Cho nên ngày nay chúng ta
thường đốt pháo cúng giao thừa là từ phong tục ấy. Từ khi đón giao thừa
xong là chính thức bắt đầu năm mới, có năm ngày tết, từ ngày mồng một
đến ngày mồng năm. Ngày mồng một có những công việc như sau: Phong tục
Bái Niên: Đầu năm mọi người đi thăm viếng lẫn nhau, chúc nhau những câu
tốt lành ngày đầu năm...
Thích Đức Trí
Hình ảnh “Xuân Di Lặc” xuất hiện trong tín ngưỡng Phật giáo
khoảng từ đầu thế kỷ thứ mười Tây Lịch. Theo “Tống Cao Tăng Truyện” ngày
Một tháng Giêng là ngày đản sanh của Bố Đại Hòa Thượng (Hóa thân Bồ Tát
Di Lặc). Bố Đại Hòa Thượng viên tịch năm 916 (TL). Về sau, hằng năm tín
đồ Phật giáo đón xuân cổ truyền và cùng làm lễ kỉ niệm ngày đản sanh
của hóa thân Bồ Tát Di Lặc. Xuất phát từ tín ngưỡng đó mà hình thành ý
nghĩa và nội dung đón mừng Xuân Di Lặc.
XUÂN DI LẶC TRONG XUÂN CỔ TRUYỀN
1- Lời đầu
Từ khi Phật giáo hòa nhập vào văn hóa nhân loại thì bắt đầu ý nghĩa
đón xuân cổ truyền được mở rộng thành ý nghĩa đón Xuân Di Lặc. Từ đó,
đón xuân trong quan niệm người Đông Á mang đậm bản sắc văn hóa Phật giáo
và văn hóa nhân loại. Chúng ta vận dụng tính nhân bản đạo đức Phật giáo
làm tô đẹp ý nghĩa mùa xuân cổ truyền và chuyển hóa những tập quán tiêu
cực để quần chúng có thêm chánh kiến trong sinh hoạt đón xuân hằng năm.
2- Xuân cổ truyền
Căn cứ lịch sử thì truyền thống Tết Nguyên Đán đã trải qua trên bốn
ngàn năm trong đời sống người dân Việt Nam, Trung Quốc và một vài dân
tộc khác thuộc Châu Á. Ngày tết bắt đầu từ ngày đầu tháng Giêng âm lịch,
còn gọi Xuân Tiết, Tân Xuân. Việt nam chúng ta bị Trung Quốc đô hộ hơn
ngàn năm. Quá trình đó trãi qua nhiều thời đại văn hóa Việt Nam ảnh
hưởng và pha trộn văn hóa Trung Quốc, từ ngôn ngữ cho đến phong tục đời
sống con người. Nhưng khi Phật giáo Việt Nam phát triển cùng ý thức tự
chủ dân tộc, người Việt dần dần thiết lập bản sắc văn hóa, biết gạn đục
khơi trong để phát huy văn hóa của dân tộc. Nhưng đối phong tục tết
trong nhân gian vẫn động lại những nét văn hóa Trung quốc. Có những
phong tục nhân bản, nhưng cũng có những tập quán tiêu cực mê tín lưu dấu
trong văn hóa đón xuân hằng năm trong lòng quần chúng.
Trong tín ngưỡng dân gian của người Trung Quốc và Việt nam, ngày 23
tháng 12 âm lịch, gọi là ngày Tế Táo. Tế là cúng, Táo là cái bếp lò, là
cúng ông thần bếp trong nhà. Cho nên trong nhân gian quan niệm ngày 23
ba là ông thần táo về trời tâu với Ngọc Hoàng chuyện gia đình ở nhân
gian. Qua ngày 24 tháng là ngày Tảo Trần, tảo là quét dọn, trần là bụi
bặm. Cuối năm nhà nhà đều phải dọn dẹp sạch sẽ khang trang để chuẩn bị
đón mừng xuân mới. Vấn đề quét dọn chuẩn bị ngày Tết còn có ẩn ý là
quét sạch những rủi ro tai nạn ra khỏi nhà, để gia đình được bình an.
