vạn phần công-đức cúng-dàng đầy-đủ tứ 
 sự và những thứ cao quý cho hàng trăm vị Đại-bà-la-môn, Đại-thần-tiên, 
 bạn lành trong trăm nghìn kiếp.
 
  
Ơn chúng-sinh: 
 Hết thảy chúng-sinh từ đời vô-thủy tới nay, đều là cha mẹ họ-hàng lẫn 
 nhau. Hết thảy đàn ông là cha lành, hết thảy đàn bà là mẹ hiền. Đã là 
 cha mẹ, là đã có ơn lớn. Đã có ơn lớn đương nhiên phải trả ơn ấy bằng 
 cách phải làm lợi-ích lẫn nhau, không nên gây vọng-nghiệp, oán-hại, 
 chấp-trước.
 
  
Ơn Quốc-vương: 
 Quốc-vương là người đứng đầu việc cai-trị trong một nước. Người đứng đầu 
 việc cai-trị này thành-thực vì chúng-sinh, đem chính-pháp hóa-trị 
 nhân-dân, nhân-dân vui-vẻ, trong nước giàu thịnh, không bị ngoại xâm, 
 nội loạn, ác-quỷ, tật-bệnh, đói thiếu, gió mưa quá thời, trái thời, 
 nhật, nguyệt-thực và tinh-tú biến quái. Trái lại, thì nhân-dân đau khổ, 
 trong nước bất an. Mỗi mỗi tâm-niệm, hành-động của người đứng đầu trong 
 nước đều có quan-hệ mật-thiết đến đời sống, tinh-thần,vận-mệnh của 
 nhân-dân, của quốc-giới và mỗi mỗi tâm-niệm, hành-động của nhân-dân cũng 
 vậy. Việc tu thiện được bảy phần phúc-lợi, người tu được năm phần, 
 Quốc-vương được hai phần; Quốc-vương tu nhân lành nhân-dân cũng đồng 
 hưởng. Do nhân-duyên ấy, Quốc-vương còn được gọi là "Thánh-vương, 
 Thiên-chúa, Nhân-vương, Phúc-đức-vương, Chính-pháp-vương” và, cũng do đó 
 Chính-pháp-vương có mười thắng-đức và được Thiên, Thiện-thần, nhân-dân 
 ủng-hộ. Ân-đức của Chính-pháp-vương rộng lớn đối với nhân-dân như-thế, 
 nhân-dân phải biết cung-kính tôn-trọng đền đáp lại. 
Ơn Tam-bảo: 
 Tam-bảo là ba ngôi báu : Phật, Pháp, Tăng.
 
 
 Phật-bảo: 
 đầy-đủ ba thân: 
1/- Tự-tính-thân (còn 
 gọi là pháp-thân) có Đại-đoạn-đức.
 
 
 2/- Thụ-dụng-thân (còn 
 gọi là báo-thân) có Đại-trí-đức. Thụ-dụng-thân có 2 tướng: 
 Tự-thụ-dụng-thân và tha-thụ-dụng-thân. Tự-thụ-dụng-thân do tu muôn 
 hạnh, thành-tựu 4 trí cùng hết thảy các pháp công-đức, được căn-tướng 
 trang-nghiêm. Tha-thụ-dụng-thân là thân của Như-Lai có đầy-đủ các 
 tướng tốt ở nơi chân tịnh-độ, nói pháp Nhất-thừa cho các hàng Bồ-tát 
 được lợi-lạc trong chính-pháp vi-diệu. Ở nơi Thập-địa, Như-Lai hóa-hiện 
 ra mười tha-thụ-dụng-thân. Và, còn hóa-hiện độ cho Duyên-giác, Thanh-văn 
 cùng các chúng-sinh khác.
 
 
 3/- Biến-hóa-thân có
 Đại-ân-đức, ứng hiện thân-hình hóa-độ các bậc Thánh, phàm.
 
 
 Phật-bảo có nhiều ân-đức rộng 
 lớn như thế nên có đầy-đủ 10 hiệu và 6 công-đức vi-diệu.
 
 
 Tới đây đức Phật dạy tiếp: 
 "Sở-dĩ chư Phật hóa-hiện nhiều thân mà có chúng-sinh không được gặp là 
 vì do chúng-sinh tạo nhiều nghiệp ác, tội-căn sâu nặng, cũng như người 
 mù không trông thấy mặt trời vậy!”
Pháp-bảo: 
 Pháp-bảo vô-lượng nghĩa nhưng, chia làm 4 loại: giáo-pháp, lý-pháp, 
 hành-pháp và quả-pháp.
 
 
 Pháp-bảo là phương-pháp 
 dẫn-dắt chúng-sinh ra khỏi bể sinh-tử đến bờ Niết-bàn. Pháp-bảo là thầy 
 chư Phật. Pháp-bảo như kim-cương, như mặt trời, như ngọc Ma-ni, như 
 tiếng trống cõi trời, như thềm báu, như thuyền lớn, như 
 Chuyển-luân-vương, như y-phục đẹp, như giáp-trụ bền, như gươm trí-tuệ, 
 như xe báu, như đèn sáng, như binh-khí, như đạo-sư.
 
 
 Chư Phật trong ba đời nói ra 
 diệu-pháp bất-tư-nghị ấy làm cho chúng-sinh giác-ngộ, nên Pháp-bảo có 
 ân-đức bất-tư-nghị.
 
  
Tăng-bảo: 
 Trong sự tu-hành, hóa-độ, thế-gian xuất-thế-gian có ba hạng Tăng:
 
 
 1/- Bồ-tát-tăng: Các 
 vị tu lục-độ, vạn hạnh như Bồ-tát Di-Lặc, Văn-Thù v.v…
 
 
 2/- Thanh-văn-tăng: 
 Các vị tu tứ-đế chứng Thánh-đạo như ông Xá-lỵ-phất v.v…
 
 
 3/- Phàm-phu-tăng: Các 
 vị chân-thiện phàm-phu được biệt-giải-thoát-giới và những vị đầy-đủ 
 chính-kiến đem lại lợi-lạc cho chúng-sinh.
 
 
 Ba hạng Tăng trên được gọi là 
 "Chân-phúc-điền-tăng”.
 
 
 Còn một hạng nữa là 
 Phúc-điền-tăng. Phúc-điền-tăng là những vị có tâm tín-kính Tam-bảo, 
 thâm-tín nhân-quả, thuờng phát thiện-nguyện, đầy-đủ chính-kiến, mặc dù 
 những vị ấy có hủy giới cấm.
 
 
 Tất cả các hạng Thánh, phàm 
 Tăng-bảo trên luôn luôn đem lại sự lợi-ích cho chúng-sinh, nên có ân-đức 
 lớn đối với chúng-sinh. Phật, pháp, Tăng được gọi là Bảo vì có mười 
 nghĩa: bền chắc, không nhơ, cho vui, khó gặp, phá nghèo, uy-đức, 
 mãn-nguyện, trang-nghiêm, tốt diệu và bất biến.
 
 
 Nay muốn trả bốn ơn lớn-lao 
 ấy cần phải tu-hành đầy-đủ ba bậc: danh-tự, thân-cận, chân-thực trong 
 mười pháp Ba-la-mật-đa: 1/ Bố-thí. 2/ Trì-giới. 3/ Nhẫn-nhục. 4/ 
 Tinh-tiến. 5/ Thiền-định. 6/ Bát-nhã. 7/ Phương-tiện. 8/ Nguyện. 9/ Lực. 
 10/ Trí.
 
 
 Khi nghe đức Phật nói về sự 
 tri-ân, báo-ân rồi, các ông Trưởng-giả cùng vô số chúng-sinh phát-tâm 
 Bồ-đề và trong đó có nhiều người chứng được đạo-quả.
 
