Chưa
tới thế giới Cực Lạc, ta cứ thâm nhập
một môn. Ta nhờ vào một môn để ổn thỏa,
thích đáng giữ lấy thế giới Cực Lạc; sau
khi thân cận A Di Đà Phật mới bèn học rộng
nghe nhiều.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
Phần 6
Chủ giảng:
Lão pháp sư Tịnh Không
Thời gian: Ngày
5 tháng 04 năm 2010
Địa
điểm: Hương Cảng Phật Đà Giáo Dục
Hiệp Hội
Chuyển ngữ:
Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
Giảo chánh:
Đức Phong, Trịnh Lộc và Huệ Trang
TẬP 12
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin ngồi
xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh
Giải, trang mười hai, dòng thứ nhất. “Ất, tam căn phổ bị,
thánh phàm tề thâu” (tiểu đoạn thứ hai là
thích hợp khắp ba căn, thâu gồm thánh lẫn phàm).
Chúng ta xem đoạn này, đây là đoạn thứ hai của
phần Giáo Khởi Nhân Duyên.
“Phù
chúng sanh căn khí thiên sai vạn biệt, Thế Tôn cố thuyết
bát vạn tứ thiên pháp môn quảng ứng quần cơ”
(Chúng sanh căn khí ngàn muôn sai khác; do vậy, đức Thế
Tôn nói tám vạn bốn ngàn pháp môn để thích ứng rộng
rãi các căn cơ). Vừa mở đầu đã bảo chúng
ta: Đức Phật thuyết pháp chẳng lìa Nhị
Đế: Chân Đế là cảnh giới đức Phật
đích thân chứng đắc, Tục Đế là do
căn tánh của chúng sanh trong mười pháp giới khác
nhau. Do vậy, Chân Đế là Nhất Phật thừa, Tục
Đế có tám vạn bốn ngàn pháp môn. “Tám vạn bốn ngàn” cũng chẳng phải là một
con số cố định, mà để hình dung rất nhiều,
vô lượng vô biên pháp môn nhằm thích ứng các thứ
căn cơ sai khác trong thế gian. “Hoa Nghiêm Viên Giáo, chuyên tiếp thượng thượng
căn nhân” (Hoa Nghiêm là Viên Giáo, chuyên tiếp độ bậc
thượng thượng căn): Bộ kinh Hoa Nghiêm giảng
thật nhiều, thích ứng với căn cơ của
chúng sanh, chứ không phải là chẳng hề thích ứng.
Tuy ứng theo căn cơ để thuyết pháp, nhưng
[kinh ấy] vẫn quy về tự tánh y như cũ. Vì thế,
đối tượng giáo học của kinh ấy là bậc
thượng thượng căn. Chúng ta cũng biết bộ
kinh ấy do Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng đầu
tiên sau khi kiến tánh, giảng trong Định; vì thế,
người Tiểu Thừa chẳng thừa nhận.
Người Tiểu Thừa chỉ thừa nhận Tứ
A Hàm[7] giảng ở Lộc
Dã Uyển (Mrigadava, Sārnātha), chứ [đức Phật
giảng trong] Định đâu có ai thấy! Trong Định
giảng cho ai? Cho bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ, các vị ấy là thính chúng,
cũng là từ Sơ Trụ trở lên như trong kinh Hoa
Nghiêm đã nói: Thập Trụ Bồ Tát, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, giảng
cho bốn mươi mốt địa vị, họ đều
là Phật, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Do vậy,
đức Thế Tôn và chư Phật Như Lai đã nêu ra
báo cáo. Giống như vào đời Đường, Lục
Tổ Huệ Năng sau khi khai ngộ, đã hướng về
hòa thượng Ngũ Tổ Nhẫn thưa bày, Ngài
thưa trình rất đơn giản, chỉ có năm câu,
còn Thích Ca Mâu Ni Phật báo cáo rất tỉ mỉ, nhưng cảnh
giới hoàn toàn bình đẳng, chẳng có cao thấp.
Cảnh giới khai ngộ của
Thích Ca và cảnh giới khai ngộ của Lục Tổ
như nhau, sau khi khai ngộ, thật sự thích ứng rộng
rãi mọi căn cơ, nên dùng thân gì để độ
bèn hiện thân ấy. Phật Thích Ca ở Ấn Độ,
căn tánh nơi ấy là căn tánh Phật, cho nên phải
dùng thân Phật hòng [làm cho kẻ hữu duyên] đắc
độ, Thích Ca Mâu Ni Phật bèn hiện thân Phật. Huệ
Năng đại sư tại Trung Quốc, đối
tượng thuyết pháp tại Trung Quốc thuở ấy
là tỳ-kheo, đáng nên dùng thân tỳ-kheo để độ,
liền hiện thân tỳ-kheo mà thuyết pháp. Nói theo ba
mươi hai ứng thân[8] của Quán Thế
Âm Bồ Tát, bất luận hiện thân gì cũng đều
bình đẳng. Ngài là một vị Phật thật sự,
chẳng phải là Phật giả. Đối tượng
tiếp dẫn [của Lục Tổ] là bậc thượng
thượng căn, [thính chúng nếu] chẳng phải là bậc
thượng thượng căn sẽ chẳng có phần.
Từ Đàn Kinh chúng ta thấy: Huệ Năng đại
sư trong một đời độ được bao
nhiêu người? Bốn mươi ba người. Cũng
có nghĩa là trong hội của Ngài, bốn mươi ba người
đại triệt đại ngộ, có cảnh giới
bình đẳng với Ngài. Đây là chuyện không tiền tuyệt
hậu trong lịch sử Trung Quốc, trước Lục
Tổ không có tình huống hưng thịnh như thế, mà
sau Lục Tổ cũng chẳng thấy tình huống
hưng thịnh ấy. Từ nay về sau, pháp vận của
Thích Ca Mâu Ni Phật hãy còn chín ngàn năm nữa, có chuyện
như vậy trong thời kỳ Mạt Pháp hay không? Không có!
Trước kia, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ bảo
tôi: Từ nay về sau, trong Thiền Tông chẳng còn bậc
đại triệt đại ngộ, không còn có người
căn tánh như thế! Trong Mật Tông, “tam mật tương ứng, tức thân thành Phật”
cũng không có, chỉ có niệm Phật vãng sanh, thân cận
A Di Đà Phật là hạng người đắc độ.
Chỉ có pháp môn này thích hợp khắp ba căn, gồm
thâu phàm lẫn thánh, mãi cho đến khi Phật pháp trong thế
gian này bị tiêu diệt, cũng có nghĩa là nói [cho tới]
khi pháp vận một vạn hai ngàn năm của đức
Thế Tôn chấm dứt, pháp môn này luôn luôn hữu hiệu.
Nói cách khác, từ nay về sau, chúng ta có thể đắc
độ chỉ do một môn này; trừ một môn này ra,
đúng là khó lắm, thật sự chẳng dễ dàng!
Trong hội Hoa Nghiêm, “trí huệ như Xá Lợi Phất,
thần thông như Mục Kiền Liên, ư Phật Thanh
Văn đệ tử trung quân xưng đệ nhất”
(trí huệ như Xá Lợi Phất, thần thông như Mục
Kiền Liên, trong các đệ tử Thanh Văn của
đức Phật, các Ngài đều được gọi
là bậc nhất). Ngài Xá Lợi Phất là trí huệ đệ
nhất, ngài Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất.
“Đản tại Hoa Nghiêm hội
thượng, như manh, như lung, huống thị hạ
ư thử giả, cố vân hạ căn tuyệt phần”
(nhưng trong hội Hoa Nghiêm, các Ngài đều như mù,
như điếc, huống hồ những kẻ kém
hơn các Ngài. Vì thế, nói: “Kẻ hạ căn trọn chẳng
có phần”). Như hai vị này, trí huệ, thần thông
đều là đệ nhất, nhưng trong hội Hoa
Nghiêm, các Ngài nghe không hiểu, mà cũng chẳng thấy.
Phàm là người tham gia pháp hội Hoa Nghiêm, từ kinh
điển chúng ta thấy, ngoài hàng Bồ Tát ra, có Thanh
Văn hay không? Có chứ! Cũng có Duyên Giác, còn có thiên thần,
thậm chí còn có nhiều vị thần trong thế gian này đều
tham gia. Họ là lục đạo phàm phu, vì sao có thể
tham gia? Ở đây, kinh đã ban cho chúng ta một khải
thị rất lớn, nói rõ nơi này (thế giới Sa Bà)
là cõi Phàm Thánh Đồng Cư; có nhiều phàm phu trên thực
tế là Pháp Thân đại sĩ ứng hóa trong lục
đạo, chẳng phải là phàm phu thật sự. Thần
cây, thần núi, thần sông, địa thần, địa
thần là thổ địa thần, cũng hiện diện
trong hội Hoa Nghiêm, đó là gì? Những vị thần ấy
toàn là Pháp Thân đại sĩ, Pháp Thân Bồ Tát, là bậc thượng
thượng căn thị hiện trong ấy. Do vậy,
có thể biết: Chúng sanh càng có khổ nạn, chư Phật,
Bồ Tát thị hiện trong thế gian này càng nhiều, nhưng
lũ phàm phu mắt thịt chúng ta chẳng nhận biết!
Nếu trong nhân gian không có Phật, Bồ Tát nhiều như
thế, đại địa đã sớm chìm lỉm mất
rồi. Chúng ta nương nhờ phước của các
Ngài, các Ngài đang âm thầm giúp đỡ chúng ta, nhưng
chúng ta không biết. Nếu chúng ta có thể hồi tâm
hướng thiện, y giáo phụng hành, không chỉ chính mình
đắc độ, mà còn có thể giúp đỡ địa
cầu, và cũng có thể giúp hóa giải tai nạn trong xã
hội này. Tuy chưa thể hóa giải hoàn toàn, nhưng tai
nạn giảm khinh, rút ngắn thời gian [tai nạn], khẳng
định sẽ có thể thu được hiệu quả.
Sau khi chúng ta thâm nhập kinh tạng, quý vị sẽ thấy
rõ ràng, minh bạch chuyện này. Ở đây, cụ Niệm
Tổ cho chúng ta biết: Nếu chẳng giống như Mục
Kiền Liên hay Xá Lợi Phất, đương nhiên trọn
chẳng có phần nơi pháp môn [Hoa Nghiêm] này.
“Chí
ư Tiểu Thỉ chư giáo, nãi tiếp quyền tiểu
chi cơ” (Còn như các giáo pháp Tiểu Giáo và Thỉ Giáo
nhằm tiếp dẫn căn cơ quyền tiểu). Tiểu,
Thỉ, Chung, Đốn, Viên là Hoa Nghiêm ngũ giáo. So với
cách tổ chức nhà trường thì Tiểu Giáo như Tiểu
Học, Thỉ Giáo là Trung Học. Tiểu Giáo thật sự
là Tiểu Thừa, Thỉ Giáo là khởi đầu của
Đại Thừa, Chung Giáo là Đại Thừa viên mãn. Trong
đây cũng có rất nhiều tầng lớp: Năm
mươi mốt tầng cấp Bồ Tát. Chung Giáo là kết
cục của Đại Thừa, là tầng cao nhất.
