Nhà
ngươi hay bỏ được những việc khó bỏ. Ngươi ngày nay
đen cả thân thể xương thịt để cúng dàng cha mẹ, có
những công đức như vậy, để nguyện sinh làm Thiên ma
vương, Phạm vương, Thiên vương, Nhân vương, hay
Chuyển luân thánh vương?
Bấy giờ
trong đại chúng, bỗng có một đóa hoa sen bảy báu, từ
nơi mặt đất hóa sinh, cọng bằng bạch ngân, lá bằng
hoàng kim, đài sen bằng ngọc phiêu thúc ca, riền hoa
bằng ngọc trân châu, thứ lớp trang nghiêm.
Bấy giờ
Đức Thích Ca Như Lai liền từ tòa ngồi đứng dậy, bước
lên đài hoa sen báu kia, ngồi kiết già phu, từ nơi
thân thanh tịnh, Ngài hiện ra thân của năm ngả, mỗi
thân của năm ngả, có một vạn tám ngàn hình loại khác
nhau, mỗi mỗi hình loại, hiện ra trăm nghìn thứ thân,
trong mỗi mỗi thân, lại có vô lượng thân, nhiều như
cát sông Hằng, cho đến bằng cả số cát sông Hằng ở
bốn phương v.v… trong mỗi mỗi thân, lại hiện ra
những thân nhiều như hạt bụi cả đại địa khắp bốn
châu thiên hạ, ở trong số mỗi mỗi thân nhiều như
những hạt bụi ấy, lại hiện ra những thân nhiều như
những hạt bụi trong ba ngàn đại thiên thế giới, ở
trong mỗi mỗi thân nhiều như hạt bụi ấy, lại hiện ra
những số thân nhiều như những hạt bụi trăm nghìn ức
chư Phật thế giới ở khắp mười phương, cho đến hiện
ra những thân nhiều cùng tận cả cõi hư không pháp
giới, không thể lấy tâm nghĩ miệng bàn cho xiết được.
Bấy giờ
Đức Như Lai, hiện ra những thân như thế rồi, Ngài
bảo Tôn giả A Nan, và các vị đại Bồ Tát ở khắp mười
phương và tất cả chúng sinh rằng:
-Các
Thiện nam tử! Nay Như Lai, khắp biết chân chính,
tuyên nói lời chân thực rằng: Phật pháp vốn không có
ngôn thuyết, Như lai dùng phương tiện nhiệm mầu hay
dùng pháp không tướng ấy (tùy cơ phương tiện phân
biệt) mà nói danh tướng! Như Lai khi còn phải ở
trong đường sinh tử, ở trong tất cả loài chúng sinh,
cũng đã phải chịu đủ mọi thân hình nhiều như những
hạt bụi, không thể lấy lòng nghĩ, miệng bàn cho xiết
được. Vì phải chịu thân như thế, cho nên tất cả
chúng sinh, cũng từng đã làm cha mẹ của Như Lai, Như
Lai cũng đã làm cha mẹ của tất cả chúng sinh, vì tất
cả cha mẹ, nên Như Lai thường làm khổ hạnh khó làm,
bỏ cả những sự khó bỏ như : Đầu, mắt, tủy, não,
quốc, thành, thê tử, voi, ngựa, bảy báu, kiệu cáng,
xe cộ, y phục, ẩm thực, đồ nằm ngồi, thuốc thang,
cấp cho tất cả, siêng tu tinh tiến, bố thí, trì
giới, đa văn, thuyền định, trí tuệ, cho đến đầy đủ
tất cả vạn hạnh, thường không dừng nghỉ, tâm không
biết mỏi mệt hiếu dưỡng cha mẹ, biết ơn trả ơn, nên
mau chóng thành Vô thượng Chính đẳng Chính giác.