 
 Đức Phật kết-khuyến: "Sau đây 
 nếu ai thụ-trì, đọc tập, giải-thuyết, viết chép và truyền-bá phẩm báo-ân 
 này, hiện-tại được chư Thiên vệ-hộ, mạnh-khỏe, sống lâu, phúc-tuệ thêm 
 lên, đương-lai được sinh trong hội Long-Hoa của đức Di-Lặc và sẽ được 
 thành Phật”.
 
 
 Sau đó đức Phật lại giảng lại 
 ý-nghĩa tri-ân, báo-ân như trên bằng lời kệ, thể theo lời thỉnh-cầu của 
 ông Trưởng-giả Trí-Quang ở nước Tăng-trưởng phúc. Sở-dĩ có sự giảng lại 
 như thế vì ông Trí-Quang muốn giác-ngộ cho người con ác nghịch của ông.
 
 
 Kết-quả cuộc thuyết-pháp về 
 sự báo-ân lần thứ hai này ông Trưởng-giả Trí-Quang cùng quyến-thuộc đều 
 được Nhẫn-nhục tam-muội, phát tâm vô-thượng bất thoái-chuyển và những 
 người khác cũng chứng được Tam-muội, xa lìa trần-cấu, được 
 pháp-nhãn-tịnh.
 
 
 
 
 
 1
 Báo-ân: Những người có ơn đức với mình, mình tận-tâm, chí-lực 
 đền đáp lại.
 
 
 2
 Di-Lặc: Tiếng Phạm gọi là "Mai-đê-lê” (Maitrya) Tàu dịch 
 nghĩa là "Từ-Thị”. "Di-Lặc” là tên họ, chính tên là "A-dật-đa” 
 (Adjita), Tàu dịch nghĩa là "Vô-năng-thắng”. Ngài sinh trong họ 
 Bà-la-môn, thuộc Nam-Ấn-độ. Ngài là vị Bổ-xứ Bồ-tát, nối Phật 
 Thích-Ca làm Giáo-chủ cõi Sa-bà sau này.
 
 
 3
 Như-như-lý, như-như trí: "Như-như”: lý-thể của pháp-tính 
 bình-đẳng không hai, nên gọi là "như” và các pháp này, nọ đều "như”, 
 nên gọi là "như-như”, là chính-trí hợp với lý-thể. Đại-thừa 
 Nghĩa-chương nói: "Như-như là chính-trí hợp với lý-thể: thể của các 
 pháp đồng, nên gọi là "như”. Trong "nhất-như”, thể của nó đầy-đủ 
 trong pháp-giới Hằng-sa Phật-pháp, tùy pháp phân-biệt "như”, thời 
 nghĩa "như” chẳng phải một, mà này, nọ đều "như”, nên gọi là 
 "như-như”. "Như” không hư-vọng, nên trong kinh cũng gọi là 
 "Chân-như”. "Như-như-lý” là lý thể như-như. "Như-như-trí” 
 là trí-tuệ hợp lý-thể như-như.
 
 
 4
 Tương-ứng: Có nghĩa là khế-hợp với nhau.
 
 
 5
 Bất-cộng : Công-đức của Phật không cộng đồng với các hàng 
 Nhị-thừa, Bồ-tát nên gọi là "bất-cộng”. Theo trong kinh thời đức 
 bất-cộng của Phật có 18 pháp: 1/ Thân không lầm. 2/ Miệng không lầm. 
 3/ Niệm không lầm. 4/ Không có tưởng khác. 5/ Không có cái gì là 
 không định tâm. 6/ Không có cái gì là không biết xả. 7/ Lòng mong 
 muốn độ-sinh không diệt (chữ "diệt” có chỗ lại in là chữ "giảm”). 8/ 
 Tinh-tiến không diệt. 9/ Niệm không diệt. 10/ Tuệ không diệt. 11/ 
 Giải-thoát không diệt. 12/ Giải-thoát tri-kiến không diệt. 13/ Hết 
 thảy nghiệp thân làm theo trí-tuệ. 14/ Hết thảy nghiệp khẩu làm theo 
 trí-tuệ. 15/ Hết thảy nghiệp ý làm theo trí-tuệ. 16/ Trí-tuệ biết 
 được đời quá-khứ không bị chướng-ngại. 17/ Trí-tuệ biết được đời 
 vị-lai không bị chướng-ngại. 18/ Trí-tuệ biết được đời hiện-tại 
 không bị chướng-ngại.
 
 
 6 
 Đoạn trên từ câu "Bấy giờ, đức Thế-Tôn…” đến chỗ "chính-giác” là đức 
 Phật khen các Bồ-tát tới nghe pháp và Ngài nói Ngài sẽ thuyết về 
 diệu-pháp Tâm-địa. Ngài than chúng-sinh không biết hướng về 
 Đại-thừa. Song, nếu ai biết, nghe qua diệu-pháp này sau sẽ thành 
 Phật.
 
 
 7
 Tư-lương: "Tư” là tư-trợ (giúp-đỡ), "lương” là lương-thực. 
 Như người đi xa phải nhờ lương-thực giúp đỡ thân mình. Người tu-hành 
 muốn chứng quả Tam-thừa, cần phải lấy công-đức thiện-căn làm 
 lương-thực, để giúp-đỡ thân mình.
 
 
 8 
 Đoạn trên , từ chỗ "Khi ấy…” đến chỗ "báo-ân” là nói về các ông 
 Trưởng-giả nghe Phật nói về pháp-môn Tâm-địa của Đại-thừa khó quá 
 không muốn, chỉ muốn tu về Nhị-thừa chóng và mới là báo-ân.
 
 
 9 
 Đoạn trên từ chỗ "Đức Phật…” đến chỗ "gánh chịu”, đức Phật khen các 
 ông Trưởng-giả và Ngài nói: thế-gian, xuất-thế-gian có 4 ơn.
 
 
 10
 Chiên-đàn (Candana): Tên một thứ gỗ thơm ở núi 
 Ma-la-da, Nam Ấn-độ. Núi này hình đầu. trâu nên gọi là Ngưu-đầu. Có 
 chỗ gọi là Ngưu-đầu chiên-đàn, Tàu dịch là "dữ-lạc” (cho vui), vì nó 
 chữa được bệnh.
 
 
 11 
 Đoạn trên, từ chỗ "Thiện-nam-tử ! Ơn cha mẹ…” cho đến chỗ "báo ơn 
 phụ mẫu như thế!” đức Phật giải-thuyết rõ về ơn cha mẹ; nhất là ơn 
 mẹ đối với con phải báo đáp lại.
 
 
 12 
 Đoạn trên, từ chỗ "Thiện-nam-tử ! Ơn chúng-sinh…” cho đến đây, đức 
 Phật nói rõ về chúng-sinh trong 3 đời đều là thân-thích với nhau, 
 cần phải làm lợi-ích cho nhau.
 
 
 13
 Tám-nạn: Thấy Phật, nghe pháp có 8 chỗ chướng-nạn: 1/ 
 Địa-ngục. 2/ Ngã-quỉ. 3/ Súc-sinh. 4/ Bắc Câu-lô-châu được hưởng 
 quả-báo vui sướng thù-thắng, cho là không có khổ. 5/ Ở các cõi trời 
 trường-thọ, an-ổn, cho là không có khổ. 6/ Điếc, mù, câm, ngọng. 7/ 
 Trí đời biện-thông. 8/ Sinh trong khoảng giữa đức Phật trước, đức 
 Phật sau.
 
 
 14
 Ngũ-cốc: 5 giống thóc: lúa nếp, kê, đậu, lúa mì, lúa sạ.
 
 
 15 
 Đoạn trên từ chỗ "Ơn quốc-vương….” "đến chỗ như thế!” đức Phật nói 
 rõ phúc-đức và ảnh-hưởng sự cai trị của vị Nguyên-thủ chân-chính 
 trong một nước rất lớn lao, cùng ảnh-hưởng về hành-động của người 
 dân đối với quốc-gia cũng rất hệ-trọng.
 