Hơn nữa, tự thân mọi người phải tắm rữa, cắt tóc, chuẩn bị quần áo mới
đón xuân, ý nghĩa là làm mới hoàn cảnh sống và cả thân tâm. Phong tục
mua hàng hóa cuối năm để chuẩn bị ăn tết, gọi là Biện Niên Hóa. Nhà nhà
đều đi chợ để mua hàng hóa thức ăn, lễ vật cúng ngày tết. Hầu như thời
điểm thích hợp là trước ngày 23 tháng 12 âm lịch. Ngày xưa trong xã hội
nông nghiệp, mọi nhà tự nấu bánh, làm mứt, chuẩn bị hương hoa phẩm vật
cúng tổ tiên ông bà và làm thức ăn thiết đãi bà con họ hàng qua lại thăm
viếng. Vì theo phong tục, sau ngày mồng 5 tết chợ và doanh nghiệp mới
bắt đầu buôn bán trở lại, cho nên phải dự phòng thức ăn và hàng hóa dùng
đủ trong thời gian đó. Lễ cúng tất niên tại nhà gọi là Đại Lạp. Đại là
lớn, lạp là tháng 12, lễ cúng tất niên tổng kết một năm qua thường vào
cuối tháng 12 âm lịch. Nhà nào con cháu đi xa cũng thường về ăn tết với
gia đình, trong nhà ăn chung một bửa cơm đoàn tụ, gọi là Niên Dạ Phạn,
gọi đây là bửa cơm tối cuối năm. Bửa cơm này gửi gắm ước nguyện gia đình
đầm ấm hạnh phúc, con cháu sum vầy.
Phong tục ngày xuân thường treo câu đối đỏ tại cửa nhà, ngôn từ
chuyên chở ý tưởng đạo lý và nguyện vọng tốt đẹp đời sống con người.
Ngày xuân còn có treo vòng hoa tại cửa sổ, hoa biểu trưng cho vẽ đẹp,
thành quả tốt đẹp trong cuộc sống. Bên cạnh đó mọi người thường treo chữ
“Phúc”, ước nguyện mọi phúc lành luôn đến trong nhà. Đặc biệt ngày xưa
chưa có pháo, người ta đốt cây trúc cháy và phát âm thanh trong ngày đầu
năm, tục này gọi là Nhiên Bạo Trúc. Nhiên là đốt, bạo là tiếng nỗ, trúc
là cây tre. Cây tre trong ruột trống khi đốt nỗ ra âm thanh, tạo nên âm
hưởng nhộn nhịp, vui vẽ, tinh thần phấn khởi. Cho nên ngày nay chúng ta
thường đốt pháo cúng giao thừa là từ phong tục ấy. Từ khi đón giao thừa
xong là chính thức bắt đầu năm mới, có năm ngày tết, từ ngày mồng một
đến ngày mồng năm. Ngày mồng một có những công việc như sau: Phong tục
Bái Niên: Đầu năm mọi người đi thăm viếng lẫn nhau, chúc nhau những câu
tốt lành ngày đầu năm. Đây là văn hóa đặc biệt thể hiện ước muốn hạnh
phúc mà mọi người nói lời chân thành với nhau trong ngày đầu năm, phong
tục này gọi là Bái Niên. Từ Bái là ý nghĩa lễ bái, còn có nghĩa là thăm
hỏi và cầu chúc, Niên là năm. Ý là thể hiện lời cầu chúc năm mới được
kiết tường, vạn sự như ý. Ngày nay, nếu ở xa nhau thì mọi người gửi
thiệp chúc tết. Phong tục Xuyên tân y: Ngày xuân mọi người thường mang
quần áo mới, đặc biệt trẻ con được ưu tiên, cha mẹ thường sắm sửa quần
áo, dày dép, mũ nón để đi thăm chơi và chúc tết ông bà. Phong tục này
gọi là Xuyên tân y. Xuyên là mặc, tân là mới, y là áo quần, trang phục.