Bởi thế, chính tất cả chúng sinh, đã khiến cho Như
Lai, đầu đủ bản nguyện, vì thế nên biết, tất cả
chúng sinh, là trọng ân đối với Phật, vì có trọng ân
như vậy, cho nên Như Lai không bỏ chúng sinh, Như
Lai đem tâm đại bi thường tu tập phương tiện hữa vi
để cứu độ chúng sinh. Như Lai vì tất cả chúng sinh
ở trong ba cõi, hai mươi lăm cõi, mà không nghĩ đến
công lao của mình. Thường tu hành từ bi bình đẳng,
xả hành phương tiện, thấu suốt tất cả chúng sinh
không, pháp không, năm ấm không, cho nên không thoái
chuyển tâm Đại thừa, để an vui lấy một mình, không
để mất Đại nguyện, bỏ chúng sinh chìm dắm trong bể
khổ sinh tử, chẳng trược Tiểu thừa chấp “không”,
chẳng đọa phàm phu chấp “có”, tu hành thực tướng
phương tiện, chẳng bỏ lối tu hành Nhị thừa, học tất
cả phương tiện. Tu mọi hạnh như vậy, là phương tiện
nhiệm mầu sâu xa, cho nên thấu suốt được thực tướng
cả các Pháp, rồi tùy theo căn cơ của chúng sinh mà
phật nói pháp trước, sau có khác. Nhưng, vì chúng
sinh mê muội điên đảo, lầm chấp thấy có ba Thừa, bị
ái dục che đậy, chìm dắm trong bể khổ, bị bốn đảo
làm cho điên đảo: Đối với các pháp hữu lậu, vọng
tưởng phân biệt; đối với các pháp là vô ngã, vọng
tưởng thấy có ngã; đối với các pháp không phải là
vui, vọng tưởng chấp cho là vui; đối với các pháp là
bất tịnh, vọng tưởng, cho là tịnh, sinh, lão, bệnh,
tử, biến đổi hoại diệt, niệm niệm vô thường, năm
cái, mười triền che đậy, luân hồi ba cõi, phải chịu
sinh tử không có trước sau, cũng như vòng bánh xe,
bởi thế Như Lai, lập giáo cũng tùy theo cơ nghi của
chúng sinh, mà chia ra có ba tạng cho đến mười hai
bộ Kinh, đạo hóa chia giòng, tùy theo tín tâm nông
sâu, nói ra mọi kinh điển biện duyên, khiến cho
chúng sinh có thể liễu ngộ được thực tướng của các
pháp mà chứng Niết Bàn giải thoát. Bởi thế Như Lai,
từ bi bản thệ, dùng mọi phương tiện, chiêu tập tất
cả chúng sinh hữu duyên ở mười phương, đều tụ họp
trong đại chúng đây, diễn nói chỉ bày, kinh điển vi
diệu này, là những lời dạy bảo ngàn đời, lưu truyền
mãi mãi về sau, khiến tất cả chúng sinh, thường được
đại an lạc, cho nên Như Lai thị hiện giáng sinh, và
nhập Niết Bàn; hoặc ở nơi cõi nước khác, xưng là Xá
Na Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc,
Thượng Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự
Trượng Phu, Thiên, Nhân Sư, Phật, Thế Tôn; hoặc lên
ở cõi trời Đâu Suất Đà, làm bậc đạo sư cho chư
thiên; hoặc từ ở nơi cõi trời Đâu Suất, thị hiện
giáng sinh xuống cõi Diêm Phù Đề, hiện sống lâu tám
mươi tuổi, rồi vào Niết Bàn. Nên biết đó đều là Như
Lai không thể nghĩ bàn; thế giới không thể nghĩ bàn;
nghiệp báo thiện, ác không thể nghĩ bàn; chúng sinh
không thể nghĩ bàn; thuyền định không thể nghĩ bàn,
ấy là sức thần lực không thể nghĩ bàn của Phật.
Phật muốn khiến cho hết thẩy chúng sinh đều giác ngộ
được Phật tính của mình, cho đến hạ lưu độn căn
chúng sinh cũng đều khiến được biết. Phật muốn
khiến tất cả chúng sinh nếu muốn được thấy Phật,
liền được thấy ngay; còn những chúng sinh vô duyên,
thì dù có đối trước Phật vẫn không thấy được, cho
đến các vị Thanh Văn, Duyên Giác, tuy có thiên nhỡn
thông cũng không thấy. Lại nữa, Phật phóng ra ánh
sáng lớn, chiếu xuống tận địa ngục A tỳ, trên đến
tận cùng các cõi trời, những chúng sinh có duyên,
với Phật thì đều được thấy; còn chúng sinh vô duyên,
thì dù có đối trước mắt cũng không thấy. Có khi Như
Lai, hoặc hứa khả, hoặc mặc nhiên, nên biết đó đều
là phương tiện của chư Phật Thế Tôn, không thể nghĩ
bàn được, không thể so lường được, khó thể biết
được. Vậy thì làm sao mà ông có thể hỏi Như Lai
được những hạnh khổ khó làm, rất sâu xa nhiệm mầu
như thế, nhưng nay ông phát ra được lời hỏi ấy, thực
là do lòng đại bi thương xót chúng sinh, muốn ngăn
đóng ba nẻo ác, khai thông lối nhân thiên.