 
 16 
 Đoạn trên, nêu chung chỗ tu nhân và công-đức Tam-bảo đối với 
 chúng-sinh.
 
 
 17
 Ba-thân: Chư Phật có 3 thân: 1/ Tự-tính-thân: thể-tính 
 chân-như pháp-giới thanh-tịnh, bình-đẳng trong hết thảy pháp. Còn 
 gọi là "Pháp-thân” là chân-thân của Phật đầy-đủ vô-lượng 
 pháp-công-đức. 2/ Thụ-dụng-thân hay là "báo-thân”: Do 
 tu nhiều công-đức được quả-báo sắc-thân thanh-tịnh, trang-nghiêm và 
 được hưởng pháp-lạc rộng lớn nhiệm-mầu. 3/ Biến-hóa-thân: Do 
 Phật-trí biến hóa nhiều thân, tùy theo căn-cơ chúng-sinh mà hóa-độ.
 
 
 18
 Đại-đoạn-đức: Đoạn-trừ hoàn-toàn hết thảy phiền-não; đầy-đủ 
 vô-thượng Niết-bàn.
 
 
 19Nhị 
 không : Hai 
 thứ "không”, chia làm 5 loại:
 
 A.- 1/ Nhân không 
 (còn gọi là ngã-không, sinh-không): người và ta là không. 2/ 
 Pháp-không: các pháp là không.
 
 B.- 1/ Tính-không: 
 pháp không có thực-tính. 2/ Tướng-không: pháp không có 
 thực-tính chỉ có giả-tướng, tướng ấy chẳng phải thực.
 
 C.- 1/ Đản-không: 
 Tiểu-thừa chỉ cần thấy không. 2/ Bất đản không: Đại-thừa 
 không những thấy không, mà cả cái thấy không cũng không.
 
 D.- 1/ Nội không: 
 Nội-thân là không. 2/ Ngoại-không: Khí-vật bên ngoài là 
 không.
 
 E.- 1/ Như-thực-không: 
 thể chân-như, trong không có các vọng-nhiễm. 2/ Như-thực bất 
 không: thể chân-như trong đủ hết thảy công-đức vô-lậu.
 
 
 20 
 Toàn câu "Phật thân thứ nhất…” này nói: về tự-tính-thân, thể khắp 
 pháp-giới, bình-đẳng thanh-tịnh, đoạn diệt hết thảy, nhân-không, 
 pháp-không hiển-lộ, nên chư Phật chứng tự-tính-thân, là thể-nhập 
 bình-đẳng.
 
 
 21
 Đại-trí-đức: Phá hoàn-toàn hết thảy sự mê-lầm không biết ; 
 đầy-đủ vô-thượng-giác.
 
 
 22 
 Toàn câu "Phật thân thứ hai…” này nói: Báo-thân do trí-tuệ thành, 
 thành với lẽ chân-thực, thường hằng, không dò-rỉ, không biến-đổi. 
 Không biến-đổi, là thường-hằng, chân-thực, tức là không còn sự 
 suy-lường về ngã-tính, mà đồng một ý trong chung cùng và bình-đẳng 
 tất cả; nghĩa là Phật, Phật đều đồng.
 
 
 23
 Đại-ân-đức: Đầy-đủ hoàn-toàn tâm đại-bi, cứu giúp hết thảy 
 chúng-sinh.
 
 
 24 
 Toàn câu "Phật thân thứ ba…” này nói: chư Phật đồng một tâm đại-bi, 
 đồng một sự độ-sinh, nên tùy cơ nhập-định, hiện thần-thông và 
 thị-hiện thân-hình.
 
 
 25
 Hí-luận : Bàn đùa. Là ngôn-luận phi-lý, vô-nghĩa, là giả-danh 
 không thực.
 
 
 26 
 Toàn câu "tự-tính-thân…” này đại-ý nói : pháp-thể của nó không còn 
 sinh-diệt, tạo-tác, không còn danh-ngôn giả đặt, không còn cục-hạn, 
 mà nó là như-như và cùng khắp.
 
 
 27
 Tự-thụ-dụng thân: Thân do tu phúc-đức, trí-tuệ thành, tự được 
 hưởng-thụ sự vui của pháp-vị trong cõi thực-báo trang-nghiêm.
 
 
 28
 Tha-thụ-dụng-thân: Đem tính-đức do quả-báo mình được, hiện ra 
 10 thân, làm cho các Bồ-tát Thập-địa được hưởng-thụ sự vui của 
 pháp-vị.
 
 
 29
 Thập-địa-mãn-tâm: Thập-địa là: 1/ Hoan-hỷ-địa 2/ Ly-khổ-địa. 
 3/ Phát-quang-địa. 4/ Diệm-tuệ-địa. 5/ Nan-thắng-địa. 6/ 
 Hiện-tiền-địa. 7/ Viễn-hành-địa. 8/ Bất-động-địa. 9/ Thiện-tuệ-địa. 
 10/ Pháp-vân-địa. Mười bậc này đều gọi là "địa”, vì thâu tóm các 
 công-đức hữu-vi và vô-vi, dùng làm tự-tính, cùng làm chỗ nương tựa 
 chắc-chắn hơn cả cho sự tu-hành, khiến hay sinh-trưởng, cho nên gọi 
 là "địa”. Thập-địa mãn-tâm tức là ngôi Đẳng-giác.
 
 
 30
 Sắc-cứu-cánh-thiên: Tiếng Phạm gọi là A-ca-ni-tra thiên 
 (Akanistha). Tên một cõi trời cao nhất trong 18 cõi của Sắc-giới.
 
 
 31 
 Câu này ví-dụ cho địa-vị tối-cao của Bồ-tát.
 
 
 32
 Hậu-báo: Đây là nói quả-báo tối-hậu của Bồ-tát.
 
 
 33
 Sở-tri-chướng, phiền-não-chướng: Đây là hai chướng: 1/ 
 Phiền-não-chướng: Nghiệp buộc chúng-sinh trong sinh-tử, do đó, làm 
 chướng-ngại lý Niết-bàn tịch-tĩnh. 2/ Sở-tri-chướng: tham, sân, si… 
 làm mê-ám, không hiểu biết được sự-tướng và thực-tính của các pháp, 
 tức là làm chướng-ngại diệu-trí bồ-đề.
 
 
 34 
 Đoạn trên, từ chỗ "chân-báo-thân…” đến chỗ "pháp-giới” là nói: do 
 diệt-trừ hết phiền-não, thành diệu-quả, là được chân-báo-thân 
 (tự-thụ-dụng-thân). Được chân báo-thân thời kể từ đó là đầu, nên gọi 
 là "hữu thủy” nhưng, "vô chung”, nghĩa là sự sống lâu không 
 cùng-tận. Và, từ khi được chân-báo-thân, chính-báo trang-nghiêm cùng 
 khắp.
 
 
 35
 Pháp-lạc : Lấy pháp-vị làm vui tâm-thần gọi là "pháp-lạc”. 
 Làm thiện, tích-đức, để tự vui cũng là "pháp-lạc”.
 
 36
 Dị-thục (Vipaka): Xưa dịch là "quả-báo”, nay dịch là 
 "dị-thục”. Dị-thục là tên chung của quả-báo do y vào thiện, ác 
 quá-khứ mà được. Và, nó có tính-chất quả khác nhân mà thành-thục, 
 như thiện-nghiệp cảm lạc-quả, ác-nghiệp cảm ác-quả v.v…Theo Duy-thức 
 thuật-ký thời "Dị-thục hoặc khác thời mà chín (dị thời nhi thục), 
 biến khác mà chín (biến dị nhi thục), khác loại mà chín (dị loại nhi 
 thục). Di-thục-thức là tên riêng của thức thứ 8.
 