Tục ngữ có câu: “Người đẹp nhờ lụa, lúa tốt nhờ phân”. Sắc phục thể hiện
nếp sống văn hóa của con người. Trong văn hóa Đông Tây, ngày lễ, ngày
tết, người ta đều mặc áo quần sạch sẽ nghiêm túc đi dự hay đến thăm nhau
là thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau. Phong tục Xuân Hành: Thông thường
ngày mồng một là ngày ra đường lễ bái đền miếu cầu nguyện cho đại lợi,
đại kiết trong năm. Phong tục Khai môn: Khai môn, quan môn: Khai là mở,
quan là đóng. Nghĩa là ngày mồng một là ngày quan trọng, xem thời gian
nào mở cửa hay đóng cửa nhà, cửa ngỏ. Sáng mồng một tết, ai đến nhà
mình trước nhất thì đã đạp đất nhà mình. Người ta quan niệm rằng, người
hiền lành đến thì điều lành đến nhà suốt cả năm! Người xấu đến nhà thì
điều xấu đến nhà suốt cả năm! Phong tục về những điều cấm kị: Ngày mồng
một tết mọi người phải thận trọng nhất mọi hành động, lời nói. Không nói
lời thô bạo, cải vã, hay tranh chấp hơn thua và đánh lộn. Đặc biệt
không nên đem rác bẩn hay đồ ô uế đến nhà, đây là điều tốt vì giúp cho
sạch sẽ vệ sinh cá nhân và và hoàn cảnh sống. Ngày mồng hai tết: Là ngày
mọi người đi cúng lễ Thổ địa, những vị thần linh trong khu vực mình
sinh sống. Ngoài ra cúng tổ tiên ông bà, như cúng tại nhà thờ chi nhánh
trong dòng họ. Trong ngày này, con gái đã lấy chồng thường về nhà thăm
viếng cha mẹ mình và chúc tết. Ngày mồng ba tết: Mọi người thong thả
hơn, ngủ sớm và dậy trể, vì suốt từ đêm giao thừa qua hai ngày sau nữa
có nhiều việc nghi lễ và thăm viếng nên mệt mỏi. Ngày mồng bốn tết: Là
ngày ngủ dậy sớm mà tiếp thần từ trời trở về lại nhân gian và mọi người
cần dậy sớm làm lễ tiếp thần tài. Nếu dậy trể thần Tài ra đi thì cả năm
khó làm ăn! Ngày mồng năm tết: Là ngày kết thúc sinh hoạt thăm viếng và
vui chơi, mọi người lo sửa soạn dọn dẹp sạch sẽ và bắt đầu công việc gia
đình và xã hội như bình thường. Ngoài ra, liên quan vấn đề cúng bái
trong mùa xuân là lễ rằm tháng giêng, còn gọi là tết nguyên tiêu. Nguyên
Tiêu Tiết: Nguyên có nghĩa là đứng đầu, sự khởi đầu. Tiêu là chỉ thời
gian, có nghĩa ban đêm. Tiết là chỉ cho phân định thời gian, khí hậu,
còn có nghĩa là nghi lễ. Nguyên tiêu tiết là lễ cúng ngày rằm tháng
Giêng. Đêm trăng tròn đầu năm này là lễ cúng tế Thái Nhất Thần, vị thần
lớn nhất cai quản các thần trong vũ trụ (Thái Nhất có nghĩa là chủ tể vũ
trụ). Lễ này rất trọng đại, thời Tư Mã Thiên kiến lập lịch pháp đã có
ngày lễ này. Mọi người vui chơi, ăn bánh, đốt đèn, múa lân trong lễ hội
rằm tháng Giêng, ngày nay gọi là lễ Thượng Nguyên.
3- Xuân Di Lặc
Hình ảnh “Xuân Di Lặc” xuất hiện trong tín ngưỡng Phật giáo khoảng
từ đầu thế kỷ thứ mười Tây Lịch. Theo “Tống Cao Tăng Truyện” ngày Một
tháng Giêng là ngày đản sanh của Bố Đại Hòa Thượng (Hóa thân Bồ Tát Di
Lặc). Bố Đại Hòa Thượng viên tịch năm 916 (TL). Về sau, hằng năm tín đồ
Phật giáo đón xuân cổ truyền và cùng làm lễ kỉ niệm ngày đản sanh của
hóa thân Bồ Tát Di Lặc. Xuất phát từ tín ngưỡng đó mà hình thành ý nghĩa
và nội dung đón mừng Xuân Di Lặc.