-A Nan!
Nghe cho kỹ, tôi nay sẽ vì ông, lượt nói về nhân
duyên khổ hạnh hiếu dưỡng cha mẹ.
Bấy giờ
Đức Thế Tôn, bảo Tôn giả A Nan, các vị đại Bồ Tát Ma
Ha Tát, và tất cả đại chúng rằng:
-Về đời
quá khứ lâu xa, vô lượng A tăng kỳ kiếp, bấy giờ có
một nước nọ, tên là Ba La Nại, trong nước đó có Đức
Phật ra đời, hiệu là Tỳ Bà Thi, Như Lai, Ứng Cúng,
Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian
Giải, Vô Thượng Sỹ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân
Sư, Phật, Thế Tôn. Đức Phật đó sống lâu mười hai
tiểu kiếp, chính pháp ở đời, hai mươi tiểu kiếp,
tượng pháp cũng ở đời hai mươi tiểu kiếp, ở trong
đời tượng pháp, có một ông vua ra đời, tên là La Xà,
có bốn nghìn người đại thần, năm trăm thớt voi. Vua
thống lãnh mười sáu tiểu quốc, tám trăm tụ lạc. Vua
có ba vị thái tử, đều làm vua ở bên các tiểu quốc.
Đại
Vương La Xà ở nước Ba La Nại, là người rất thông
minh nhân đức, thường dùng chính pháp trị quốc,
không làm việc gì uổng hại nhân dân. Nhờ phúc đức
của nhà vua, mà được gió hòa mưa thuận, ngũ cốc
phong nhiêu, nhân dân an lạc.
Bấy giờ
Đại Vương nước Ba La Nại kia, có một người đại thần
tên là La Hầu, khởi tâm ác nghịch dấy bốn thứ binh:
Tượng binh, xa binh, mã binh và bộ binh đến đánh
nước Ba La Nại, giết chết Đại Vương.
Sau khi
giết Đại Vương xong rồi, lại đem bốn binh, đến đánh
các tiểu quốc, giết chết đệ nhất thái tử kế đó lại
đi bắt đệ nhị thái tử.
Người
em út, làm vua ở một tiểu quốc, hình thể của vua đẹp
đẽ, to lớn, tính tình nhân hậu, nói thường mỉm cười,
và khi có nói ra điều gì đều đem lại lợi ích không
tổn hại ý người, thường dùng chính pháp trị nước,
không uổng hại nhân dân, cõi nước thịnh vượng an
lạc, nhân dân đông đảo của cải châu báu dư dật, gia
kế sung túc, nhân dân trong nước, ai cũng khen ngợi
công đức của nhà Vua, tất cả chư Thiên, tất cả thiên
thần địa kỳ, cũng điều ái kính.
Bấy giờ
Vua sinh hạ được một Thái tử, tên là Tu Xà Đề, rất
thông minh, nhân từ, hay làm việc bố thí. Thân hình
của Thái tủ Tu Xà Đề, sáng láng như sắc hoàng kim,
bảy chỗ nơi cơ thể đều đầy đặn cân đối, nhân tướng
đầy đủ, tuổi mới mười bảy, Vua cha rất yêu quý,
không bao giờ tạm dời bên lòng.
Bấy
giờ, có vị thần coi cung điện, báo mộng cho Đại
Vương biết rằng: “La Hầu đại thần, gần đây sinh tâm
ác nghịch, âm mưu cướp ngôi Vua, đã giết hại Phụ
Vương La Xà, đồng thời phát động bốn binh, tầm nã
bắt hai anh của Đại Vương, kẻ phản nghịch ấy, đã
giết cả hai anh của Đại Vương và quân mã không bao
lâu, sẽ đến hãm hại Đại Vương, nay Đại Vương cần
phải cấp thời trốn đi, để bảo toàn tính mạng”.
Bấy giờ
Đại Vương, nghe nói như vậy rồi, trong lòng rất sợ
hãi, dựng cả chân lông, thân thể giao động, lo giận
áo não, nghẹn ngào phiền muộn, tâm can não nhiệt,
vật vã ngã xỉu xuống đất, mãi hồi lâu mới tỉnh, rồi
cất tiếng khẽ hỏi trên hư không rằng:
-Người
là ai? Sao chỉ nghe thấy tiếng, mà không thấy hình,
việc ngươi vừa nói có đích xác không?