Cao hơn nữa là căn tánh đặc biệt, chẳng
phải căn tánh bình thường, mà là đốn căn
hay viên căn. Tiểu, Thỉ, Chung là [các giáo pháp theo
đường lối] thông thường; chúng ta nói là “thượng,
trung, hạ ba thừa”. Vì thế, các giáo pháp Tiểu Giáo và
Thỉ Giáo nhằm tiếp dẫn các căn cơ quyền
tiểu. “Đối ư thượng căn, tắc hữu giáo thiển
cơ thâm chi thất, diệc bất ứng cơ” (đối với thượng căn, sẽ
phạm lỗi giáo pháp nông cạn mà căn cơ sâu xa,
cũng chẳng phù hợp căn cơ): So với thượng
căn, Tiểu Giáo và Thỉ Giáo quá nông cạn, căn khí của
bậc thượng thượng căn quả thật
là căn sâu, tâm lớn, lượng lớn; vì thế, [Tiểu
Giáo và Thỉ Giáo] cũng không ứng hợp căn cơ. Đấy
là nói về kinh Hoa Nghiêm. “Duy bổn
kinh chi trì danh niệm Phật pháp môn, thánh phàm tề thâu, lợi
độn tất bị” (chỉ có pháp môn trì danh Niệm
Phật trong kinh này gồm thâu thánh lẫn phàm, lợi
căn lẫn độn căn đều thích hợp). Đó
là so sánh giữa kinh Vô Lượng Thọ và kinh Hoa Nghiêm, kinh
Vô Lượng Thọ dùng phương pháp trì danh niệm Phật,
dễ hơn!
Kinh
Hoa Nghiêm tu gì? Tu Chỉ Quán. Trước đây, chúng ta từng
học Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, cách
tu trong ấy như thế nào? Ngũ Chỉ Lục Quán[9], Tiểu Giáo và Thỉ
Giáo chẳng thể tiếp nhận! Nói cách khác, những pháp
đó dành cho người thượng thượng căn
học. Họ học Hoa Nghiêm mới thụ dụng
được. Chẳng phải là người có căn
tánh như vậy mà học kinh Hoa Nghiêm thì chỉ là học
văn tự, không thể thụ dụng. Học kinh Hoa
Nghiêm mà thật sự thụ dụng, niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới sẽ chẳng thuộc vào cõi Phàm Thánh,
cũng chẳng thuộc cõi Hữu Dư, trực tiếp
sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm, khác hẳn! Đối với
phương pháp trì danh niệm Phật, bậc thánh nhân
như Văn Thù, Phổ Hiền là thánh nhân, Quán Âm, Thế
Chí là thánh nhân, đại thánh; phàm phu như bà già, ông lão chẳng
biết chữ, nhưng tin tưởng, thật sự hành,
khi lâm chung cũng có thể vãng sanh, [đó là] gồm thâu cả
thánh lẫn phàm. “Lợi căn”
là thượng thượng căn, “độn căn” là trung hạ căn; [đối
với căn cơ nào], pháp môn này cũng đều thích hợp.
Vì thế, trong chín ngàn năm của thời Mạt Pháp, hết
thảy chúng sanh đắc độ phải trông cậy
vào bộ kinh này, nương theo pháp môn này. Thật sự chết
sạch so đo, khăng khăng tu pháp môn này, không một
ai chẳng thành tựu, Thiện Đạo đại
sư bảo: “Vạn người
tu, vạn người về”.
“Triệt
thượng” là nêu ví dụ để nói thì trên là “tắc như Phổ Hiền,
Văn Thù” (như Phổ Hiền, Văn Thù), đây là hai
vị đại Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm. Phông nền
sau lưng chúng tôi là hình Hoa Nghiêm Tam Thánh, chính giữa là Tỳ
Lô Giá Na Như Lai, hai bên là Văn Thù và Phổ Hiền Bồ
Tát. Các đồng học học Phật đều biết:
Văn Thù trí huệ đệ nhất trong hàng Bồ Tát, Phổ
Hiền Bồ Tát là vị tu hành đệ nhất giữa
các Bồ Tát. Một vị là giải môn đệ nhất,
một vị là hạnh môn đệ nhất. Nếu nói
theo cách hiện thời, Phổ Hiền Bồ Tát thật sự
làm, làm thật sự triệt để, thật sự
viên mãn. Vì thế, hễ nói tới tu hành, hết thảy các
vị Bồ Tát đều tôn Phổ Hiền đứng
đầu, không ai chẳng tán thán. Hai vị này “thượng phát nguyện cầu
sanh Cực Lạc” (còn phát nguyện cầu sanh Cực Lạc);
ở đây, sách đã dẫn bài kệ phát nguyện của
các Ngài. Trong quyển thứ ba mươi chín của bộ
Tứ Thập Hoa Nghiêm, “Phổ
Hiền kệ vân: Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời,
tận trừ nhất thiết chư chướng ngại,
diện kiến bỉ Phật A Di Đà, tức đắc
vãng sanh An Lạc sát” (ngài Phổ Hiền có bài kệ rằng:
“Nguyện khi tôi sắp mạng chung, trừ sạch hết
thảy các chướng ngại, gặp mặt đức
Phật A Di Đà, liền được vãng sanh cõi An Lạc”).
“An Lạc sát” là Tây
Phương Tịnh Độ. Bài kệ của ngài Văn
Thù có ý nghĩa hoàn toàn tương đồng. Bài kệ do Văn
Thù Bồ Tát nói [mỗi câu] gồm năm chữ: “Nguyện ngã mạng chung thời,
diệt trừ chư chướng ngại, diện kiến
A Di Đà, vãng sanh An Lạc sát” (Nguyện khi tôi mạng
chung, diệt trừ các chướng ngại, gặp mặt
A Di Đà, vãng sanh cõi An Lạc). Trong phần trước,
tôi đã từng thưa bày cùng quý vị, tôi tiếp nhận
pháp môn Tịnh Độ, chết sạch so đo, một mực
niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ là do
đọc hai bài kệ này!
Chuyện này đã xưa lắm
rồi. Thuở trước, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, có lúc
nọ, nghĩ Văn Thù và Phổ Hiền tu pháp môn gì? Thiện
Tài đồng tử tu pháp môn gì? Bèn tra duyệt kinh về
chuyện này, mới biết Văn Thù và Phổ Hiền niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thiện Tài là môn sinh
đắc ý, là đệ tử truyền pháp của Văn
Thù, làm sao có thể khác thầy cho được? Chẳng
thể nào có chuyện ấy! Xem kỹ năm mươi ba
lần tham học, khi ấy năm mươi ba lần
tham học đã giảng được phân nửa, một
mực giảng theo kiểu nuốt trộng quả táo,
người ta hỏi tôi Thiện Tài đồng tử học
gì, tôi đáp không được. Tôi nghĩ dường như
môn nào Ngài cũng đều học. Ngài là một bậc
đại thông gia, học rộng nghe nhiều, thật ra,
chẳng phải vậy! Quay trở lại, đọc cẩn
thận lần nữa, [mới biết] Thiện Tài đồng
tử tu trì danh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
giống như thầy Ngài. Nói như bây giờ, Ngài đã
tốt nghiệp từ giảng tòa của thầy, tốt
nghiệp là gì? Đắc Căn Bản Trí sẽ gọi là
tốt nghiệp. Căn Bản Trí là gì? Thiền Tông gọi
nó là “đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh”. Khi ấy, địa vị
của Ngài là Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo [như
trong] kinh Hoa Nghiêm [đã dạy], Ngài chứng đến
địa vị này. Thầy nói: “Được rồi, ngươi
chẳng cần phải trụ tại đây nữa, hãy
đi ra ngoài tham học”. Cũng có nghĩa là trong hội
Văn Thù, Ngài đã làm được chuyện này. Hai nguyện
đầu trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ” là đại Bồ Đề tâm, Ngài đã
phát, đó là Đại Thừa, đã phát đại Bồ
Đề tâm. “Phiền não vô tận
thệ nguyện đoạn”, Ngài đã đoạn, đoạn
hết Kiến Tư phiền não, đã đoạn Trần
Sa phiền não, đã đoạn Vô Minh phiền não, đã thực
hiện viên mãn hai điều này. Sau khi viên mãn, bèn làm như
thế nào? Nguyện thứ ba: “Pháp
môn vô lượng thệ nguyện học”. Năm
mươi ba lần tham học chính là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”.
Bản thân Ngài học pháp môn gì?
Chính Ngài học Tịnh Độ. Thông tin này do đâu mà có?
Nhìn vào năm mươi ba lần tham học của Ngài,
quý vị thấy vị thiện tri thức thứ nhất
là Sơ Trụ Bồ Tát. Nếu chính Ngài chưa chứng
đắc Sơ Trụ, sẽ chẳng thể tham học
với bậc Sơ Trụ. Thầy Ngài giới thiệu:
“Ngươi hãy đến tham học với tỳ-kheo Cát
Tường Vân, ngươi hướng về Ngài thỉnh
giáo”. Tỳ-kheo Cát Tường Vân tu Ban Châu tam-muội, còn gọi
là Phật Lập tam-muội, cũng là pháp tu hành thù thắng
bậc nhất trong Tịnh Độ. Mỗi kỳ tu học
trong pháp môn này là chín mươi ngày, trong chín mươi ngày
chớ nên ngủ nghỉ, chẳng được ngồi,
chỉ được phép đứng hay đi, cho nên gọi
là Phật Lập tam-muội, chuyên niệm A Di Đà Phật
cầu sanh thế giới Cực Lạc. Mỗi kỳ là
chín mươi ngày, thân chẳng khỏe mạnh sẽ không
thể tu được. Tuổi tác đã cao sẽ chẳng
có cách nào tu pháp môn này; nói chung phải là người tuổi
trẻ, có thể lực. Khá ư là khó khăn! Ngài thân cận
tỳ-kheo Cát Tường Vân; tỳ-kheo Cát Tường Vân khai
thị, giảng giải hai mươi mốt pháp môn Niệm
Phật. “Hai mươi mốt”
chẳng phải là con số, mà là viên mãn, đại viên
mãn, Mật Tông nói như vậy. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm, Hiển
lẫn Mật thảy đều có; Hiển, Mật, Tông, Giáo thảy đều
được gộp trong ấy. Hai mươi mốt loại
pháp môn Niệm Phật ấy nếu triển khai sẽ là
vô lượng pháp môn do mười phương ba đời
hết thảy chư Phật Như Lai đã nói. Có pháp môn
nào chẳng phải là Niệm Phật? Môn nào cũng đều
là! Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhất
tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất”
(một chính là hết thảy, hết thảy chính là một),
mới biết pháp môn Niệm Phật thù thắng. Quý vị
thấy vừa mở đầu đã nói với quý vị
điều này. Trung Quốc lẫn Ấn Độ đều
có khái niệm giống như thế, gọi là “tiên nhập vi chủ” (môn gì
được tiếp xúc đầu tiên sẽ là chủ yếu).