Theo kinh điển Phật giáo “Kinh Di Lặc Thượng Sanh” và “Kinh Di Lặc
Hạ Sanh” Bồ tát Di Lặc hiện trú tại nội viện cung trời Đâu Suất, theo
bản nguyện thì tương lai sẽ thành Phật tại thế giới chúng ta đang sống.
Thời kỳ này là Bồ tát đang hành đạo để viên mãn bản nguyện độ sanh và
thành tựu quả vị Phật. Trong lịch sử Phật giáo ghi rằng: Bồ Tát Di Lặc
luôn thị hiện trong cõi đời để hành đạo. Di lặc(Maitreya)là cách phiên
âm từ Phạn ngữ, dịch theo nghĩa là Từ Thị. Từ Thị nghĩa chính là tâm từ
bi vô lượng. Theo tinh thần Phật giáo, mọi người luôn tin tưởng vào sự
xuất hiện của Phật Di Lặc trong thế giới này trong tương lai. Phật Di
Lặc là biểu tượng sống động cho tinh thần từ bi, giải thoát, đem lại
niềm hân hoan cho con người, chính vì lý do đó hình ảnh Đức Di Lặc gắn
liền trong ngày xuân cổ truyền của dân tộc và nhân loại.
Hình ảnh Tượng Phật Di Lặc các chùa thuộc Phật giáo Bắc Tông của Việt
Nam và Trung Quốc là hóa thân Phật Di Lặc. Căn cứ vào “Tống Cao Tăng
Truyện” chép rằng: Vị Tăng nhân có tên là Khế Thử là hóa thân của Phật
Di Lặc. Khế thử Hòa Thượng còn gọi là Bố Đại Hòa Thượng là vì ngài
thường mang túi vãi lớn đi vào các thành ấp khất thực. Ngài có tướng mạo
phúc đức, miệng rộng, tai dài, bụng lớn, lòng tràn đầy hoan hỷ của một
bậc xuất trần tự tại. Năm thứ hai Lương Minh Trinh(TL 916), tại chùa
Nhạc Lâm, thuộc huyện Minh Châu tỉnh Triết Giang Trung Quốc, Bố Đại Hòa
Thượng trước khi viên tịch đã để lại bài kệ: “Di Lặc chân Di Lặc, phân
thân thiên bách ức. Thời thời thị thời nhân, thời nhân thường bất
thức”(Đây thật là Di Lặc, thị hiện vô lượng thân, thường vì đời giáo
hóa, người đời thường không biết). Về sau, các tự viện có treo câu đối
tán dương đức hạnh của Bố Đại Hòa Thượng như sau: “Đại đỗ năng dung,
dung thiên hạ nan dung chi sự. Khẩu khai tiện tiếu, tiếu thiên hạ khả
tiếu chi nhân”(Bụng lớn bao dung những sự việc mà thiên hạ khó kham nhẫn
trong đời. Miệng thường cười, cười với người đáng cười trong thiên hạ).
Đây là tinh thần nhập thế với tâm giải thoát tự tại của hóa thân Bồ tát
Di lặc trong đời. Tấm lòng bao dung được mọi chuyện trong thế gian mà
tâm không bị ô nhiễm. Miệng của ngài thường cười với tấm lòng hoan hỷ
và dìu dắt mọi người trở về với đạo lý giác ngộ. Cười đây không phải sự
châm biếm, đó là nụ cười xuất phát từ năng lực tâm từ bi và trí tuệ của
bậc thánh giả. Hình ảnh mùa xuân Di Lặc trở làm cho ngày tết cổ truyền
có ý nghĩa long trọng hơn.