Vị thần
ấy liền báo cho Vua biết rằng:
-Tôi là
thần coi cung điện Vua là người thông minh phúc đức,
không uổng hại nhân dân, thường dùng chánh pháp trị
nước, vì vậy, mà tôi báo cho Vua biết: Đại Vương nay
nên cấp thời phải ra đi lánh nạn, nếu không họa hoạn
khổ não không lâu sẽ tới nơi!
Bấy
giờ, Đại Vương liền vào trong cung, tự suy nghĩ: “Ta
nay nên phải cấp thời đi lánh nạn, qua một nước láng
giềng khác, để tránh những tai họa sẽ xảy đến”. Lại
tự suy nghĩ: “Nước láng giềng kia mà ta định đến đó,
có hai con đường: Một đường phải đi tới bảy ngày mới
đến; còn một đường phải trải qua mười bốn ngày.”
Suy
nghĩ như vậy rồi, Vua liền cho chuẩn bị lương thực
trong bảy ngày và cho đem ra ngoài thành một cách
hết sức cẩn mật.
Khi cho
đem ra ngoài thành rồi, Vua lại trở vào trong cung,
gọi Thái tử Tu Xa Đề, bế để ngồi trên đầu gối, mắt
không lúc nào tạm rời, rồi lại đứng dậy, có vẻ kinh
hãi, rồi lại ngồi xuống.
Bấy
giờ, phu nhân coi thấy Đại Vương, có sự bất an, tựa
hồ có điều gì lo sợ? Bà liền đến trước chỗ Vua hỏi
rằng:
-Đại
Vương hôm nay, hình như có sự gì lo sợ, nên có vẻ
đứng ngồi không yên, thân thể bụi bặm lấp láp, đầu
tóc bơ phờ, mắt trông ngơ ngác, khí tức bất định,
tựa như có điềm mất nước, ân ái biệt ly, oan gia sắp
sửa xảy đến, với những tướng trạng bất tường như
thế, xin Đại Vương cho thần thiếp được biết?
Vua bảo
phu nhân rằng:
-Tôi có
việc hệ trọng, nhưng không phải việc mà phu nhân có
thể biết được.
Phu
nhân liền tâu Vua rằng:
-Tâu Bệ
hạ! Thiếp cùng với Bệ hạ, khác nào hai hình một thể,
cũng như chim hai cánh, như thân thể với chân tay,
như đầu với mắt. Đại Vương ngày nay vì sao lại
không cho thần thiếp được dự biết!
Vua bảo
phu nhân:
-Phu
nhân không biết sao! La Hầu đại thần, gần đây sinh
tâm ác nghịch, đã giết Phụ Vương, cướp ngôi Vua, và
bắt giết cả hai anh, nay bọn chúng đang cử binh mã,
lần lượt sẽ đến đây bắt ta, nay ta muốn tránh mạnh,
để khỏi những tai họa ấy.
Nói
rồi, tức thời ẵm Thái tử Tu Xà Đề, ra đi để lánh
nạn, và phu nhân cùng tùy tùng theo sau.
Bấy
giờ, vua vì tâm ý hốt hoảng rối loạn, nên đi lầm
phải con đường mười bốn ngày, con đường đó lại rất
nguy hiểm: Không có nước cỏ. Đi được vài ngày, thì
lương thực đã hết. Bản ý trước đây chỉ chuẩn bị vừa
số lương thực lộ hành cho một người trong thời gian
bảy ngày, nay phải dùng cho ba người, hơn nữa lại đi
lầm vào con đường tới mười bốn ngày, thì lương thực
đã hết cả, trên đường đi lại xa xôi hiểm trở.
Lúc đó,
Đại Vương và phu nhân cất tiếng khóc lóc: “Thực là
xót xa đau đớn, cho chúng tôi lắm! Chúng tôi từ khi
sinh ra đời cho đến nay, chưa từng có bao giờ bị khổ
sở như thế này, tại sao ngày nay lại phải chịu như
thế, giờ đây đã đến lúc đường cùng, họa lại sắp sửa
xảy tới nơi!”.