 
 
 
 37
 Chân-đế, tục-đế: "Chân-đế”: thực-nghĩa của chân-lý, là 
 thực-nghĩa mà các bậc Thánh nhận thấy. Còn gọi là "không-đế” hay 
 "thắng-nghĩa-đế”. "Tục-đế”: thực-nghĩa của việc thế-tục. Còn 
 gọi là "giả-đế” hay "thế-đế”.
 
 
 38 
 Đoạn trên từ chỗ "Một là”… đến chỗ "công-đức” là nói: do chuyển thức 
 thứ 8 mà thành Đại-viên-kính trí. Nơi đây bao gồm bi, trí, chân, 
 tục-đế, duy-trì căn-thân vô-lậu và làm chỗ y-chỉ cho hết thảy 
 công-đức.
 
 
 39
 Ngã-kiến-thức: "Ngã-kiến” là "chấp-ngã”: thân tâm này do 5 
 uẩn giả-hợp, lại coi là "thường hằng”, đối với cái "phi-ngã-chấp”, 
 chấp càn là "ngã” (ta), nên gọi là "ngã-kiến”. Ngã-kiến-thức 
 tức là thức Mạt-na thứ 7. Thức này phân-biệt, chấp thức thứ 8 làm 
 "ngã”. Thức này luôn luôn tương-ứng với si, kiến, mạn, ái nên gọi là 
 "ngã-kiến-thức”. Chuyển thức này, nghĩa là trừ bỏ được chấp-ngã, 
 thành "Bình-đẳng tính-trí”.
 
 
 40
 Phân-biệt-thức: Tức là Ý-thức thứ 6. Đối với 6 trần, các 
 cảnh, thức này hay khởi ra sự phân biệt, gọi là "Phân-biệt-thức”. 
 Chuyển thức này, nghĩa là bỏ được sự phân biệt, thành 
 "Diệu-quán-sát-trí”.
 
 
 41
 Tự-tướng, cộng-tướng: Các pháp có hai tướng: Tướng riêng là 
 "tự-tướng”, tướng chung là "cộng-tướng”. Tướng cục-hạn nơi tự-thể là 
 "tự-tướng”; tướng thông cả với người gọi là "cộng-tướng”.
 
 
 42 
 Đoạn trên, từ chỗ "Hai là…” đến chỗ "Như-Lai” là nói về chuyển thức 
 thứ 7, thức 6 cùng 5 thức trước thành trí-tuệ; do 4 trí này thành 
 84.000 trí. Và, kết-thành cho rằng tự-thụ-dụng-thân có hết thảy các 
 công-đức.
 
 
 43
 Nhất-thừa: Giáo-pháp duy-nhất để thành Phật. "Thừa” là cỗ xe, 
 lấy ví-dụ cho giáo-pháp của Phật. Giáo-pháp hay chở người, đi đến bờ 
 Niết-bàn, nên gọi là "Thừa”.
 
 
 44
 Ba mươi hai tướng: 1/ Lòng bàn chân bằng. 2/ Lòng bàn chân có 
 nghìn vòng xoáy. 3/ Ngón tay thon dài. 4/ Tay chân mềm-mại. 5/ Tay, 
 chân có màng lưới giao-tiếp. 6/ Gót chân đầy-đặn. 7/ Mu chân cao 
 đẹp. 8/ Vế tròn lăm như con hươu. 9/ Tay dài quá gối. 10/ Dương-vật 
 ẩn-tàng như dương-vật con ngựa. 11/Mình cao lớn, từ chân đến đầu cao 
 bao nhiêu, 2 tay duỗi ra cũng bằng ấy. 12/ Lỗ chân lông sinh sắc 
 xanh. 13/ Lông trên mình chia xoáy hướng đều. 14/ Thân sắc vàng. 15/ 
 Luôn luôn có hào-quang phóng xa một trượng. 16/ Da-dẻ mịn bóng. 
 17/Bảy nơi: 2 lòng bàn chân, 2 lòng bàn tay, 2 vai và đỉnh đầu đều 
 đầy, bằng. 18/ Hai nách đầy-đặn. 19/ Thân uy-nghiêm như sư-tử. 20/ 
 Thân hình đoan-chính. 21/ Vai tròn , đầy. 22/ Có 40 cái răng. 23/ 
 Răng trắng, bằng và khít. 24/ Bốn răng nanh trắng sạch. 25/ Má đầy 
 như má sư-tử. 26/ Nước tân-dịch trong cổ họng có thượng-vị. 27/ Lưỡi 
 dài, rộng. 28/ Tiếng phạm-âm (thanh-tịnh) vang xa và sâu nhiệm. 29/ 
 Con ngươi mắt xanh-biếc. 30/ Lông mi mắt cong dài, đẹp như lông mi 
 mắt trâu. 31/ Khoảng giữa hai lông mày có tia hào-quang trắng. 32/ 
 Đầu có nhục-kế (thịt nổi lên như búi tóc).
 
 
 45
 Tám mươi thứ tốt: 80 thứ (giống) tốt này y theo 32 tướng mà 
 phân-biệt tỷ-mỷ ra: 1/ Vô-kiến-đỉnh (tướng nhục-kế cao không trông 
 thấy được). 2/ Mũi cao không thấy lỗ. 3/ Lông mày như mặt trăng đầu 
 tháng mới mọc. 4/ Vành tai rủ xuống. 5/ Mình dắn chắc như lực-sĩ. 6/ 
 Chỗ đầu xương giao nhau như vòng câu. 7/ Khi quay lại, nhất thời 
 thân quay lại như voi quay lại. 8/ Khi đi, chân cách đất 4 tấc, mà 
 đất vẫn có vằn in xuống. 9/ Móng tay, chân mỏng, bóng và đỏ như đồng 
 đỏ. 10/ Xương đầu gối dắn, tròn và đẹp. 11/ Thân thanh-khiết. 12/ 
 Thân mềm-mại. 13/ Thân không nghiêng-vẹo. 14/ Ngón tay tròn, thon, 
 nhỏ. 15/ Vằn ngón tay lặn khuất. 16/ Mạch sâu không nổi. 17/ Mắt cá 
 chân không nổi. 18/ Thân bóng đẹp. 19/ Thân tự giữ được không 
 xiên-xẹo. 20/ Thân đầy-đủ. 21/ Dung-nghi bị-túc. 22/ Dung-nghi 
 đầy-đủ. 23/ Trụ-xứ yên không động. 24/ Uy-đức chấn-động hết thảy. 
 25/ Hết thảy chúng-sinh thấy đều vui. 26/ Mặt không dài, lớn. 27/ 
 Dung-mạo nghiêm-chỉnh, sắc không biến-đổi. 28/ Mặt tròn đầy. 29/ Môi 
 sắc đỏ như quả Tần-bà. 30/ Tiếng nói vang xa, sâu-nhiệm. 31/ Rốn 
 sâu, tròn, đẹp. 32/ Lông xoáy về bên hữu. 33/ Tay, chân đầy-đặn. 34/ 
 Tay, chân như ý. 35/ Vằn tay thẳng, rõ. 36/ Vằn tay dài. 37/ Vằn tay 
 không đứt. 38/ Hết thảy chúng-sinh có ác-tâm trông thấy đều 
 vui-mừng. 39/ Mặt rộng đẹp lạ. 40/ Mặt đầy-đặn, trong-trẻo như mặt 
 trăng. 41/ Theo ý hòa-duyệt của chúng-sinh mà nói. 42/ Từ nơi lỗ 
 chân lông tỏa ra hơi hương. 43/ Từ miệng tỏa ra mùi hương vô-thượng. 
 44/ Nghi-dung như sư-tử. 45/ Đi, ở như voi đầu đàn. 46/ Tướng đi như 
 con ngan đầu đàn. 47/ Đầu như quả Ma-đà-na. 48/ Đầy-đủ hết thảy 
 tiếng. 49/ Bốn răng nanh trắng nhọn. 50/ Lưỡi màu đỏ. 51/ Lưỡi mỏng. 
 52/ Lông màu đỏ. 53/ Lông mềm sạch. 54/ Mắt dài rộng. 55/ Đủ tướng 
 tử-môn. 56/ Tay, chân trắng hồng như màu hoa sen. 57/ Rốn không lồi 
 ra. 58/ Bụng không phình. 59/ Bụng nhỏ. 60/ Thân không rung-động, 
 nghiêng-ngả. 61/ Thân trì-trọng. 62/ Thân to lớn. 63/ Thân cao. 64/ 
 Tay chân mềm, sạch, trơn bóng. 65/ Hào-quang bốn bên phóng ra xa một 
 trượng. 66/ Ánh sáng soi cho thân đi. 67/ Coi chúng-sinh bình-đẳng. 
 68/ Không khinh chúng-sinh. 69/ Theo giọng tiếng chúng-sinh, không 
 thêm, không bớt. 70/ Thuyết-pháp không chấp trước. 71/ Thuyết-pháp 
 theo tiếng nói của chúng-sinh. 72/ Cất giọng nói hợp tiếng 
 chúng-sinh. 73/ Theo nhân-duyên thuyết-pháp lần-lượt. 74/ Hết thảy 
 chúng-sinh xem dung-tướng mãi không hết. 75/ Xem không thấy chán và 
 đủ. 76/ Tóc dài đẹp. 77/ Tóc không rối. 78/ Tóc cuộn đẹp. 79/ Màu 
 tóc như ngọc xanh. 80/ Tay, chân coi dáng có đức.
 