Đầu tiên là học pháp môn Niệm Phật. Chúng ta lại
nhìn tới vị cuối cùng, tức vị thứ năm
mươi ba, vị thiện tri thức thứ năm
mươi ba là Phổ Hiền Bồ Tát, càng nói rõ rệt
hơn: Mười đại nguyện vương dẫn
về Cực Lạc. Quý vị thấy Thiện Tài [tham học
với các thiện tri thức], một vị đầu
tiên, một vị cuối cùng, từ đầu đến
cuối là một môn, thâm nhập một môn. Vì sao phải
đi tham học? Tham học nhằm thành tựu Hậu
Đắc Trí. Vì sao? Nếu quý vị hành Bồ Tát đạo,
phải rộng độ chúng sanh. Căn tánh của
chúng sanh thiên sai vạn biệt, pháp môn gì quý vị đều
biết, chẳng thể không biết, thì quý vị mới có
thể độ hết thảy chúng sanh. Vì thế, tham học
nhằm để tiếp dẫn chúng sanh có căn tánh bất
đồng, chẳng phải vì chính mình! Vì chính mình thì một
câu A Di Đà Phật bèn minh tâm kiến tánh, đã thành Phật
rồi. Biểu diễn cho chúng ta xem mà!
Do vậy, trong quá khứ, khi giảng
học, tôi thường khuyên lơn, khích lệ các đồng
học, đối với Tứ Hoằng Thệ Nguyện,
trong thế gian này chúng ta chỉ học hai nguyện đầu,
hai nguyện sau chúng ta chưa làm được. Chúng ta chỉ
học hai nguyện trước, hai nguyện sau đến
thế giới Cực Lạc mới viên mãn, đến thế
giới Cực Lạc học rộng nghe nhiều. Chưa
tới thế giới Cực Lạc, ta cứ thâm nhập
một môn. Ta nhờ vào một môn để ổn thỏa,
thích đáng giữ lấy thế giới Cực Lạc; sau
khi thân cận A Di Đà Phật mới bèn học rộng
nghe nhiều. Hiện thời đừng nên làm [như vậy];
nếu trong hiện tại mà học rộng nghe nhiều, quý
vị sẽ tự khiến chính mình bị lỡ làng! Nếu
quý vị phân tâm, tinh thần, tinh lực, và thời gian sẽ
chẳng đủ dùng. Điều thứ hai là quý vị
đã bị phân tâm, chẳng thể tập trung tinh thần,
ý chí; nói cách khác, một môn vẫn chưa học tốt
đẹp, đáng tiếc lắm! Chẳng thà trong một
đời này, chúng ta thâm nhập một môn, trường
thời huân tu, chính mình quyết định có thành tựu,
đến thế giới Cực Lạc rồi mới học
rộng nghe nhiều, ổn thỏa, thích đáng,
phương pháp này tốt đẹp lắm! Hãy học
theo Liên Trì đại sư, Ngài đã nói hai câu rất tuyệt
diệu: “Tam Tạng thập nhị
bộ, nhượng cấp biệt nhân ngộ” (Tam Tạng
mười hai bộ loại, nhường cho người
khác ngộ). Ta không làm, nhường cho người khác làm.
“Bát vạn tứ thiên môn, diệc
nhượng cấp biệt nhân hành” (tám vạn bốn
ngàn pháp môn cũng dành cho người khác hành), chính chúng ta chỉ
đi theo một con đường. Trong một đời
này, chỉ theo một con đường, một
phương hướng, một mục tiêu, chết sạch
so đo, khăng khăng chấp trì danh hiệu, cầu
sanh Tịnh Độ; đấy là đúng, sẽ thành
công. Cần gì phải chuốc lấy lắm nỗi phiền
phức như thế? Khiến cho cái tâm được
định, tự tư, tự lợi, tiếng tăm, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn
thảy đều buông xuống. Phải biết những
thứ ấy chướng đạo; không chỉ chướng
ngại quý vị chứng quả, mà còn chướng ngại
quý vị khai ngộ, cũng như chướng ngại
quý vị vãng sanh. Không buông những thứ ấy xuống,
quý vị sẽ bị thiệt thòi to lớn. Chúng ta học
Phật, nếu muốn thành tựu trong một đời
này, quyết định phải biết điều này. Phải
học theo Văn Thù, học theo Phổ Hiền, quý vị thấy
những vị Bồ Tát này: Văn Thù Bồ Tát là thầy
của bảy vị Phật, học trò đều thành Phật
cả rồi. Học trò của Địa Tạng Bồ
Tát lão nhân gia thành Phật chẳng thể đếm xiết.
Trong pháp hội tại Đao Lợi thiên cung, chúng ta thấy:
Chư Phật đến từ mười phương đều
là học trò của Ngài. Điều này đã tạo lòng tin
cho chúng ta.
“Hựu
như bổn kinh vân” (lại như kinh này nói), tức
là trong phẩm cuối cùng, trong đoạn kinh văn cuối
cùng của kinh Vô Lượng Thọ đã chép: “Phật cáo Di Lặc, ư thử
thế giới” (đức Phật
bảo ngài Di Lặc: Trong thế giới này), “thế giới này” là thế
giới Sa Bà, chẳng phải là địa cầu, mà là thế
giới Sa Bà, “hữu thất
bách nhị thập ức Bồ Tát, dĩ tằng cúng
dường vô số chư Phật, thực chúng đức
bổn, đương sanh bỉ quốc” (có bảy
trăm hai mươi ức Bồ Tát đã từng cúng
dường vô số chư Phật, gieo các cội đức,
sẽ sanh về nước ấy). Đây là nói về thế
giới Sa Bà, là khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật
trong hiện tại. Hiện thời, trên địa cầu
mới có sáu mươi bảy ức, chưa đến bảy
mươi ức, [chỉ là] sáu mươi bảy ức.
Quý vị thấy [kinh chép] “bảy
trăm hai mươi ức Bồ Tát” thuộc thế
giới Sa Bà, đấy cũng là nói tới lục đạo
và mười pháp giới thuộc khu vực giáo hóa của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Trong khu vực giáo hóa này, trong giai
đoạn pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật, trong
tương lai có bảy trăm hai mươi ức người
niệm Phật vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Chúng ta có thuộc trong số đó hay không? Tùy thuộc
chính mình. Nếu chính mình thật sự tin tưởng, nguyện
thiết tha, sẽ thành công trong một đời này, chẳng
cần đợi đến đời sau, mà thành tựu
ngay trong một đời này. Bồ Tát cúng dường Phật
thành tựu thiện căn, chúng ta phải học theo, chớ
nên phớt lờ lời giáo huấn của đức Thế
Tôn. Các đồng học học Tịnh Độ dùng gì
để cúng dường chư Phật? Chữ “chư Phật” chỉ những
ai? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn đã bảo chúng
ta: “Hết thảy chúng sanh vốn
là Phật”. Quá khứ Phật là những người
đã thành Phật, chẳng có cách nào tính toán con số ấy;
hiện tại Phật là mười phương thế
giới chư Phật, mỗi thế giới có một vị
Phật, thế giới vô lượng vô biên vô tận vô số.
Chúng ta đọc phẩm Thế Giới Thành Tựu và phẩm
Hoa Tạng Thế Giới của kinh Hoa Nghiêm, thấy kinh
nói rất nhiều, rất rõ ràng, đó là hiện tại
Phật; còn vị lai Phật thì sao? Vị lai Phật là hết
thảy chúng sanh. Hết thảy chúng sanh trong tương
lai sẽ đều thành Phật, những loài bay, bò, ngọ
nguậy, ruồi nhặng, kiến đều có thể thành
Phật, chớ nên khinh dễ chúng! Chúng rất thông minh, có
linh tánh, người học Phật phải
xem chúng như Bồ Tát (đều tôn trọng chúng), chúng sẽ
vô cùng hợp tác với chúng ta. Trong mười mấy
năm gần đây nhất, chúng tôi có thể trò chuyện,
trao đổi với các tiểu động vật: Chúng
ta cùng chung sống, chẳng tổn hại lẫn nhau, thật
sự có thể đối xử hòa thuận với nhau, đối
đãi bình đẳng, đấy là cúng dường.
Trong cúng dường, quan trọng
nhất là cúng dường bằng cách y giáo phụng hành,
chúng ta thật sự tu tập, nêu gương cho chúng sanh,
họ thấy, họ cũng nghe, hiểu, chúng ta tu tập,
chúng sanh cũng cùng tu với chúng ta. Ngay cả những loài
tiểu động vật bay, bò, ngọ nguậy cũng
không phải là ngoại lệ, chúng đều có linh tri.
Đứng trên phương diện tâm thức của chúng
ta để nói, chúng nó cũng Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
phải đối xử tốt đẹp với chúng.
Chúng ta gọi chúng nó là Bồ Tát, gọi chúng nó là Bồ Tát
kiến, kiến sẽ rất vui vẻ, bảo: “Con người
rất tôn trọng chúng ta, gọi chúng ta là Bồ Tát”. Chúng
nó có thể hiểu, chứ chẳng phải không hiểu.
Chúng ta làm việc ở nơi đây, chúng nó nhiễu loạn
chúng ta, chúng ta mời chúng nó rời khỏi, đừng trở
ngại chúng ta làm việc, chúng nó bèn bỏ đi, rất
nghe lời. Kiến đều bỏ đi hết, còn có
hai ba con. Cớ sao hai ba con bò tới bò lui trên bàn Phật, vì
sao chúng không đi? Ban đêm có một pháp sư nhỏ tuổi
nằm mộng, được kiến nói cho biết: Chúng
nó đang tuần tra, xem còn có con nào chẳng đi. Kiến
nói chúng nó có nhiệm vụ, hình như bốn con kiến tuần
tra. Vì thế, chúng ta chớ nên trách lầm chúng. Về sau,
chúng tôi đều biết, kiến thảy đều
đi hết, còn có mấy con [ở lại để] tuần tra. Như vậy là các tiểu
động vật có tánh thông linh. Không chỉ động vật,
mà thực vật cũng chẳng phải là ngoại lệ.
Cây cối, hoa, cỏ, chúng ta trồng nhiều rau trong
vườn, chúng đều thông suốt, thông hiểu
tình cảm của con người.
Do vậy, phạm vi của bảy
trăm hai mươi ức Bồ Tát rất rộng,
đó là những kẻ có duyên với Phật, thiện
căn sâu dầy. Thiện căn sâu dầy ấy do đâu
mà có? Do rộng tu cúng dường. Phổ Hiền Bồ
Tát chỉ dạy chúng ta: “Lễ
kính chư Phật, khen ngợi Như Lai, rộng tu cúng
dường, sám trừ nghiệp chướng”, quý vị
thực hiện tốt đẹp bốn khoa này, nghiêm túc
thực hiện, sẽ thành tựu thiện căn, “thực chúng đức bổn”
(gieo trồng các cội đức). Lễ tiết rất
trọng yếu, không thể phớt lờ. Lễ phép với
người khác, người ta sẽ vui vẻ. Người
khác lễ phép đối với ta, ta cũng rất vui vẻ.