Nói
rồi, giơ tay vỗ đầu, bụi đất lấm láp, vật mình xuống
đất tự hối trách rằng:
-Lũ
chúng tôi đời trước, gây nên những nghiệp ác gì? Hay
là giết cha mẹ, chân nhân La Hán? Hay là hủy báng
Chính pháp? Hay là phá hoại hòa hợp Tăng? Hay là làm
nghề săn bắn tàn hại chúng sinh? Đong đầy khảo vơi?
Cướp đoạt của cải của chúng sinh? Hay là lạm dụng
của cải của chúng Tăng? Làm sao ngày này lại phải
chịu những sự họa hoạn ấy? Giờ đây chính muốn dừng
nghỉ một chút, lại sợ oan gia ập tới, nếu để chúng
bắt được, quyết sẽ bị chết, không còn nghi ngờ gì
nữa! Còn nếu tiến tới, thì lại bị đói khát bứt bách,
tính mạng chỉ còn ngắn bằng hơi thở!
Bấy
giờ, Đại Vương và phu nhân suy nghĩ những sự khổ não
như vậy rồi, thốt tiếng gào khóc, buồn rầu, ngã xỉu
ra đất, hồi lâu mới tỉnh. Lại tự suy nghĩ: “Nếu
không lập kế phương tiện, tất nhiên cả ba mạng người
đều không tránh khỏi chết, chi bằng ta nay sẽ giết
Phu nhân, để lấy thịt nuôi sống thân ta và bảo toàn
tính mạng cho đứa con này.”
Nghĩ
như vậy rồi, liền tuốt gươm, toan giết Phu nhân.
Thái tử
Tu Xà Đề thấy dị tướng như vậy, tức thời tay bên
phải đỡ lấy gươm, nắm chặt lấy tay Vua cha, tâu
rằng:
-Cha!
Cha định làm gì thế hả cha?
Bấy
giờ, Phụ Vương buồn rầu khóc lóc khẽ bảo Thái tử
rằng:
-Ta nay
muốn giết mẹ con nuôi sống cha và bảo toàn tính mạng
cho con, vì nếu không giết mẹ con, thì tất cả chúng
ta cũng sẽ chết, thân cha nay đây không biết sống
thác lúc nào, nay cha vì muốn cho con sống, nên cha
có ý định giết mẹ con!
Bây
giờ, Thái tử Tu Xà Đề, liền tâu với Vua rằng:
-Nếu
Vua cha giết mẹ con, con cũng không ăn, vì chưa có
bao giờ và ở đâu lại có những người con nào lại dám
ăn thịt của mẹ, tất nhiên con cũng sẽ chết. Vua cha
ngày nay sao lại không giết con đi, để cứu sống mạng
cho mẹ.
Vua
nghe con nói như thế, buồn rầu, vật vã, ngất xỉu ra
đất, nói nhỏ với con rằng:
-Con
cũng như con mắt của ta, chưa bao giờ và ở đâu lại
có người tự khoét mắt của mình, để rồi tự ăn vậy, ta
nay thà bỏ thân mạng, trọn không bao giờ giết con để
nuôi sống tính mạng của ta cả.
Bấy
giờ, Thái tử Tu Xà Đề thưa với cha mẹ rằng:
-Con
nay sẽ xin nguyện đem thâm mạng này của con, để cúng
dàng cha mẹ, cha mẹ ngày nay, nếu cắt thân mạng con
một lúc, thì không được bao nhiêu ngày, máu thịt sẽ
bị hôi thúi. Vậy kính xin cha mẹ, đừng giết chết
ngay, và con nay chỉ xin cha mẹ một điều, mong cha
mẹ đừng làm trái ý con, sẽ không phải là cha mẹ hiền
từ của con nữa.
Bấy
giờ, Vua cha bảo Thái tử rằng:
-Cha mẹ
sẽ không làm trái ý con, con muốn xin gì điều gì,
thì con cứ nói ngay cho cha mẹ biết.
Thái tử
Tu Xà Đề tâu rằng:
-Con
nay chỉ xin cha mẹ cho con một điều là: Cha mẹ hãy
thương con, có thể ngày ngày đem dao, xẻo thịt ở nơi
thân thể của con, cắt chừng ba cân, và chia làm ba
phần, hai phần để dâng cha mẹ, còn một phần để cho
con ăn, để tự nuôi sống tính mạng.
Bấy giờ
cha mẹ, liền theo như lời của con nói, ngày ngày cắt
ba cân thịt, và chia làm ba phần: Hai phần chia cho
cha mẹ, còn một phần cho con ăn, để tạm sống, chống
đỡ thân mạng, mong đi được đến nơi đến chốn.