 
 46
 Hàng-Tư-lương: Tức Tư-lương-vị là: Thập- trụ. Thập-hành và 
 nửa phần trong Thập Hồi-hướng.
 
 
 47
 Tứ-thiện-căn: 4 thiện-căn (tức Gia hành-vị), là 4 môn 
 thiền-định và là mãn-vị của Thập hồi-hướng: 1/ Noãn: hơi 
 nóng, ví cho lửa trí-tuệ sắp phát-khởi. 2/ Đỉnh: ví như đỉnh 
 núi có thể lên xuống. 3/ Nhẫn: nhẫn-tiến. 4/ Thế-đệ-nhất: 
 pháp tối-thắng hơn đời.
 
 
 48
 Saú Ba-la-mật: 1/ Đàn-na (bố-thí) Ba-la-mật-đa 
 (Dànapàramità). 2/ Thi-la (trì-giới) Ba-la-mật-đa (Silapàramità). 3/ 
 Sàn-đề (nhẫn-nhục) Ba-la-mật-đa (Ksantipàramità). 4/ Tì-lê-gia 
 (tinh-tiến) Ba-la-mật-đa (Viryapàramità). 5/ Thiền-na (thiền-định) 
 Ba-la-mật-đa (Dhyànapàramità). 6/ Bát-nhã (tuệ) Ba-la-mật-đa 
 (Prajnàpà-ramità).
 
 
 49
 Mười hai nhân duyên: 1/ Vô-minh. 2/ Hành. 3/ Thức. 4/ 
 Danh-sắc. 5/ Lục-nhập. 6/ Xúc. 7/ Thụ. 8/ Ái. 9/ Thủ. 10/ Hữu. 11/ 
 Sinh. 12/ Lão tử.
 
 
 50
 Tứ-đế: Khổ, tập, diệt, đạo.
 
 
 51 
 Đây là mười hiệu của Phật :
 
 1/ Như-Lai: (Đa đà a già 
 đà: Tathàgata): Noi theo đạo như thực, thành ngôi chính-giác,
 
 2/ Ứng-cúng (A-la-ha: 
 Arhat): Ứng-thụ sự cúng-dàng của Nhân, Thiên.
 
 3/ Chính-biến-tri (Tam 
 miệu tam Phật-đà: Samya Ksambuddha): Chính thực biết khắp hết thảy 
 mọi pháp.
 
 4/ Minh-hành-túc (Bệ đa 
 thứ la na tam bát na: Vidyàcaranampanna): Thực-hành đầy-đủ ba phép 
 minh: a.- Túc-mệnh-minh: Biết tướng sinh-tử đời trước của thân mình 
 và thân người. b.- Thiên-nhãn-minh: Biết tướng sinh-tử đời vị-lai 
 của thân mình và thân người. c.- Lậu-tận-minh: Trí-tuệ biết 
 khổ-tướng hiện-tại, dứt hết thảy phiền-não.
 
 5/ Thiện-thệ (Tu-già-đà: 
 Sugata): Nghĩa là "đi tốt”. Ý nói: dùng Nhất-thiết-trí làm xe, đi 
 trên đường bát chính, rảo tới Niết-bàn.
 
 6/ Thế-gian-giải 
 (Lộ-già-bị: Lokavid): Hiểu rõ những sự thuộc hữu-tình và phi-tình ở 
 thế-gian.
 
 7/ Vô-thượng-sĩ 
 (A-nốc-đa-la: Anuttara): Trong các pháp, Niết-bàn là hơn cả và, 
 trong hết thảy chúng-sinh, Phật là vô-thượng.
 
 8/ Điều-ngự trượng-phu: 
 (Phú lâu sa nẵng miệu bà la đề: Puru-sa-dnmya-sàrathi): Phật tùy 
 thời dùng lời hòa-dịu, tùy thời dùng lời khổ thiết…trông nom, 
 điều-trị chúng-sinh, làm cho họ không trái đạo, mà đi vào thiện-đạo.
 
 9/ Thiên-nhân-sư: (Xá đa 
 đề bà ma nâu sa nẫm: Sastà-deavama-nusyànàm): Phật là bậc Đạo-sư cõi 
 Nhân, cõi Thiên, thường hay dạy bảo những sự nên làm.
 
 10/ Phật, Thế-tôn 
 (Phật-đà, Lô-ca-na-tha: Buddha-Locanatha): Phật nghĩa là người 
 giác-ngộ, Thế-Tôn có nghĩa là được thế-gian tôn-trọng. Thế-Tôn còn 
 có chỗ gọi là Bạc-già-phạm (Bhagavàn).
 
 
 52 
 Đoạn trên , từ chỗ "Thiện-nam-tử!” (trang 38) đến chỗ "chứng Bồ-đề” 
 là nói về Tha-thụ-dụng-thân của Phật-bảo. Phật-bảo biến-hóa nhiều 
 thân độ cho các Bồ-tát Thập-địa, Nhị-thừa, Nhân, Thiên chóng được 
 cứu-cánh Niết-bàn. Vì vậy, Phật-bảo có 10 hiệu, 6 công-đức vi-diệu. 
 Và, sở-dĩ chúng-sinh không được thấy Phật-bảo, vì chúng-sinh tạo 
 nhiều ác-nghiệp.
 
 
 53
 Thanh, danh, cú, văn: Là tiếng nói của Phật nói ra những 
 giáo-pháp cao-siêu (vô-lậu) nhưng, phải dùng đến tên gọi, đặt thành 
 từng câu và văn-tự để làm cửa hiển-lộ.
 
 
 54
 Bốn loại ma: 1/ Phiền-não ma (tham, sân, si ). 2/ Ngũ-ấm-ma 
 (sắc, thụ, tưởng, hành, thức ). 3/ Tử-ma (sự chết). 
 Tha-hóa-tự-tại-thiên-ma.
 