Bởi lẽ, con người có cùng một tâm này, tâm cùng một
Lý này. Đầu tiên là “lễ
kính chư Phật”, từ nội tâm phát sanh tâm cung kính,
quan trọng nhất là [cung kính] đối với ai? Đối
với vị lai Phật, tức là đối với hết
thảy chúng sanh, phải có tâm cung kính, chớ nên coi rẻ,
quý vị khinh mạn là trật rồi! Chẳng tôn trọng
người khác là chuyện nhỏ, tổn hại đức
hạnh của chính mình [là chuyện lớn], Tánh Đức
của chính mình chưa thể hiện tiền, sanh ra chướng
ngại. Đó là ngạo mạn, cuồng vọng, tự
đại, gây chướng ngại cho Tánh Đức và thiện
căn của chính mình. Do vậy, đầu tiên, đức
Phật phải dạy chúng ta chuyện này. Nho gia cũng giống
như vậy. Quý vị đọc Lễ Ký, vừa mở
sách ra, mở đầu là: “Khúc
Lễ[10] viết: Vô bất
kính” (Khúc Lễ chép: “Không gì chẳng kính”), có cùng một
ý nghĩa với “lễ kính
chư Phật”. Kinh Mân Côi[11] của đạo
Thiên Chúa là khóa tụng sớm tối của họ, tôi
đã từng giảng [kinh này], đĩa CD/DVD [ghi lời
giảng] của tôi được lưu thông trong đạo
Thiên Chúa. Đoạn thứ nhất [của kinh ấy] nói
về sự khiêm tốn, nhún nhường, Thánh Mẫu Maria
khiêm nhường. Mẹ chúa Jesus đối với hết
thảy mọi người đều khiêm hạ, nhún
nhường, cung kính, Đức Bà đã nêu gương tốt.
Tấm gương của Đức Bà chính là “lễ kính chư Phật, khen ngợi
Như Lai” như trong Phật pháp đã nói, chúng ta phải
học theo Ngài. Cổ thánh tiên hiền của Trung Quốc
dạy chúng ta hãy “ẩn ác,
dương thiện” (ẩn giấu điều ác,
đề cao điều lành). Người khác có chuyện
gì tốt đẹp chúng ta phải tán dương, phải
ca ngợi. Người khác phạm lỗi lầm gì, trọn
chẳng nói tới, quyết định chớ nên ghim trong
lòng; đó gọi là “tu hành, học Phật”. Vì sao? Chúng ta học
Phật rốt cuộc là học gì? Tịnh Độ tu gì
vậy? Tựa đề của kinh đã nêu ra cương
lãnh tu học cho chúng ta: Tu tâm thanh tịnh. Trong tựa đề
của kinh có “thanh tịnh bình
đẳng giác”, đấy là tổng cương lãnh tu
học của Tịnh Tông. Chúng ta thường muốn ghim
khuyết điểm của người khác trong lòng, biến
cái tâm của chính mình thành thùng rác cho người khác, làm sao
quý vị có thể đạt được thanh tịnh?
Nếu quý vị đạt được tâm thanh tịnh
thì tâm thanh tịnh là Sự nhất tâm bất loạn, sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng thuộc
cõi Đồng Cư, mà sanh vào cõi Phương Tiện Hữu
Dư, phẩm vị được nâng cao với một
mức độ to lớn. Nếu quý vị hiểu rõ đạo
lý này, thông hiểu chân tướng sự thật này, có còn
ghim những sai quấy của người khác trong tâm mình nữa
chăng? [Ghi nhớ lỗi lầm của người khác
sẽ] bị thiệt thòi to lớn, tạo thành lỗi lầm
to lớn. Thường nghĩ tới khuyết điểm
của người khác, dẫu quý vị có thể vãng sanh,
chỉ sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, phẩm vị chẳng
cao!
Vì thế, các Tịnh Tông đồng
học chúng ta hiểu rõ rồi, quyết định chẳng
làm chuyện ngốc nghếch. Ai nấy đều biết
ẩn ác dương thiện, kẻ làm ác có lương tri
sẽ nghĩ: “Ta làm ác, người khác đều tha thứ,
cũng không đả động tới ta! Ta làm một tí
chuyện tốt, họ đều tán dương”, từ
từ đánh thức lương tâm của kẻ ấy, hắn
bèn sửa đổi, quý vị đã giúp cho một người
“quay đầu là bờ”. Chúng ta hãy cẩn thận quan sát dụng
tâm của chư Phật, Bồ Tát, sẽ dần dần
hiểu rõ, muốn học tập Phật. Thật ra, đối
với những kẻ làm nhiều chuyện lầm lỗi,
chúng ta gặp họ, dùng tâm thái gì để đối đãi
họ? Nếu dùng tâm thái của Phật, cảnh giới của
chúng ta sẽ được nâng cao. Bởi lẽ, những
người ấy làm lành hay làm ác cũng đều là thiện
tri thức của chúng ta, đều có thể giúp cho chúng
ta tiến bộ hơn. Nho gia nói: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư” (Ba người
cùng đi, ắt có người là thầy ta). Ba người
ấy là ai vậy? Chính mình là một, còn một người
lành, một kẻ ác, hai người ấy đều là thầy
của ta. Ta trông thấy người lành, nghĩ ngợi:
Người ta có thiện hạnh, ta có hay không? Nếu ta
không có, hãy học tập theo người ấy; nếu
đã có thì phải gìn giữ. Kẻ làm ác cũng là thầy
của ta, ta trông thấy, hãy suy nghĩ ta có phạm lỗi
lầm ấy hay chăng. Hễ có, bèn sửa đổi; nếu
không, hãy càng thêm gắng sức. Kẻ làm ác còn có ích cho chúng
ta hơn người làm lành, vì sao? Trong khi tu sám hối,
chư vị sẽ thấy: Ta tìm không được khuyết
điểm của chính mình, dường như chính mình chẳng
có khuyết điểm nào, thấy người khác toàn là
khuyết điểm, chẳng thấy mình có một khuyết
điểm nào hết!
Quý vị có thể phát hiện khuyết
điểm của chính mình như thế nào? Thấy khuyết
điểm của người khác, hãy hồi quang phản
chiếu xem ta có [khuyết điểm ấy] hay không, sẽ
tìm ra. Đó là đại ân nhân, chân thiện tri thức của
chính mình. Người ấy giúp quý vị sửa đổi,
quý vị có thể nào chẳng cảm ơn người ấy
hay chăng? Quý vị còn nói những điều sai quấy
của kẻ ấy, đó là vong ân phụ nghĩa! Hãy cảm
kích, tri ân, báo ân người ấy, thường hồi
hướng công đức tu học của chính mình cho
người ấy. Nếu không có người ấy, làm
sao ta có thể tiến cao hơn? Nếu không do người
ấy, làm sao biết chính mình còn có khuyết điểm? Do
vậy, trong Đàn Kinh, Lục Tổ đã nói rất hay: “Nếu người thật sự
tu đạo, chẳng thấy lỗi người khác”.
Không có lỗi! Giống như diễn tuồng, người
ấy đóng vai phản diện, nhằm nhắc nhở
ta, đâu phải là người ấy thật sự có
khuyết điểm! Chúng ta đối đãi với
người ấy như Bồ Tát, người ấy không
có khuyết điểm. Hành vi của người ấy
đã giúp đỡ ta, khiến cho ta phát hiện lỗi lầm
của chính mình. Chúng ta dùng tâm thái này, đó là Bồ Tát tâm,
là Bồ Đề tâm. Tổ sư đại đức bảo
kẻ quên mất Bồ Đề tâm, dẫu tu hết thảy
thiện pháp vẫn gọi là ma, chẳng phải là Phật.
Chắc chắn Phật chẳng thể rời khỏi Bồ
Đề tâm, chúng ta phải học tập điều này,
thời thời khắc khắc đừng quên gieo trồng
các cội đức.
“Triệt
hạ, tắc Quán Kinh trung, Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm
chung đắc ngộ thiện hữu giáo dĩ niệm Phật,
thập niệm thành công, diệc sanh bỉ quốc” (Thấu
dưới là như trong Quán Kinh, kẻ Ngũ Nghịch, Thập
Ác, lúc lâm chung gặp được bạn lành dạy niệm
Phật, mười niệm thành công, cũng sanh về cõi ấy).
Chuyện này là thật! Trong Tịnh Độ Thánh Hiền
Lục, Vãng Sanh Truyện đã ghi chép [những sự tích của]
cổ nhân. Nếu chúng ta hơi lưu ý, [sẽ thấy] trong
hiện tại cũng có! Chính chúng tôi mắt thấy, tai
nghe. Trước kia, tôi ở Hoa Phủ của nước
Mỹ, tức Washington DC, có một Hoa kiều, tức là
người Trung Quốc, đó là ông Châu Quảng Đại.
Người này chẳng phải là Ngũ Nghịch, Thập
Ác, mà là người tốt, thiện nhân, nhưng cả
đời chẳng tin tôn giáo, tôn giáo nào cũng không tin. Người
này tâm địa thiện lương, rất tốt bụng.
Ông ta bị ung thư, khi sắp mất, nhà thương
đã ngừng trị liệu, bảo thân nhân đưa về
nhà. Khi ấy, người nhà đi khắp nơi cầu
thần, bái Phật, xem có kỳ tích nào xuất hiện hay
không. Đó gọi là “gặp chuyện bèn ôm chân Phật”, tìm
được hội Phật giáo của chúng tôi. Khi ấy,
ở Hoa Phủ có hội Phật giáo mang tên là Hoa Phủ Phật Giáo Hội, thành lập chưa
được bao lâu, do mấy đồng học Tịnh
Độ thành lập một hội như vậy, mời
tôi làm hội trưởng. Tôi quen biết với lão cư
sĩ Hoàng Niệm Tổ ở nơi ấy. Có mấy
đồng tu đến trợ niệm cho ông ta, nhìn bộ
dạng của ông ta đúng là bó tay, bèn khuyên nhủ,
hướng dẫn, nói đời người khổ sở,
cần gì phải lưu luyến, hãy buông xuống vạn
duyên, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
giảng giải và giới thiệu thế giới Cực
Lạc cho ông ta nghe. Người này có thiện căn, thiện
căn ấy chính là thiện căn trong đời quá khứ,
nhưng trong một đời này, ông ta chưa gặp thiện
duyên, đến lúc ấy mới gặp gỡ. Ông ta nghe
xong bèn vui vẻ, tiếp nhận, bảo người nhà:
Đừng đến khắp nơi tìm cách trị liệu
cho ông ta nữa, không cần! Cả nhà hãy giúp ông ta niệm
Phật cầu vãng sanh. Căn bệnh của ông ta đau
đớn lắm, nhưng ý niệm vừa chuyển, chẳng
còn đau đớn nữa, chẳng còn đau khổ nữa,
vui vẻ cùng niệm Phật với mọi người, ba
ngày bèn ra đi. Đúng như kinh đã dạy: “Nhược nhất nhật,
nhược nhị nhật, nhược tam nhật” (Hoặc
một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày). Chẳng sai! Niệm
ba ngày ba đêm ông ta bèn ra đi. Khi mất có tướng
lành, toàn thân mềm mại. Khi hỏa táng có xá-lợi. Đây
là một người chẳng tin tưởng tôn giáo, lâm
chung gặp thiện hữu bèn thành công. Dẫu đã tạo
tội Ngũ Nghịch, Thập Ác, có thể cứu
được hay không? Có thể cứu được!