4- Đón xuân theo tín ngưỡng Phật giáo
Sinh hoạt trong tết cổ truyền có nét đẹp trong văn hóa nhân loại,
nhưng cũng có những phong tục mê tín cần khắc phục để cuộc sống có ý
nghĩa hơn. Nét đẹp trong ngày tết cổ truyền là mọi người thăm viếng bà
con họ hàng và người thân để làm tăng thêm giá trị tình cảm và đạo lý
gia đình. Vấn đề cúng bái tưởng niệm Tổ tiên là thể hiện nếp sống ân
nghĩa của con người. Vui xuân với văn hóa ẩm thực và văn hóa thời trang
làm cuộc sống thêm phần hạnh phúc. Đặc biệt nhất là nuôi dưỡng tâm
nguyện cao đẹp của mọi người vào tương lai tươi sáng.
Bên cạnh đó cũng có nhiều tập quán tiêu cực cần phải nhận thức và
chuyển hóa. Như sát sanh hại vật để cúng bái thần linh cầu được tài lợi
trong những ngày đầu năm là ảo tưởng sai lầm. Vấn đề coi bói định ngày
tốt xấu xuất hành và làm ăn làm con người càng mê tín và mất tự chủ cuộc
sống. Vấn đề đốt vàng mã trong các nghi thức cầu cúng gây lãng phí tiền
bạc mà không có lợi ích thiết thực. Có một số người không hiểu đạo lý
đón xuân và xem cả mùa xuân là mùa ăn chơi trác táng và quan niệm rằng:
“Tháng Giêng là tháng ăn chơi, tháng Hai cờ bạc, tháng Ba rượu chè!”.
Những quan niệm sai lầm đó là nét tiêu cực phải loại bỏ! Mùa xuân trong
tín ngưỡng Phật giáo được phổ cập trong các sinh hoạt thiền môn. Phật
giáo khuyên hóa mọi người làm việc thiện và sống có chánh kiến. Như đến
chùa lễ Phật, nghe pháp, tu các hạnh lành để vun bồi phúc đức và trí
tuệ. Nhà Phật khuyên mọi người tin sâu nhân quả, như muốn giàu sang phải
tu hạnh bố thí, muốn khỏe mạnh phải có tâm từ bi không giết hại sanh
linh. Muốn cho gia đạo bình an phải biết tu tập mười điều thiện. Muốn có
trí tuệ phải học theo lời Phật dạy.
Khi đón giao thừa, tụng kinh tán thán phẩm hạnh Phật và Bồ tát, đặc
biệt là Bồ Tát Di lặc. Thay vì tổ chức cúng thần linh trong rằm tháng
giêng, thì khuyên mọi người đi chùa tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để
thân tâm an lạc, tai nạn tiêu trừ. Tụng kinh để hiểu rõ nhân quả, hiểu
rõ nguyện lực của Phật và Bồ tát. Thực hành Văn, Tư, Tu trong đời sống
hằng ngày. Văn là nghe lời Phật dạy, tư là suy nghĩ, chiêm nghiệm lời
dạy đó, tu là thực hành Phật pháp vào đời sống một cách có chánh kiến.
5- Lời kết
Thông qua lễ tết cổ truyền, chúng ta phát huy nét đẹp Phật giáo trong
đời sống văn hóa con người. Đạo Phật đi vào đời là từ nhu cầu và lợi
ích cho con người mà mở bày phương pháp tu tập. Tu là sự chuyển hóa từ
mê tín thành chánh tín, chuyển hóa tinh thần cầu thần ban phước thành
lời phát nguyện trọn đời tin sâu nhân quả, làm việc lành để xây dựng
cuộc đời hạnh phúc. Trong thế giới ngày nay nhiều cảnh đau thương và thù
hận, chỉ có đạo lý từ bi, hỷ xả mới hướng con người sống đời an lạc,
hòa bình. Cho nên hình Phật Di Lặc trong mùa xuân là thông điệp từ bi và
giải thoát đến với con người trong mọi thời đại. Tinh thần đón mừng
xuân Di Lặc là nét đặc sắc chuyển tải giá trị đạo đức Phật giáo thông
qua các sự kiện lễ hội trong nhân gian. Đó thể hiện tinh thần nhập thế
của Đạo Phật vào các sinh hoạt văn hóa con người và nhân loại./.
0 Kommentare:
Post a Comment