 
 55
 Bảo-sở: Nơi có những ngọc báu. Đây ám-chỉ cho Nhất-thừa, 
 Bồ-đề, Niết-bàn.
 
 
 56 
 Đoạn trên, từ chỗ "Các thiện-nam-tử!....” (trang 41) cho đến chỗ 
 "không thể nghĩ, bàn được” là nói về Pháp-bảo. Pháp-bảo có: giáo, 
 lý, hành, quả. Pháp-bảo là thầy chư Phật, là tất cả những cái đem 
 lại lợi-ích an-vui cho chúng-sinh và tới chỗ giải-thoát.
 
 
 57
 Biệt-giải-thoát-giới: Là một trong ba thứ luật-nghi. Trong 
 Dục-giới, y vào sự tác-pháp thụ các giới-pháp, giới-pháp ấy 
 phát-sinh giới-thể, làm cho thân, khẩu ác-nghiệp được giải-thoát 
 riêng-biệt.
 
 
 58
 Xá-lỵ (Sarira): Có chỗ gọi là "Thất-lỵ-la” hay 
 "Thiết-lỵ-la”. Có nghĩa là thân cốt của Phật. Xá-lỵ do vô-lượng 
 công-đức lục-độ họp thành, là do sự huân-tu của Giới, Định, Tuệ mà 
 thành. Xá-lỵ có 3 hình sắc: sắc trắng là xá-lỵ bằng xương; sắc đen 
 là xá-lỵ bằng tóc; sắc đỏ là xá-lỵ bằng thịt. Và, có 2 loại xá-lỵ: 
 1/ Toàn thân xá-lỵ: Như xá-lỵ Phật Đa-bảo (trong kinh Pháp-hoa). 2/ 
 Toái-thân-xá-lỵ: Thân đốt vụn ra như thân đức Phật Thích-Ca. Lại có 
 hai thứ nữa: 1/ Sinh-thân-xá-lỵ: Thân do tu Giới, Định, Tuệ mà 
 thành, Như-Lai sau khi nhập-diệt lưu lại thân cốt, làm cho Nhân, 
 Thiên được phúc-đức cúng-dàng mãi-mãi. 2/ Pháp thân-xá-lỵ: Tức là 
 hết thảy kinh sách Đại, Tiểu-thừa.
 
 
 59 
 Đoạn trên, từ chỗ "Thiện-nam-tử! Thế-gian…” (trang 42) đến chỗ 
 "không thể nghĩ-bàn được”, đức Phật nói rõ về giới-đức của 3 hạng 
 Chân-phúc-điền-tăng và một hạng Phúc-điền-tăng. Ai cúng-dàng 4 hạng 
 Tăng ấy đều được phúc-đức vô-lượng.
 
 
 60
 Bể bất-tư-nghị: "Bất-tư-nghị”: hoặc là lý sâu-sa, huyền-diệu, 
 hoặc là sự hiếm có lạ-lùng, không thể dùng tâm suy-nghĩ và không thể 
 dùng lời bàn-bạc được. Đây nói Tam-bảo có nhiều sự, lý bất tư-nghị 
 ấy nên gọi là "bể bất-tư-nghị”.
 
 
 61
 Bình Thiên đức: Cái bình hiện ra tất cả những thứ theo như 
 tâm mong muốn, như ngọc Như-ý vậy. Kinh Hoa-Nghiêm nói: "Tâm bồ-đề 
 là bình Thiên-đức, cho đầy-đủ hết thảy sự mong muốn.”
 
 
 62
 Tám thứ gió: Còn gọi là 8 pháp. Có 8 pháp là chỗ yêu, ghét 
 của thế-gian, nó hay thổi động tâm người, nên gọi là "tám thứ gió”: 
 1.- Lợi. 2.- Suy (kém, sút). 3.- Hủy (nói xấu). 4.- Dự (khen-ngợi). 
 5.- Xưng (tâng bốc). 6.- Cơ (quở-trách). 7.- Khổ. 8.- Lạc (vui).
 
 
 
 
 63 
 Đoạn trên, từ chỗ "Bấy giờ….” ( trang 43) đến chỗ "như thế”, đức 
 Phật nói: Phật, Pháp, Tăng có 10 nghĩa cao-quý, nên được gọi là 
 "Bảo”. Vậy nên cần báo ân.
 
 
 64
 Ba bậc: Tức là danh-tự, thân-cận và chân-thực.
 
 
 65
 Nhẫn-nhục tam-muội: "Tam-muội” là chính-định; "Nhẫn” là 
 nhẫn-khả (an-trụ), tức là y vào pháp-nghĩa của Như-Lai nói ra, 
 nhẫn-khả nơi tâm được an-lạc. "Nhẫn-nhục tam-muội” là do sức định 
 an-trụ nơi đạo-lý, tâm không rung-động mà được yên-vui.
 
 Theo các kinh nói thì : 
 Đẳng-giác Bồ-tát được Kim-cương-nhẫn (an-trụ kiên-cố như kim-cương). 
 Bát-địa Bồ-tát được Vô-sinh-nhẫn (an-trụ nơi không-lý không sinh, 
 diệt bất động). Địa-tiền Bồ-tát được Nhu-thuận-nhẫn (tâm nhu, trí 
 thuận, không trái với thực-tướng). Sơ-địa Bồ-tát được Bất-khởi-nhẫn 
 (an-trụ nơi không-lý không sinh, không khởi).
 
 
 66
 Bất thoái: Tiếng Phạm là A-tỳ-bát-chí (Aviniv-artan hay 
 Avaivartika), có nghĩa là công-đức, thiện-căn càng tăng-tiến mà 
 không lui mất, lui chuyển vậy. Bất-thoái có 3 bậc: Vị-bất-thoái, 
 hành-bất-thoái, niệm-bất-thoái.
 
 
 67
 Hội Long-hoa: Đức Di-Lặc sau đây thành Phật ở dưới cây 
 Long-hoa trong vườn Hoa-Lâm, Ngài mở 3 pháp-hội độ hết chúng-sinh 
 thượng, trung, hạ căn. Cây này cành hoa như đầu rồng nên gọi là 
 "Long-Hoa”.
 
 
 68
 Chính-định-tụ: Có nghĩa là tu tập chính-định, quyết định 
 chứng-ngộ.
 
 
 69 
 Đoạn trên, từ chỗ "Khi ấy, năm trăm ông Trưởng-gỉa…” đến chỗ 
 "Như-Lai”. Đức Phật bảo các ông Trưởng-giả muốn báo tứ-ân cần tu 3 
 bậc của 10 Ba-la-mật. Đại chúng nghe pháp chứng-ngộ. Và , ngài 
 khuyên: Ai thụ-trì, tuyên-bá phẩm báo-ân này thời đời này, đời sau 
 được nhiều lợi-ích.
 
 Đến đây hết quyển thứ 
 hai. 
 
 
 
 70
 Do-tuần:(Yojma): Theo Thánh-giáo chép thời mỗi Do-tuần là 16 
 dậm, mỗi dậm 576 thước tây. Như thế mỗi Do-tuần chừng 9216 thước 
 tây.
 
 
 71
 Tập-khí: Hơi-hướng cuả sự huân-tập (vọng-hoặc), trong 
 Đại-thừa chia ra làm 3 phần: Hiện-hành, chủng-tử và tập-khí. Dẹp 
 hiện-hành, dứt chủng-tử nhưng còn phần hơi-hướng của vọng-hoặc mà 
 hiện ra tướng-trạng của vọng-hoặc, phần ấy là "tập-khí”.
 
 
 72
 140 đức bất cộng: Là: 32 tướng, 80 thứ tốt, 4 tịnh, 10 lực, 4 
 vô-úy, 3 niệm-xứ, 3 bất-hộ, cùng đại-bi, thường bất-vong-thất 
 (thường không quên mất chính-niệm), đoạn phiền-não-tập và 
 nhất-thiết-trí. Đây là những đức-trí theo nơi Phật được đầy-đủ hoàn 
 toàn mà các bậc khác không có đủ nên gọi là "bất cộng”.
 