Trong phần sau của bốn mươi tám nguyện, có một
câu: Nếu kẻ ấy chẳng tin, sẽ không thể cứu!
Kẻ tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, khi lâm chung có tín
tâm và nguyện tâm kiên định, vẫn có thể cứu được!
Như Ngẫu Ích đại sư đã nói: “Điều kiện
quan trọng nhất để có thể vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới hay không là do có
tín nguyện hay không. Thật sự có tín nguyện, chắc
chắn được vãng sanh, phẩm vị cao hay
thấp là do công phu niệm Phật của quý vị sâu hay
cạn”. Lời ấy rất có lý! Niệm đến mức
tâm thanh tịnh, nếu chúng ta dùng tựa đề kinh
để nói thì niệm đến mức tâm thanh tịnh
bèn sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư, niệm
đến bình đẳng giác sẽ sanh vào cõi Thật Báo
Trang Nghiêm. “Bình đẳng giác” là Lý nhất tâm bất loạn,
thanh tịnh tâm là Sự nhất tâm bất loạn, chúng ta phải
nỗ lực hướng đến mục tiêu này. Bình
đẳng là gì? Chẳng có tâm phân biệt, thật sự
giác ngộ. Tâm phân biệt đã chẳng có, lại nâng [cảnh
giới] lên cao hơn thành “nhập pháp môn Bất Nhị”, Tánh
Tướng bất nhị, Sự Lý bất nhị, sanh Phật
bất nhị (chúng sanh và Phật ), người ấy sẽ
sanh vào cõi Thật Báo, đến thế giới Cực Lạc,
hoa nở thấy Phật. Có thể thấy pháp môn này thù thắng
khôn sánh.
Tiếp đó, sách viết: “Khả kiến bổn kinh nãi quảng
thâu vạn loại, phổ bị tam căn chi A Già Đà
dược, năng dũ vạn bệnh” (Có thể thấy
kinh này rộng thâu muôn loài, là thuốc A Già Đà thích hợp
khắp ba căn có thể trị lành muôn bệnh). A Già
Đà (Agada) là tiếng Ấn Độ, giống như
người Trung Quốc nói tới “vạn ứng đan”; thuốc này bệnh gì
cũng đều trị được, chắc chắn
có lợi, chứ không có hại gì. Đây là nói bộ kinh
này căn cơ nào cũng đều phù hợp, bậc thượng
thượng căn như Văn Thù, Phổ Hiền, hạ
hạ căn là kẻ tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác,
chỉ cần quý vị có thể tin tưởng, chịu
phát nguyện, chắc chắn được vãng sanh, chẳng
thể nghĩ bàn! Khi lâm chung có thể tin, có thể nguyện,
tôi nghĩ đấy cũng chẳng phải là ngẫu
nhiên, mà do người ấy có túc thế nhân duyên. Người
ấy có đời quá khứ, tuy trong một đời
này không có duyên gặp gỡ, nhưng trong đời quá khứ,
chắc chắn đã từng học Phật, chắc chắn
đã tu pháp môn này. Do vậy, khi lâm chung gặp thiện hữu
nhắc nhở, chủng tử trong A Lại Da của người
ấy bèn lập tức khởi hiện hành, chẳng phải
là ngẫu nhiên! Vì thế, nay chúng ta hãy giúp những kẻ không
tin gieo chủng tử. Giúp kẻ không tin gieo chủng tử
bằng cách nào? Trong hết thảy thời, hết thảy
chỗ, tay cầm tràng hạt (xâu chuỗi), miệng niệm
A Di Đà Phật, đó là gieo chủng tử cho chúng sanh. Trên
đường đi, quý vị vừa đi vừa niệm
Phật, người bên cạnh hữu ý hay vô tình nghe, thấy,
đã gieo chủng tử vào A Lại Da Thức, kết
duyên với Tịnh Độ Tông. Chủng tử ấy gọi
là “chủng tử kim cang”, vĩnh viễn bất hoại. Trong
đời kế tiếp hoặc đời sau, gặp
duyên, chủng tử ấy sẽ khởi hiện hành, khởi
tác dụng. Do vậy nói người xuất gia dẫu bất
hảo, nói trắng ra là người xuất gia ấy phá
giới, công đức vẫn to hơn quý vị, vì sao? Người
ấy mặc y phục [biểu thị cho] hình tượng
[Phật giáo], vừa đi ra ngoài, người ta trông thấy,
đã gieo chủng tử về ấn tượng nơi
Phật, quý vị chẳng có năng lực ấy! Tuyệt
diệu lắm! Quý vị nói xem: Trong một đời này,
người ấy đã gieo thiện căn cho bao nhiêu
người? Hãy nên tôn kính [người xuất gia, dẫu
người ấy có phá giới đi nữa] là do đạo
lý này! Xưa kia, tôi dạy học trong nhà trường, dạy
tại đại học mấy năm, dạy khoảng năm
năm, tôi bảo các đồng học, khi ấy, các đồng
học trong nhà trường dường như cảm thấy
học Phật sẽ bị kẻ khác chê là mê tín, khó chịu
lắm, nên lén lút học Phật. Tôi bảo họ: “Các vị
phải chánh đại quang minh mà học, phải phổ
độ chúng sanh. Tay đeo xâu chuỗi, đừng sợ
kẻ khác cười. Dẫu người ta có cười
nhạo quý vị: ‘Anh xem gã bạn học đó mê tín quá chừng!’
Tuy nói các vị mê tín, chủng tử Phật của người
ấy đã được gieo xuống rồi, đó là
chuyện tốt, đâu phải chuyện xấu”. Trên bìa
sách học dùng trong nhà trường đều có đề
tên, tôi nói: Quý vị đừng viết tên họ của
mình, mà hãy ghi A Di Đà Phật, người ta trông thấy
cuốn sách ấy bèn niệm A Di Đà Phật. Quý vị
thấy đó, chẳng phải là lại độ
được một người hay chăng? Rất nhiều
đồng học thật sự sử dụng
phương pháp này của tôi; về sau, dần dần trở
thành một phong cách. Vì thế, phương tiện thiện
xảo rộng độ hữu tình. Nếu chúng ta hiểu
đại đạo lý, đại nhân duyên ở đây, sẽ
đối với người xuất gia, đối với
người niệm Phật khởi tâm cung kính, hình tượng
họ đã biểu lộ cũng nhằm biểu thị
pháp, công đức thù thắng khôn sánh!
Cuối cùng, “cố bổn kinh vân: Trị tư kinh giả, tùy ý sở
nguyện, giai khả đắc độ” (vì thế,
kinh này nói: “Người gặp được kinh này, tùy
theo sở nguyện đều có thể đắc độ”).
Cụ Hoàng dùng câu nói này để tổng kết đoạn
này. Gặp bộ kinh này, “trị”
(值) là gặp. Gặp
gỡ bộ kinh này, tùy theo ý nguyện của quý vị, đều
có thể đắc độ. Ý nghĩa của “tùy ý” vô cùng rộng, đấy
là như trong Phật môn đã nói: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”
(trong nhà Phật, có cầu ắt ứng), “tùy ý sở nguyện” là có cầu ắt ứng.
Quý vị cầu gì được nấy! Cầu thế
giới Cực Lạc, quý vị được thế giới
Cực Lạc. Cầu thấy A Di Đà Phật, quý vị
sẽ có thể thấy A Di Đà Phật. Cầu thành Phật,
được thành Phật. Cầu thành Bồ Tát, quý vị
thành Bồ Tát. Tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế
gian này cũng giống như thế, nhưng đó là những
chuyện lông gà vỏ tỏi nhỏ nhặt, quý vị cầu
điều gì đều có thể cầu được, chẳng
hề có chuyện cầu không được! Nhưng quý vị
nhất định phải giác ngộ: Chẳng thoát khỏi
lục đạo, sẽ vĩnh viễn chẳng thể lìa
khổ, lục đạo khổ lắm! Nhân thiên là thiện
đạo, thiện đạo mà còn khổ dường ấy,
huống chi ác đạo! Quý vị phải chú tâm quan sát, hiện
thời súc sanh có khổ hay không? Đặc biệt là gia
súc. Hiện thời, nếu quý vị đầu thai trong
đường súc sanh, biến thành một con lợn hay một
con gà, hoặc một con vịt, quý vị thấy hiện
thời lợn, gà, vịt, thậm chí bò, loại bò chuyên
nuôi để lấy thịt, nhìn vào tình trạng sống của
chúng, từ lúc đẻ ra cho đến khi xuất chuồng,
được nuôi lớn trong chuồng, một chuồng
nhốt quá nhiều, xoay mình cũng chẳng thể xoay được!
Cuộc sống trước khi bị giết của chúng
là như thế này: Suốt đời bị nhốt chặt,
đến khi bị giết, quý vị nói thử xem tâm tình
của chúng ra sao? Chúng nó có oán hận hay chăng? Con người
có cùng cái tâm này, tâm có cùng Lý này. Người và súc sanh chẳng
khác, chúng nó oán hận, bất bình. Oán hận nên thịt của
chúng có chất độc, mang rất nhiều nguồn bệnh.
Đó là lý do vì sao hiện thời ăn thịt bị bệnh
nhiều như vậy. Cổ nhân Trung Quốc đã nói: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa
tùng khẩu xuất” (Bệnh từ miệng vào, họa
từ miệng ra), đó là chân lý. Hiện thời, không chỉ
thịt chẳng thể ăn, đó là thứ độc
địa, mà ngay cả đồ chay trong hiện tại cũng
biến thành chất độc! Rau dưa có phân hóa học
và thuốc sát trùng!
Người
thế gian khổ quá, đừng nên lưu luyến thế
gian nữa, vãng sanh sớm một ngày là sớm được
giải thoát một ngày, lưu luyến thế gian là sai lầm!