Thời
gian chưa được hai ngày, thịt ở nơi thân thể của
Thái tử đã hết, chỉ còn da dính với xương, tuy nhiên
vẫn còn có một vài chút thịt dư chưa hết hẳn, vì quá
kiệt sức, Thái tử liền ngã ngất ra đất.
Bấy
giờ, cha mẹ liền ôm lấy Thái tử, cất tiếng gào khóc
nói rằng:
-Con
ơi! Cha mẹ thực là người vô dụng, ăn cả thịt con
khiến cho con phải đau đớn như thế này! Nay đường
hãy còn xa, chưa đến được nơi đã định, mà thịt con
cũng đã hết, tất nhiên đều sẽ bỏ thây cả ở đây!
Bấy
giờ, Thái tử Tu Xà Đề, nói nhỏ với cha mẹ rằng:
-Kính
thưa cha mẹ, con dâng thịt của con để cúng dàng cha
mẹ, đã đi được tới nơi đây, tính ra đường trường chỉ
có một ngày nữa là tới, mà thân thể con nay không
còn làm sao cử động được nữa, chắc con sẽ bỏ tính
mạng ở nơi đây mất, con sẽ không còn có thể theo cha
mẹ ngày này, không nên nghĩ ngợi theo thói thường
tình, để rồi cũng bị chết cả ở nơi đây, con kính xin
cha mẹ một điều, cha mẹ hãy thương xót con, và xin
chớ trái lòng con, cha mẹ hãy cắt nốt những chỗ thịt
còn sót ở các lóng đốt của con, dùng nuôi sống cha
mẹ cho qua ngày để đi đến cho được chỗ mà cha mẹ đã
định.
Bấy
giờ, cha mẹ liền làm theo lời con, lại cắt nốt thịt
còn dư ở các lóng đốt, và chia làm ba phần: Một phần
cho con ăn, còn hai phần thì mình ăn. Ăn xong rồi
cha mẹ liền từ biệt con để ra đi.
Tu Xà
Đề đứng dậy, trông theo cha mẹ cho đến khi khuất
dạng mới thôi.
Bấy giờ
cha mẹ đều cất tiếng gào khóc thảm thiết, dõi theo
đường mà đi. Khi cha mẹ ra đi rồi, Thái tử Tu Xà
Đề, vì luyến mộ cha mẹ, mắt nhìn đăm đăm không rời,
hồi lâu liền ngã xỉu ra đất.
Hương
vị của máu thịt tươi ở nơi thân thể của Thái tử xông
lên cả mười phương, các loài ruồi nhặng ngửi thấy,
liền bau lại, đậu khắp cả trên thân thể, để ăn hút,
đau đớn nhức nhối, không thể nào nói cho xiết được.
Bấy
giờ, Thái tử thấy còn có chút ít thịt dư ở nơi thân
mạng chưa hết, liền lập thệ nguyện rằng:
-Nguyện
đời trước có điều gì oán ác, từ đây sẽ trừ sạch hết,
và từ ngày nay trở đi, sẽ không dám làm nữa. Nay
tôi đem thân này để cúng dàng cha mẹ tôi, nguyện cha
mẹ tôi, thường được mười một điều phúc đức:
1. Khi
ngủ được an vui
2. Khi
thức cũng được an vui
3.
Không thấy ác mộng
4. Chư
Thiên thường ủng hộ
5. Mọi
người đều ái kính
6.
Không gặp phải những sự kiện tụng, huyện quan.
7.
Không bị trộm cắp
8.
Không bị giặc dã
9.
Không bị mưu hại
10.
Không bị tiêu diệt
11. Gặp
việc gì, cũng đều được tốt lành.
Và còn
bao nhiêu những máu thịt còn sót lại ở nơi thân thể
này, xin đem bố thí cho các loài ruồi muỗi v.v… đều
khiến cho được no đủ, khiến cho tôi đời sau được
thành Phật, khi được thành Phật rồi sẽ đem thức ăn
bằng giáo pháp, trừ trọng bệnh sinh tử đói khát cho
tất cả chúng sinh.