 
 73
 Bát tự-tại: Tám nghĩa tự-tại… Còn gọi là "Bát đại 
 tự-tại-ngã”: Niết-bàn có bốn đức: thường, lạc, ngã, tịnh. Đức "ngã” 
 lấy tự-nhiên tự-tại làm nghĩa; tự-tại có 8 nghĩa nên gọi là "bát đại 
 tự-tại-ngã”: 1.- Thị-hiện một thân làm nhiều thân. 2.- Thị-hiện thân 
 như một hạt bụi, đầy khắp cõi Đại-thiên. 3.- Thân lớn nhưng cử-động 
 nhẹ một cái cũng đến được nơi xa. 4.- Hiện thành nhiều loại mà 
 thường thường ở trong một cõi. 5.- Các căn đều có tác dụng hỗ-tương. 
 6.- Được hết thảy các pháp nhưng tưởng như không có pháp nào. 7.- 
 Nói nghĩa một bài kệ trải vô-lượng kiếp. 8.- Thân biến khắp mọi nơi 
 cũng như hư-không. 
 
 Đoạn trên, từ chỗ 
 "tối-thắng…” tới chữ "cung” là những câu kệ tán-thán về thực-đức 
 tự-chứng của Phật.
 
 
 74
 Năng nan: Có nghĩa là hay làm những việc khó làm.
 
 
 75
 Đại-hải-triều: Nước bể lớn lên, xuống đúng thời.
 
 
 76
 Thiên-cổ: Trống cõi trời.
 
 
 77
 Kiếp-hải: Kiếp số nhiều ví như nước bể.
 
 
 78
 Đại-tịch-thất: Nhà rất yên-lặng. Là chỉ cho nơi nhập-định. 
 "Đại-tịch” có nghĩa là xa-lìa hết thảy sự tán-động, được tịch-tĩnh 
 rốt-ráo.
 
 
 79
 Tam không: 3 lý không, tức là 3 môn giải-thoát: Không, 
 vô-tướng, vô-nguyện (Xem chú-giải của Phẩm-tựa, phần chú-giải số 
 53).
 
 
 80 
 Đoạn trên, từ chỗ "Nhân, Thiên…” đến chỗ "phần nhỏ”, nói về 
 quyền-đức hóa-tha của Phật. 
 
 
 
 81
 Năm ác-trọc: Tức là ngũ-trọc ác-thế "Thế-gian có 5 thứ 
 vẩn-đục, tệ-ác”: 1.- Kiếp-trọc: Thời-gian có 4 thứ ác-trọc sau. 2.- 
 Kiến-trọc: Những tư-tưởng chấp trước, tà-vạy (như 5 lợi-sử). 3.- 
 Phiền-não-trọc: Nhiều tham, sân, si, v.v… 4.- Chúng-sinh-trọc: 
 Chúng-sinh nhiều khổ, ít vui. 5.- Mệnh-trọc: Thọ-mệnh ngắn-ngủi 
 (chết non).
 
 
 82 
 Đoạn trên, từ chỗ "thế-gian” đến chỗ "Bồ-đề-đạo” là nêu chung về bốn 
 ân cần trả.
 
 
 83
 Lục thân: Sáu bậc thân-tình: Cha, mẹ, vợ, con, anh, em.
 
 
 84 
 Đoạn trên, từ chỗ "từ phụ” tới chỗ "tu-học” đức Phật nhắc lại ân-đức 
 phụ-mẫu cần phải trả.
 
 
 85
 Sáu thời: Sáng, trưa, chiều, chập tối, nửa đêm, gần sáng.
 
 
 86
 Túc-trụ-trí: Tức là Túc-mệnh-thông.
 
 
 87
 Bốn loại sinh: Loại sinh trứng, loại sinh con, loại sinh nơi 
 ẩm-thấp và loại hóa-sinh.
 
 
 88 
 Đoạn trên, từ chỗ "Chúng-sinh” đến chỗ "vô-thượng-đạo”, đức Phật 
 nhắc lại ơn chúng-sinh cần phải trả.
 
 
 89 
 Đoạn trên, từ chỗ "Mười phương” đến chỗ "vinh-lộc” là nhắc ân-đức 
 của Quốc-vương đối với quốc-dân.
 
 
 90
 Ba tịnh-giới: 1.- Nhiếp luật-nghi-giới: giữ giới-luật. 2.- 
 Nhiếp thiện-pháp-giới: tu hết thảy pháp lành. 3.- Nhiếp chúng-sinh 
 giới hay Nhiêu-ích hữu-tình-giới: làm lợi-ích chúng-sinh.
 
 
 91 
 Đoạn trên, từ chỗ "Trưởng-giả” tới chỗ "thân vua”, nói về nhân-quả 
 của Quốc-vương.
 
 
 92 
 Đoạn trên, từ chỗ "Nếu người” đến chỗ "làm vua” là biện-biệt về 
 giới-phẩm.
 
 
 93
 Phủ-dục: Vỗ-về, nuôi-nấng.
 
 
 94
 Tam-tụ-giới: Tức là "Ba tịnh-giới” đã chú-thích trong phẩm 
 này số 90.
 
 Đoạn trên, từ chỗ "Bởi 
 vì” đến chỗ "tam-tụ-giới” là nêu rõ nhân, chỉ rõ quả.
 
 
 95
 Sám: Tức là "Sám-hối”. Sám tiếng Phạm gọi đủ là "sám-ma” 
 (Ksamayati). Tàu dịch là "Hối-quá”, có nghĩa là tự mình bày-tỏ những 
 lỗi-lầm trước, ăn-năn từ nay sửa-đổi và không dám phạm nữa. Sám-hối 
 là hai chữ ghép chung của tiếng Phạm (Ấn-độ) và tiếng Hán mà thành.
 
 
 96
 Mười duyên: Tức là mười nghiệp thiện hay ác do thân, khẩu, ý 
 tạo ra.
 
 
 97
 Hiện-hành, chủng-tử: A-lại-gia thức có công-năng sinh hết 
 thảy pháp gọi là "chủng-tử (hạt giống). Từ đây sinh ra các pháp của 
 sắc, tâm gọi là "hiện-hành”: những hành-động hiển-hiện.
 
 
 98
 Tạng-thức: Tức là thức A-lại-gia thứ 8. "Tạng” có 3 nghĩa: 
 năng-tạng, sở-tạng và ngã-ái-chấp-tạng. Tạng-thức gìn-giữ và 
 liên-lạc với hết thảy hạt giống.
 
 
 99
 Tứ-thiền: 4 cõi thiền-định là Sơ, Nhị, Tam, Tứ-thiền. 
 Tứ-thiền bao gồm 18 cõi trời thuộc Sắc-giới.
 
 
 100
 Đại-viên-kính Phật: Tức Đại-viên-kính-trí của Phật.
 
 
 101 
 Đây nói về sự, lý sám-hối. Sự sám có hai: 1.- Tác-pháp-sám: Y-pháp, 
 hướng Phật-tiền sám-hối. 2.- Thủ-tướng-sám: Định-tâm vận-tưởng 
 sám-hối, thấy Phật xoa đầu hoặc thấy hào-quang. Lý-sám thuộc về 
 "vô-sinh-sám”: Chính tâm, quán lý vô-sinh (không sinh diệt).
 
 
 102
 Sáu trần: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
 
 
 103
 Sáu căn: Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý.
 
 
 104
 Hòa-thượng: Chính tiếng Phạm gọi là Ô-xã hay Hòa-xã, Hòa-xà 
 (Khosha), Ngài La-Thập phiên nghĩa là "Lực-sinh”, có nghĩa là người 
 đệ-tử y vào đấy mà đạo-lực được sinh-trưởng. Hòa-thượng là một 
 chức-vị thứ nhất trong đàn truyền giới cho các đệ-tử.
 