Chúng ta niệm Phật, Phật còn chưa đến tiếp
dẫn chúng ta, chứng tỏ nghiệp báo của chúng ta chưa
tiêu hết, nghiệp chướng chưa tiêu trừ. Để
tiêu trừ nghiệp chướng, phải cậy vào ai
để tiêu trừ nghiệp chướng? Dựa vào
chính mình, chẳng có người nào khác giúp đỡ
được! Tiêu bằng cách nào? Ta có thọ mạng, trong
mạng ta còn có phước báo, chẳng cần nữa, hãy
bỏ sạch, chướng ngại sẽ chẳng còn nữa,
Phật sẽ đến tiếp dẫn quý vị. Nếu
quý vị phát tâm Đại Thừa, hết thảy đều
từ bỏ, hiện thời vẫn còn thân thể, hãy lợi
dụng cái thân này để giúp đỡ các chúng sanh khổ
nạn nhiều hơn, khuyên dạy họ, giúp đỡ họ,
dẫn theo những người ấy vãng sanh, đó là chuyện
tốt, chẳng có vị Phật, Bồ Tát nào chẳng tán
thành. Sanh tử tự tại, muốn đi lúc nào bèn đi
lúc đó, chẳng vướng mắc tí ti nào, càng tốt
đẹp hơn! Chúng ta thấy con người trong thế
gian đáng thương quá, tai nạn nhiều như thế
đó! Chúng ta biết có tai nạn, do đâu mà biết? Từ
kinh điển nhà Phật, trong kinh điển, đức
Phật thường nói: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, đó là chân lý.
Người trên thế giới suy tưởng gì? Phim “2012”
đã được chiếu trên toàn cầu. Sau khi phim ấy
được phát hành, ai nấy đều nghĩ đến
tai nạn; dẫu không có tai nạn, tai nạn vẫn xảy
tới, do tâm tưởng mà! Vì vậy, tôi xem bộ phim ấy
xong, nói: “Đó là ý trời, có hai tác dụng: Một là dạy
con người hãy đề cao cảnh giác, đoạn ác
tu thiện, đừng tạo tội nữa. Đó là giúp
chính mình, thành tựu chính mình. Mặt khác, sanh lòng sợ hãi,
hằng ngày nghĩ đến tai nạn, không có tai nạn
mà do ta suy niệm nên tai nạn sẽ xảy tới, hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng mà!” Tôi xem bộ
phim ấy xong, đã bảo rất nhiều đồng học:
“Đó là ý trời”. Đại khái, con người hiện
thời tạo tội nghiệp nhưng không có cách nào trị
được, pháp luật cũng chẳng trị
được, quốc gia cũng chẳng trị
được! Tổng thống, hoàng đế cũng chẳng
trị được, làm sao đây? Chỉ có ông trời ra
tay. “Ông trời ra tay trừng trị” là “tai họa thiên
nhiên” như chúng ta thường nói trong hiện thời, quả
thật rất đáng sợ!
Vậy thì phải hỏi: Có thể
hóa giải tai nạn hay không? Nói theo Phật pháp, câu trả
lời là khẳng định, chỉ cần hồi tâm
hướng thiện. Đức Phật dạy chúng ta hai
câu, đó là câu Khẩu Đầu Thiền trong Phật môn: “Cần tu Giới,
Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu
Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân,
si), tai nạn sẽ hóa giải. Nếu quý vị thật sự
làm, sẽ thật sự hữu hiệu! Sẽ thấy hiệu
quả ở chỗ nào? Từ chính mình! Chính mình có tai nạn,
có bệnh khổ, nếu quý vị tuân theo phương pháp
này để tu, bệnh khổ được lành, nghiệp
chướng cá nhân sẽ tiêu! Nghiệp chướng đã
tiêu rồi, thân thể khôi phục sức khỏe. Đó gọi
là “tướng do tâm sanh, cảnh
tùy tâm chuyển”, trong kinh đức Phật thường
nói như vậy. Tướng mạo của quý vị thuận
theo ý niệm mà chuyển biến, sức khỏe cũng giống
như thế. Tâm địa của quý vị là thiện niệm,
sẽ khỏe mạnh, trường thọ. Nếu trong
tâm là tịnh niệm, càng khỏe mạnh, trường thọ.
Tâm lẫn hạnh đều thiện, hoàn cảnh cư trụ
của ta sẽ chẳng có tai nạn. Dẫu ở nơi ấy
người tạo tác ác nghiệp rất nhiều, nhưng
có một ít người đang tu thiện, tuy nơi ấy
có tai nạn thì cũng nhẹ nhàng, chẳng nghiêm trọng.
Cổ đức từng nói: “Giữa
một trăm người, có một người tu thiện,
chín mươi chín người kia đều hưởng
lây”, một phần trăm đấy nhé! Lời này là
thật đấy, chẳng giả đâu! Chúng ta lại
xem tiếp đoạn kế: “Thượng
minh bổn kinh, quảng ứng quần cơ, nhi kỳ ân
đức vưu thâm ư ngã sài phàm phu” (Trên đây
đã nói rõ kinh này thích ứng rộng rãi các căn cơ, nhất
là đối với lũ phàm phu chúng ta, càng có ân đức
sâu đậm), nói theo hiện thời, “sài” (儕) là “đẳng” (等: ngang hàng), [“ngã sài”] là những kẻ cùng
hàng với chúng ta. Trong phần trước đã nói về
sự ứng cơ (thích ứng với các căn cơ),
trong đoạn này, luận về công đức. “Đương kim Mạt Pháp,
chúng sanh phước huệ thiển bạc, cấu chướng
thâm trọng, duy lại thử phương tiện pháp môn.
Đản bằng tín nguyện trì danh, tiện năng công
siêu lũy kiếp, vãng sanh Cực Lạc, kính đăng Bất
Thoái” (Nay đang thời Mạt Pháp, chúng sanh phước
huệ cạn mỏng, cấu chướng sâu nặng, chỉ
cậy vào pháp môn phương tiện này, chỉ nhờ vào
tín nguyện trì danh, công liền có thể vượt trỗi
bao kiếp, vãng sanh Cực Lạc, nhanh chóng chứng lên Bất
Thoái). Chúng ta đọc đến chỗ này, tiểu đoạn
này nói đến chúng ta trong hiện tại. Cụ Hoàng Niệm
Tổ là người đương đại, đã vãng
sanh chưa lâu. Khi trước, mỗi năm, tối thiểu
tôi sang Bắc Kinh một hai lần, chẳng vì chuyện gì
khác, mà chỉ nhằm đến gặp cụ. Sau khi cụ
đã mất, tôi còn đến thăm một lần, gặp
con gái và học trò cụ. Đoạn văn này nói về chúng
ta trong hiện thời, người hiện thời thật
sự phước mỏng, huệ cạn, chẳng có trí
huệ, mà cũng không có phước báo; nói cách khác, chúng ta phiền
não tập khí sâu nặng! “Cấu”
(垢) là nhiễm ô, “chướng” (障) là nghiệp
chướng, chúng ta tạo tác nghiệp chướng bất
thiện. Vì sao sanh ra chuyện này? Đối với tiêu chuẩn
thiện ác, chúng ta không biết; nói chung cứ tưởng
chính mình luôn làm đúng, không biết chính mình đã lầm lỗi,
làm ác. Vì thế, chúng ta quan sát cẩn thận sẽ thấu
hiểu, đừng xét nét người khác, hãy xét nét chính
mình!
Thuở trước, khi còn trẻ,
tôi giảng kinh, thường nhắc tới khóa tụng buổi
sáng. Mục đích của khóa tụng buổi sáng là gì? Nhắc
nhở chính mình, ngày hôm nay ta đừng quên mất giáo huấn
của đức Phật, hãy thường đề cao cảnh
giác, y giáo phụng hành, đó là quý vị thật sự tụng
niệm khóa sáng. Chúng tôi đã từng biên tập lại
nghi thức tụng niệm của cổ nhân. Nghi thức
do cổ nhân biên soạn có quá nhiều chú ngữ, hiện
thời [người tụng] chẳng hiểu rõ ý nghĩa
của chú ngữ, cho nên không đạt được hiệu
quả. Do vậy, chúng tôi tuyển chọn, ấn định
kinh văn bản mới dành cho các đồng học Tịnh
Tông chúng ta. Các đồng học Tịnh Tông có Triêu Mộ
Khóa Tụng Bản (nghi thức tụng niệm sớm tối)
do tôi biên tập. Kinh văn để niệm cho buổi
sáng là phần bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô
Lượng Thọ. Trong khóa sáng, hãy suy nghĩ: A Di Đà Phật
đã phát bốn mươi tám nguyện, ta có phát hay không?
Đối chiếu với chính mình, mong muốn biến bốn
mươi tám nguyện ấy thành bổn nguyện của
chính mình, tâm nguyện của chúng ta và A Di Đà Phật
tương đồng. Với khóa tối, chúng tôi chọn
phần kinh văn từ phẩm ba mươi hai đến
phẩm ba mươi bảy, đoạn kinh văn ấy
giảng điều gì? Dạy chúng ta trì giới, phản tỉnh,
sửa đổi, sám hối, dùng phần này để làm
khóa tối. Trong khóa tối, phải thật sự phản
tỉnh, kiểm điểm, sửa lỗi, khóa tụng
đối với chúng ta mới có lợi ích. Luôn chọn lựa
kinh Vô Lượng Thọ là pháp phương tiện. Chuyên
tu, khóa sáng niệm kinh Vô Lượng Thọ, khóa tối cũng
niệm kinh Vô Lượng Thọ, chuyên tu mà! Bọn chúng ta
không có nhiều thời gian như thế, bèn trích lục những
phần kinh văn trọng yếu trong kinh Vô Lượng
Thọ để sớm tối nhắc nhở chính mình, mục
đích không gì chẳng nhằm tiêu nghiệp chướng, xa
lìa phiền não, tập khí, chúng ta học Phật mới có
thể công phu đắc lực. Nếu quý vị chẳng
nhớ kinh văn, chưa thể lý giải, quý vị tu tập
bằng cách nào?
Hóa giải tai nạn hiện tiền.
Hiện thời tai nạn rất nặng, trên khắp thế
giới có ai chẳng tạo nghiệp? Tạo nghiệp gì
vậy? Vừa mở kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo
ra, quý vị sẽ biết ngay: Hoàn toàn trái phạm, đúng
là Ngũ Nghịch, Thập Ác. Thập Ác là gì? Sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, nói dối, nói đôi chiều, ác khẩu, nói
thêu dệt, tham lam, sân khuể, ngu si. Quý vị nói thử
xem: Trong thế gian hiện thời, ai chẳng tạo?
[Ngay cả] trẻ nhỏ cũng tạo! Trẻ nhỏ tạo
bằng cách nào? Trẻ nhỏ học từ
TV, mỗi ngày xem TV, TV sẽ dạy chúng nó. Đi học, tại
Trung Quốc tôi không biết, chứ ở ngoại quốc,
lớp Một Tiểu Học đã cho dùng computer. Thông tin từ
computer rất nhiều, điều gì chúng nó cũng đều
học. Xong luôn, tạo Thập Ác! Tạo Thập Ác sẽ
có hành vi Ngũ Nghịch xuất hiện, giết cha, giết
mẹ, giết thầy, giết A La Hán cũng giống
như giết thầy! Đây là xã hội hiện tiền của
chúng ta, càng nghĩ, càng đáng sợ, càng nhìn, càng đáng sợ.