Khi
Thái tử Tu Xà Đề phát nguyện như thế rồi, trời đất
bỗng phát khởi sáu thứ rung động, mặt trời ẩn mất cả
tinh quang, các loài cầm thú, sợ hãi ruổi chạy tản
mác khắp bốn phương, nước ở đại hải nổi sóng dữ dội,
núi Tu Di khuynh đảo, dao động, mãi đến cõi trời Đao
Lợi, cũng đều rung chuyển mạnh mẽ.
Bấy giờ
Vua Thích Đề Hoàn Nhân, liền đem chư Thiên ở dục
giới, đi xuống cõi Diêm Phù Đề, hóa làm những loài
sư tử, hổ lang, trợn mắt, dậm chân, gào rống, chờn
vờn nhảy nhót, như muốn lại vồ bắt để ăn thịt, thử
xem Thái tử có sợ hãi thoái tâm hay không?
Bấy
giờ, Thái tử Tu Xà Đề, coi thấy các loài cầm thú, có
vẻ ra oai dữ tợn lắm, Thái tử mới dùng lời nhỏ nhẹ
bảo rằng:
-Nếu
các người muốn ăn thịt ta, thì tùy ý mà ăn, chớ sao
lại làm cho ta phải sợ hãi như thế?
Bấy giờ
Vua Thiên Đế Thích mới nói rằng:
-Ta
không phải sư tử, hổ lang đâu, mà là Thiên Đế Thích
muốn lại đây để thử ngươi vậy!
Bấy
giờ, Thái tử thấy Thiên Đế Thích, thì trong lòng rất
vui mừng.
Thiên
Đế Thích mới hỏi Thái tử rằng:
-Nhà
ngươi hay bỏ được những việc khó bỏ. Ngươi ngày nay
đen cả thân thể xương thịt để cúng dàng cha mẹ, có
những công đức như vậy, để nguyện sinh làm Thiên ma
vương, Phạm vương, Thiên vương, Nhân vương, hay
Chuyển luân thánh vương?
Tu Xà
Đề trả lời với Thiên Đế Thích rằng:
-Tôi
ngày nay cũng chẳng nguyện sinh làm Thiên ma vương,
Phạm vương, Thiên vương, Nhân vương, hay Chuyển luân
thánh vương, mà tôi chỉ muốn cầu đạo Vô Thượng Bồ
Đề, để độ thoát cho tất cả chúng sinh mà thôi.
Thiên
Đế Thích nói rằng:
-Ngươi
thật là đại ngu, đạo Vô Thượng Chính đẳng Chính
giác, phải chịu cần khổ rất lâu, rồi sau mới thành,
ngươi nay làm sao lại có thể chịu đựng được những sự
cần khổ ấy?
Tu Xà
Đề trả lời Thiên Đế Thích rằng:
-Giả sử
vòng sắt nung đỏ để ở trên đâu, nhưng trọn sẽ không
vì những sự ấy, để cho thoái đạo Vô Thượng. Thiên
Đế Thích nói rằng:
-Ngươi
chỉ nói suông thì làm sao mà có thể tin chắc được?
Tu Xà
Đề liền lập thệ nguyện:
-Nếu
tôi nói dối Thiên Đế Thích, thì thân thể của tôi sẽ
mãi mãi bị chia lìa, còn không như vậy, thì nguyện
sẽ được bình phục như cũ, máu huyết trở lại trắng
thành sữa.
Thái tử
phát nguyện vừa dứt lời, tức thì thân thể bỗng bình
phục như cũ, máu huyết lại trở lại trắng thành như
sữa, hình dung thân thể đẹp đẽ gấp bội lúc trước.
Bấy giờ
Thiên Đế Thích liền khen ngợi rằng:
-Quí
hóa thay! Quí hóa thay! Ta nay không thể bì kịp
ngươi, ngươi tinh tiến dũng mãnh không bao lâu sẽ
chứng đạo Vô Thượng Chính đẳng Chính giác, nguyện độ
cho ta trước.
Bấy giờ
Thiên Đế Thích, ở trên hư không, liền ẩn chẳng hiện.
Lúc ấy
Vua và phu nhân đi tới được nước láng giềng. Khi
đó, Quốc Vương ở nước kia, liền ra rất xa để nghênh
tiếp, cung cấu đầy đủ các thứ cần dùng xứng ý.
Bấy giờ
Đại Vương mới thuật rõ với vị Quốc Vương kia tất cả
sự tình như trước: Nào là con tôi rất hiếu dưỡng,
đem cắt cả thịt ở nơi thân thể để cúng dàng cho cha
mẹ v.v...