 
 105
 A-xà-lê: (Àcàtya): Tàu dịch là "Quỹ phạm chính-hạnh” có nghĩa 
 là bậc thầy uốn-nắn ngay thẳng những hành-vi của đệ-tử, là bậc 
 sư-phạm làm khuôn-mẫu cho người. A-xà-lê là 1 chức-vị thứ hai trong 
 giới đàn.
 
 
 106
 Giáo-thụ-sư: Thầy dạy bảo và trao-truyền giới-pháp cho các 
 đệ-tử. Giáo-thụ-sư là chức-vị thứ 3 trong giới-đàn.
 
 
 107
 Lưỡng-túc-tôn: Các Thế-Tôn (Phật) đầy-đủ hai bề: phúc-đức và 
 trí-tuệ.
 
 
 108
 Chứng-giới-sư: Các vị tôn-đức ngồi chứng-minh đàn truyền 
 giới. Chứng-giới-sư có chỗ gọi là "Tôn-chứng-sư” là chức-vị thứ tư 
 trong giới-đàn.
 
 
 109
 Ba chướng: Ba thứ làm chướng-ngại chính-đạo, tổn-hại 
 thiện-tâm: 1.- Phiền-não-chướng: tham, sân, si, v.v… 2.- 
 Nghiệp-chướng: tạo nghiệp ngũ-nghịch, thập-ác v.v… 3.- Báo-chướng: 
 chịu khổ-báo trong ba đường dữ.
 
 
 110
 Tam (3) thân: Pháp-thân, báo-thân và hóa thân. 
 
 
 
 111 
 Đoạn trên, từ chỗ "Nếu muốn như pháp” đến chỗ "xuất-thế”, do trước 
 Phật đã nói về nhân-quả của Quốc-vương, nên đây Ngài khuyên nên sám 
 tội, dạy pháp sám-hối được ích, bảo cho nghi-thức thụ-giới, nói rõ 
 về giới-đức và Ngài khuyên nên thụ-trì giới.
 
 
 112
 Phật-nhật: Trí-tuệ của Phật soi thấu sự tăm-tối của thế-gian 
 chúng-sinh cũng ví như mặt trời. 
 
 
 
 113
 Như-lai-tạng: Có nghĩa là kho-tàng của tự-tính, vì hết thảy 
 các pháp không ra ngoài tự-tính Như-Lai. Chân-như ở trong phiền-não 
 là "Như-lai-tạng”; chân-như ra ngoài là "Pháp-thân”. Y vào phẩm 
 Như-lai-tạng Phật tính luận thời Tạng có 3 nghĩa: 1.- 
 Sở-nhiếp-nghĩa: Chân-như trong chúng-sinh hàm-tàng: hòa-hợp, bất 
 hòa-hợp, nhiễm-pháp, tịnh-pháp tất cả đều nhiếp-thuộc tính Như-Lai 
 nên gọi là Như-Lai-tạng. 2.- Ẩn-phú-nghĩa: Chân-như khi ở trong 
 phiền-não, bị phiền-não che-lấp, tính-đức Như-Lai không hiển-hiện 
 được, nên gọi là "Như-Lai-tạng”. 3.- Năng-nhiếp-nghĩa: Chân-như 
 trong phiền-não hàm-nhiếp hết thảy công-đức quả-địa của Như-Lai, nên 
 gọi là "Như-lai-tạng”.
 
 
 114
 Ba thứ rèn, mài: (luyện-ma): 1/ Dẫn người đã chứng Đại-bồ-đề 
 rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất về đạo Bồ-đề rộng lớn. 2/ 
 Xét kỹ ý muốn nơi mình, rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất 
 về muôn hạnh khó tu. 3/ Chỉ dẫn chỗ thô-thiện của người đem so-sánh 
 với diệu-nhân của mình, rèn mài tự-tâm, để đối-trị tâm thoái-khuất 
 về sự khó chứng được 2 diệu-quả chuyển-y (Bồ-đề, Niết-bàn).
 
 
 115 
 Đoạn trên, từ chỗ "Tam-bảo thường-trụ” đến chỗ "Phật-đạo” là nói về 
 tướng chung của Tam-bảo.
 
 
 116
 Tâm-hành-xứ diệt: Nói đủ là "tâm-hành-xứ diệt, ngôn-ngữ-đạo 
 đoạn”. Là chân-lý cứu-cánh. Đường ngôn-ngữ dứt (ngôn-ngữ-đạo đoạn). 
 Không thể ngôn-thuyết được; chỗ tâm-niệm diệt (tâm-hành-xứ-diệt), 
 không thể nhớ nghĩ được. Đó là cảnh-giới bất-khả tư-nghị.
 
 
 117 
 Đoạn trên, từ chỗ "Các thiện-nam-tử” đến chỗ "bảo” là nhắc lại 3 
 thân của Phật-bảo.
 
 
 118 
 Đoạn trên, từ chỗ "Ứng-hóa hai thân” đến chỗ "khó trả” là tán-dương 
 công-đức của Pháp-bảo.
 
 
 119
 Nước tám công-đức: 1/ Trừng-tịnh: lặng, sạch. 2/ Thanh-lãnh: 
 trong mát. 3/ Cam-mỹ: ngon-ngọt. 4/ Khinh-nhuyến: dịu-dàng 5/ 
 Nhuận-trạch: Thấm-nhuần. 6/ An-hòa. 7/ Khi uống khỏi đói-khát và 
 khỏi vô-lượng tội-lỗi, tai-hoạn. 8/ Uống rồi quyết-định nuôi lớn các 
 căn và thân tứ-đại thêm ích-lợi.
 
 
 120
 Mạt-pháp: Một trong 3 thời truyền pháp của Phật, sau khi Phật 
 nhập-diệt: 1/ Phật nhập-diệt nhưng chính-pháp của Ngài không 
 thay-đổi, có giáo-lý, có thực-hành, có người chứng chính-quả, là 
 "chính-pháp-thời”. 2/ Chính-pháp dần sai, pháp-nghi, pháp-hành 
 chân-chính không thực-hành, chỉ còn tương-tự, theo mà không chứng 
 quả được là "Tượng-pháp-thời”. 3/ Chính-pháp bị suy-vi, chuyển-biến; 
 có giáo-lý nhưng không thực-hành không chứng quả, là 
 "Mạt-pháp-thời”.
 
 
 121
 Uất-kim-hoa: Tên một thứ cây chính tiếng Phạm gọi là 
 Cung-củ-ma (Kunkumam). Cây này hoa vàng mà thơm, khả-dĩ dùng làm 
 huân-hương.
 
 
 122 
 Đoạn trên, từ chỗ "Trưởng-giả Trí-Quang” đến chỗ "ân-đức lớn” là nói 
 về ân-đức Thánh, phàm Tăng
 
 
 123
 Bốn đại: Đất (chất dắn), nước (chất lỏng), gió (chất hơi), 
 lửa (chất nóng).
 
 
 124 
 Tám câu trên là tổng-kết về 4 ơn.
 
 
 125
 Tam-luân thể-không: Cũng như Tam-luân-không.
 
 
 126
 Trần-cấu: Tiếng gọi chung cho phiền-não.
 
 
 127
 Pháp-nhãn-tịnh: Nghĩa là thấy chân-lý bằng cách rõ-ràng.
 
 Đoạn trên, từ chỗ "Khi 
 ấy” đến chỗ "pháp-nhãn-tịnh”, đức Phật nói về cách báo-ân và sự 
 chứng-ngộ của đại-chúng nghe pháp.
(Trích Tâm Địa Quán - Phẩm Báo Ân Thứ Ba) 






0 Kommentare:
Post a Comment