Trong đời chúng ta đây, còn có thể duy trì tình trạng
trước mắt, chứ hai mươi năm sau sẽ
làm như thế nào đây? Ai có năng lực duy trì trật
tự xã hội? Chẳng có ai hết! Tổ tiên chúng ta thường
nói, đến khi con người trị không được,
cha mẹ không quản được con cái, pháp luật không
quản được dân, thượng thiên sẽ ra tay.
Khi thượng thiên can thiệp sẽ là tai nạn, cả
đống tai nạn thảy đều xuất hiện. Vì
vậy, cứu vớt thế giới, nói thật sự là
kinh Vô Lượng Thọ, trong Đại Thừa Phật
pháp, kinh này hữu hiệu nhất! Pháp môn này đúng là pháp
môn phương tiện, “đản
bằng tín nguyện trì danh” (chỉ cậy vào tín nguyện
trì danh), ba điều kiện này, thật sự tin, mảy
may hoài nghi cũng chẳng có, thật sự nguyện vãng
sanh, trì danh là niệm Phật, thật sự làm, trong mười
hai thời, một câu A Di Đà Phật chẳng gián đoạn.
Vài ngày trước, cư sĩ
Lưu Tố Vân từ miền Đông Bắc đến chỗ
này báo cáo, nói suốt mười mấy giờ. Người
này là như thế nào? Là người thật sự làm! Lúc
năm mươi chín tuổi, bà ta bị bệnh nặng,
người phương Bắc đều biết [căn
bệnh nghiêm trọng này], hồng ban lang sang (Lupus Erythematosus)[12]. Bị bệnh này
thì hầu như chẳng thể nào trị lành, y học Trung
Quốc lẫn Tây Phương đều chẳng có cách
nào chữa trị, bà ta có nhiều bạn bè mắc bệnh
này, họ đều mất cả rồi. Bà ta bị bệnh
này, tín nguyện trì danh, đối với A Di Đà Phật,
đối với thế giới Cực Lạc chẳng
có mảy may hoài nghi nào, coi nhẹ sanh tử, nhất tâm nhất
ý muốn cầu sanh Tịnh Độ. Bác sĩ cho bà ta biết,
cũng là nói thật: “Bệnh của bà chẳng có hy vọng
gì, bà phải chuẩn bị tâm lý, vì có thể chết bất
cứ lúc nào!” Bà ta cười hì hì: “Nếu tôi chết, A Di
Đà Phật sẽ đến đón tôi, tôi về thế
giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc là quê
nhà của tôi, tôi chẳng sợ hãi tí nào!” Bà ta lành bệnh,
bác sĩ cảm thấy lạ quá, làm sao lành bệnh
được? Bà ta nói: Do Niệm Phật mà lành bệnh! Cả
ngày từ sáng đến tối là một bộ kinh Vô
Lượng Thọ, toàn là A Di Đà Phật. Bà ta còn nghe kinh,
nghe kinh Vô Lượng Thọ, nghe CD/DVD rất dụng công.
Trong bài báo cáo, bà ta nói mỗi ngày nghe một đĩa.
Đó là bài giảng của tôi trong thuở trước, mỗi
đĩa dài một giờ, mỗi ngày nghe mười tiếng,
mỗi đĩa nghe mười lượt, nghe rất
thuần thục. Niệm kinh Vô Lượng Thọ, nghe kinh
Vô Lượng Thọ, niệm A Di Đà Phật, lành bệnh!
Bác sĩ tin lời bà ta, bà ta có ưu điểm lớn nhất
mà lũ chúng ta chưa làm được là cả đời
chẳng nói dối, con người vô cùng trung hậu, thật
thà, chẳng dối gạt người khác, câu nào cũng
đều nói thật. Năm nay, bà ta sáu
mươi sáu tuổi, do tôi xem đĩa CD/DVD phỏng vấn
được thâu vào ngày Bốn tháng Năm năm 2003, dài
nửa tiếng, do đài truyền hình phỏng vấn, nên
tôi nghĩ: Bà ta đã nhiều tuổi như thế,
người này có còn sống hay không? Tôi bảo các đồng
học bên Hương Cảng hỏi thăm, biết
người này còn sống, họ còn tìm được số
điện thoại của bà ta nữa. Tôi liền gọi
điện thoại cho bà ta, khi ấy, tôi đang chữa
răng tại Đài Loan, đã nghe tin tức như thế.
Nói chuyện điện thoại, bà ta rất căng thẳng,
mà cũng rất kinh ngạc. Tôi hỏi bà khỏe không, thân
thể như thế nào? Tốt lắm! Mỗi năm một
khỏe hơn! Tôi liền mời bà ta sang Hương Cảng
gặp mặt, đúng là khỏe lắm, quý vị thấy:
Giảng mười mấy tiếng ở chỗ
chúng ta, sau khi giảng xong, Hướng Tiểu Lỵ mời
bà ta sang Thâm Quyến. Ở Thâm Quyến, bà ta rất cực
nhọc, mỗi ngày giảng gần như sáu tiếng, lại
còn phải trả lời thắc mắc của người
khác, mỗi ngày giảng tám tiếng, giảng hai ngày, phải
quay về. Do bốn chữ “tín nguyện trì danh”, bà ta hết
bệnh, sống khỏe mạnh và hạnh phúc dường
ấy! Tôi giảng kinh đã nhắc tới [chuyện này]
vài lần, nay bà ta đã trở thành người nổi tiếng
rồi, rất nhiều nơi mời bà ta đến giảng
diễn. Bà ta là người hết sức hướng nội
(introvert), tôi bảo bà ta: “Hiện nay, bà chưa thể tốt
lành cho riêng mình được! Hiện thời, phải làm
cho cả thiên hạ cùng tốt lành, phải đến khắp
nơi hoằng pháp, phải đi giúp đỡ người
khác”. Bà ta cũng rất khó có: “Phật, Bồ Tát dạy ta
làm như thế nào, ta bèn làm như thế ấy”. Bốn
chữ ấy (tín nguyện trì danh) trọng yếu lắm!
Chúng ta nắm chắc bốn chữ này, sẽ giải quyết
vấn đề trong một đời này, chắc chắn
sanh về Tịnh Độ.
“Tiện
năng công siêu lũy kiếp” (liền có thể công
vượt trỗi bao kiếp), lời này là thật đấy!
Nếu chẳng tu pháp môn này thì trong tám vạn bốn ngàn
pháp môn, bất luận quý vị muốn tu hành pháp môn nào, tu
đến mức thoát khỏi mười pháp giới phải
mất bao lâu? Phải khá nhiều kiếp quý vị mới
có thể thoát khỏi mười pháp giới. Quý vị vượt
thoát lục đạo, chứng A La Hán quả. A La Hán lại
phải tu hành hòng thoát lìa mười pháp giới, đây chẳng
phải là chuyện dễ, trong Phật pháp thường nói
là “vô lượng kiếp”. Nhưng dùng pháp môn Tịnh Độ
thì Tịnh Độ được gọi là “hoành siêu”. Tám vạn bốn
ngàn pháp môn là tiến lên theo từng giai đoạn một,
nên gọi là “thụ xuất”
(thoát ra theo chiều dọc). Pháp môn Tịnh Độ chẳng
dùng phương pháp ấy, từ trong nhân đạo (loài người),
trực tiếp tiến sang thế giới Cực Lạc
nên gọi là “hoành siêu” (siêu
thoát theo chiều ngang). “Vãng sanh
Cực Lạc, kính đăng Bất Thoái” (vãng sanh Cực
Lạc, nhanh chóng đạt Bất Thoái), “kính” (徑) là nhanh chóng, “tiệp kính” (捷徑: con đường tắt),
quý vị bèn chứng đắc Bất Thoái Chuyển, trong
kinh văn luôn nói như thế. Trong kinh Vô Lượng Thọ,
chính A Di Đà Phật nói, phẩm thứ sáu tức phần
bốn mươi tám nguyện do chính A Di Đà Phật nói:
Sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, “giai tác A Duy Việt Trí Bồ Tát”
(đều là Bất Thoái Chuyển Bồ Tát), nói câu ấy.
A Duy Việt Trí (Avaivartika) là tiếng Ấn Độ, dịch
nghĩa sang tiếng Hán, có nghĩa là Bất Thoái Chuyển.
Trong Bất Thoái Chuyển bao gồm ba thứ Bất Thoái Chuyển:
Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái và Niệm Bất
Thoái. Ba thứ Bất Thoái Chuyển đều chứng
đắc, là quả vị gì vậy? Nói thông thường,
[địa vị ấy phải là] Sơ Trụ trong Viên
Giáo hay Sơ Địa trong Biệt Giáo; cũng có nghĩa
là người ấy đã vượt thoát mười pháp
giới, đã vãng sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư
Phật thì mới chứng ba thứ Bất Thoái. A La Hán chỉ
chứng Vị Bất Thoái, Bồ Tát chứng được
Hạnh Bất Thoái, chứ Niệm Bất Thoái vẫn
chưa đạt được, đều chưa ra khỏi
mười pháp giới. Chứng đắc Niệm Bất
Thoái, vượt thoát mười pháp giới, thật sự
thành Phật!
Đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới, một phẩm phiền não tập
khí chúng ta vẫn chưa đoạn, hoàn toàn cậy vào tín
nguyện trì danh, phải dựa vào đó, nương cậy
Phật lực gia trì! Chính chúng ta chỉ cần thực hiện
được bốn chữ “tín nguyện trì danh”, Phật
lực sẽ gia trì, chúng ta bèn có thể vãng sanh, sanh vào cõi
Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Nói cách khác, mang theo phiền não, tập khí, nên
gọi là “đới nghiệp
vãng sanh”. Tu pháp môn khác sẽ chẳng thể [làm như vậy
được], quý vị không thoát khỏi lục đạo
luân hồi! Tu pháp môn này rất may mắn, không chỉ ra khỏi
lục đạo, mà còn thoát khỏi mười pháp giới,
quý vị nói xem: Khó có dường ấy! Đúng là công
vượt trỗi bao nhiêu kiếp! Sanh sang Tây Phương
Cực Lạc thế giới, cho dù hạ hạ phẩm
vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng chứng ba
món Bất Thoái. Chứng ba món Bất Thoái mà trước
đó còn có thêm một chữ, [tức là Viên], viên chứng
ba món Bất Thoái! Điều này cũng không đơn giản!