Bấy giờ
vị Quốc Vương ở nước láng giềng kia, nghe nói như
vậy rồi, rất lấy làm cảm mến Thái tử Tu Xà Đề: Hay
bỏ được những việc khó bỏ, đem thân thể, huyết nhục
cúng dàng cha mẹ, hiếu dưỡng như thế thực là hiếm
có!
Vì cảm
mến những đức hạnh từ hiếu như vậy, mà Quốc Vương
kia, tức thì phát khởi bốn đạo binh trở về cùng với
Đại Vương để diệt trừ kẻ phản nghịch đại thần La Hầu
gian ác.
Bấy
giờ, Đại Vương liền đem bốn binh, thuận đường trở
về, đồng thời, Vua La Xà cùng với Phu nhân tìm đến
chỗ Thái tử Tu Xà Đề, nơi mà trước đây cha con đã từ
biệt nhau, với một ý nghĩ: Con ta đàng nào cũng đã
chết rồi, nay ta sẽ thu nhặt hài cốt của con, đem
trở về bản quốc. Vì lòng thương con quá, nên vừa
dõi theo đường lối tìm kiếm, vừa gào khóc rất thảm
thiết.
Nhưng
bỗng xa trông thấy con, thân thể vẫn bình phục như
trước, lại có phần đoan chính đẹp đẽ gấp bội thường,
liền đến trước, bồng ẵm lấy con, trong lòng vừa
thương vừa mừng, hỏi Thái tử rằng:
-Con!
Con vẫn còn sống!
Bấy giờ
Thái tử Tu Xà Đề liền đem tất cả sự tình như trên kể
cho cha mẹ nghe.
Cha mẹ
rất vui mừng, rồi cùng nhau dùng voi đài tải, trở về
bản quốc.
Vì Thái
tử Tu Xà Đề có phúc đức rất lớn, nên đánh lấy lại
được nước, và lập Thái tử lên làm Vua.
Bấy giờ
Phật bảo Tôn giả A Nan:
-Phụ
Vương lúc bấy giờ, hiện nay là cha ta, Duyệt Đầu Đàn,
phu nhân lúc bấy giờ, hiện nay là mẹ ta, Ma Da phu
nhân; còn Thái tử Tu Xà Đề, nay chính là ta, Thích
Ca Mâu Ni Như Lai; còn Thiên Đế Thích lúc bấy giờ,
nay là ông Kiều Trần Như này vậy.
Khi
Phật nói về sự hiếu dưỡng cha mẹ ấy, trong chúng có
hai mươi ức Bồ Tát, đều chứng được biện tài vô ngại,
lợi ích tất cả. Lại có mười hai vạn Bồ Tát, đều
chứng được biện tài vô ngại, lợi ích tất cả. Lại có
mười hai vạn Bồ Tát, đều chứng được vô sinh pháp
nhẫn. Lại có các vị Bồ Tát nhiều như những hạt vi
trần ở khắp mười phương tới, đều chúng được Đà la ni
môn. Lại có các vị Thanh Văn, Duyên Giác nhiều như
số cát sông Hằng, Như vi trần lìa bỏ tâm Nhị thừa,
hướng về Nhất thừa cứu kính. Lại có các Ưu Bà Tắc,
Ưu Bà Di, nhiều như số vi trần, hoặc chứng được sơ
quả, cho đến nhị quả. Lại có trăm nghìn người phát
tâm Vô Thượng Chính đẳng Chính giác. Lại có các chư
Thiên, Long, Quỷ thần. Càn thát bà, A tu la, Ca lâu
la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhân và Phi nhân,
hoặc phát tâm Bồ Đề, cho đến phát tâm Thanh Văn,
Bích Chi Phật.
Phật
bảo Tôn giả A Nan:
-Bồ Tát
vì tất cả chúng sinh làm những khổ hạnh khó làm,
hiếu dưỡng phụ mẫu, đem thân thể huyết nhục, cung
cấp cho cha mẹ, việc đó như thế.
Tất cả
đại chúng, nghe Phật nói pháp, đều được những sự ích
lợi thù thắng, vui mừng làm lễ Phật, rồi quanh về
phía bên phải mà lui trở ra
(Trích KINH
ĐẠI PHƯƠNG TIỆN PHẬT BÁO ÂN - QUYỂN
THỨ NHẤT - PHẨM
HIẾU DƯỠNG THỨ HAI)
0 Kommentare:
Post a Comment