“Viên” (圓) là viên mãn, [“viên chứng” là] chứng đắc viên mãn ba món Bất
Thoái, đó là ai? Từ Thất Địa Bồ Tát của
Viên Giáo trở lên như kinh Hoa Nghiêm đã nói. Chứng ba
món Bất Thoái thì Sơ Trụ đã chứng đắc, nhưng
nếu thêm chữ Viên thì phải là đã đạt đến
Thất Địa! Không ai tin tưởng [chuyện này]; vì
thế, pháp môn này được gọi “nan tín chi pháp” (pháp khó tin). Chúng ta có thể tin
tưởng là nhờ vào đâu mà tin tưởng? Cậy
vào bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật
gia trì. Chẳng nhờ bổn nguyện và oai thần của
A Di Đà Phật gia trì, làm sao có thể [tin được
pháp môn này]? Đối với phàm phu, nói thật ra, [viên chứng
ba thứ Bất Thoái] chẳng phải do chính quý vị chứng
đắc. Trí huệ, đạo hạnh, thần thông, và phước
báo của quý vị bình đẳng với Thất Địa
Bồ Tát là nhờ vào phước báo của A Di Đà Phật.
Sang bên đó, hưởng phước của Ngài, chẳng
phải là phước của chính mình, mà là hưởng
phước của Phật. Nếu chính mình chứng đắc
Thất Địa, [tức là] trong thế giới Cực
Lạc, chính mình tu hành đã chứng đắc Thất
Địa, đấy mới là phước báo của
chính mình. Nếu chính mình chưa chứng đắc tới
cấp bậc ấy, bèn hưởng thụ phước
báo của A Di Đà Phật, cho nên tin tưởng, chẳng
có nghi vấn gì. Đối với chúng ta, A Di Đà Phật
ân đức to quá! Do vậy, chúng ta hãy nên tin tưởng
những lời này, đó là lời thành thật, chân xác của
Phật, của Tổ. Nói theo Lý, trong kinh đức Phật
thường dạy: “Hết
thảy pháp sanh từ tâm tưởng”.
Niệm niệm chẳng bỏ
pháp môn này; pháp môn này là pháp môn bậc nhất, còn thù thắng
hơn Hoa Nghiêm. Khi tôi giảng kinh này, mới thật sự
biết cư sĩ Bành Tế Thanh đã nói [kinh Vô Lượng
Thọ] là trung bổn Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm quá dài, tôi
cũng không nghĩ sẽ giảng. Lúc ấy, tôi phát nguyện
trong một đời chuyên giảng bộ kinh này, giảng
lần lượt từng lần, đã giảng được mười lần rồi. Về
sau lại giảng kinh Hoa Nghiêm, duyên ấy do lâm trưởng
Tân Gia Ba Cư Sĩ Lâm là Lý Mộc Nguyên khải thỉnh.
Ông ta thay mặt lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ và Hàn Quán
Trưởng, vì trong quá khứ, họ đã khải thỉnh,
nhưng tôi chẳng phát tâm. Đến Tân Gia Ba, nhắc
tới chuyện này, ông ta hết sức nhiệt tâm, trọn
đủ oai nghi khải thỉnh, rất long trọng, rất
trang nghiêm, tôi liền nhận lời, [điều này] cũng
khiến cho chúng tôi hết sức cảm niệm: Trong quá
khứ, Hàn Quán Trưởng của Hoa Tạng Đồ Thư
Quán khi bệnh tình nguy kịch, trước khi vãng sanh hai
ngày, đã thỉnh cầu lần nữa, mong muốn lưu
lại một bộ CD/DVD giảng kinh Hoa Nghiêm cho người
đời sau tham khảo. Do bà ta bệnh nặng, nhằm
an ủi bà ta, nên tôi đáp ứng, tôi nói: “Được rồi!
Chờ đến khi bà lành bệnh, chúng tôi sẽ khai giảng
lần nữa”, duyên phận như thế đó! Bộ
kinh này (kinh Vô Lượng Thọ) quả thật là cương
yếu của kinh Hoa Nghiêm, vấn đề gì cũng đều
giải quyết. Trưa ngày hôm nay, mấy đồng tu Mã
Lai đặc biệt đến Hương Cảng
thăm viếng, có bàn tới một vấn đề, “thực
hiện giáo học bằng kinh điển của tôn giáo nhằm
cứu nguy địa cầu”. Đoàn kết tôn giáo vẫn
chưa đủ. Kinh điển của mỗi tôn giáo
đều hay, quý vị lật ra xem, trong ấy đều
là giảng về luân lý, đạo đức, nhân quả.
Mỗi tôn giáo đều phải thật sự chú ý, coi trọng
thực hiện giảng kinh, giáo học, cảm hóa lòng người,
khuyên dạy mọi người quay đầu là bờ, thế
giới này sẽ được cứu! Đó gọi là “cảnh tùy tâm chuyển”, ai nấy
đều có thể hướng thiện, người
người đều có thể buông sai lầm xuống, buông
ác niệm xuống, buông ác hạnh xuống, thế giới
sẽ thật sự được cứu. Chúng ta bàn
đến vấn đề này, vấn đề là sẽ
thực hiện cụ thể như thế nào?
Tiếp theo, sách viết: “Nhược vô như thị vi
diệu pháp môn, phàm phu hà năng độ thử sanh tử
nghiệp hải, nhi đăng bỉ ngạn” (Nếu
không có pháp môn vi diệu như thế này, phàm phu làm sao có thể
vượt khỏi biển nghiệp sanh tử này, vượt
sang bờ kia). Trong thời Mạt Pháp, từ nay về sau
hãy còn chín ngàn năm nữa, trừ pháp môn này ra, chẳng có
bất cứ một pháp môn nào mà hòng thành tựu, vì sao? Mỗi
pháp môn đều phải đoạn phiền não, quý vị
có thể đoạn Kiến Tư phiền não hay chăng?
Chẳng nói chi khác, không tính tới Tư Hoặc, chỉ
nói tới Kiến Hoặc, quý vị có thể đoạn hay
chăng? Kiến Hoặc đoạn xong, mới chứng
Sơ Quả trong Tiểu Thừa. Còn theo kinh Hoa Nghiêm của
Đại Thừa, đó là địa vị Sơ Tín Bồ
Tát; nói cách khác, [lúc ấy] quý vị mới nhập môn! Kiến
Hoặc là gì? Nói chi tiết sẽ gồm tám mươi tám
phẩm, nói đại lược, đức Phật quy nạp
Kiến Hoặc thành năm loại lớn. Thứ nhất
Thân Kiến, thứ hai là Biên Kiến, thứ ba là Kiến Thủ
Kiến, thứ tư là Giới Thủ Kiến, thứ
năm là Tà Kiến. Năm loại lớn này, quý vị có
thể đoạn trừ hay chăng? Thật sự đoạn
trừ, quý vị làm được bốn câu trong kinh Kim
Cang: “Vô ngã tướng, vô nhân
tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả
tướng” thì mới đoạn được. Chúng
ta hãy tự hỏi chính mình có thể làm được hay
không? Làm không được! Đúng là khó! Từ vô thỉ
kiếp tới nay đã chấp trước thân này là ta. Nay
đức Phật bảo “thân này chẳng phải là ta”,
quý vị đừng vì cái thân mà bận tâm. Bận tâm vì cái
thân chính là tạo oan nghiệt. Thân chẳng phải là ta, mà
là gì? Thân là cái ta có, giống như y phục. Y phục chẳng
phải là ta, y phục là cái ta có, thân thể là cái ta có. Do vậy,
quý vị nhất định phải biết, ta bất
sanh, bất diệt, ta vĩnh viễn chẳng chết. Thân
thể có sanh diệt, giống như y phục, mặc rách
một bộ quần áo bèn đổi bộ khác. Thân chúng ta
dùng vài chục năm chẳng còn thuận tiện sử dụng
nữa, bèn thay đổi, rất tự tại, rất vui
vẻ, đổi lấy quần áo mới. Nhưng khi “thay
quần áo” sẽ liên quan đến nghiệp lực của
quý vị, quý vị suốt đời tâm lành, hạnh lành,
sẽ càng thay đổi càng tốt đẹp. Nếu quý
vị tâm hạnh bất thiện, càng thay đổi càng tệ:
Đời này mang thân người, đời sau đổi
thành thân súc sanh, đổi thành thân quỷ đói, càng thay
đổi càng tệ! Nhưng bất luận thay đổi
thân nào, thân luôn chẳng phải là chính mình, phải hiểu
chuyện này! Thế tục thường nói chính mình là gì?
Linh hồn là chính mình. Linh hồn chẳng sanh tử, nó
đến kiếm thân xác trong lục đạo, đi tìm
một cái thân. Tìm một cái thân cũng chẳng phải là
tùy theo ý nghĩ của chính mình! Nếu tùy thuộc ý
nghĩ của chính mình, chúng ta sẽ tìm lấy thân trời
tốt đẹp hơn để hưởng phước
trời. Việc tìm lấy cái thân mới bị chi phối
bởi nghiệp lực. Vẫn là hết thảy các pháp sanh
từ tâm tưởng! Tâm quý vị lành, sẽ tìm được
[cái thân mới] toàn là tốt lành; tâm quý vị bất thiện,
cái thân [và hoàn cảnh sống mới] mà quý vị tìm
được cũng bất thiện. Do vậy, biết:
Thiện tâm và thiện niệm trọng yếu lắm!
Hiện thời, hoàn cảnh bên
ngoài luôn dẫn dụ chúng ta khởi tham, sân, si, mạn. Tham,
sân, si, mạn là tâm niệm bất hảo nhất. Nếu thật
sự hiểu nhân quả báo ứng, quý vị sẽ có thể
kềm chế chính mình. Theo lý luận nhân quả: “Nhất ẩm nhất trác, mạc
phi tiền định” (một miếng ăn, một hớp
uống, không gì chẳng được định sẵn).
Trong mạng mà có, quý vị sẽ nhất định đạt
được. Nếu trong mạng không có, dùng thủ
đoạn như thế nào cũng đều chẳng chiếm
được, tội tình gì mà quý vị phải tạo
ác, chẳng đáng! Phát tài như thế nào? Trong mạng
quý vị có, bất luận quý vị buôn bán gì cũng đều
phát tài. Trong mạng không có, quý vị nghĩ hết mọi
cách vẫn chẳng phát tài. Quý vị cầm súng cướp
bóc người khác cũng chẳng thể phát tài! Mới sờ
đến súng đã bị cảnh sát thộp cổ! Quý vị
chẳng có thì cần chi nữa! Ông Hồ Tiểu Lâm hiểu
rõ đạo lý này, trước đây đã dùng thủ
đoạn bất chánh để kinh doanh, buôn bán, trật
rồi! Nay đã hoàn toàn sửa đổi sai lầm ấy,
thật thà kiếm tiền, doanh số hằng năm đều
tăng lên. Ông ta mới hoảng nhiên đại ngộ, vốn
chẳng phải là dùng bất thiện thủ đoạn mà
hòng kiếm được, chẳng phải vậy! Do thủ
đoạn bất thiện mà đạt được
thì vẫn là do trong mạng của chính quý vị đã có. Nếu
trong mạng quý vị không có, [vận dụng] thủ
đoạn gì cũng chẳng đoạt được!
Do vậy, chúng tôi suy ngẫm: Người Nhật Bản
xâm lược Trung Quốc, toan chiếm lãnh Trung Quốc, nhưng
họ thiếu phước báo, Trung Quốc chẳng phải
của họ, đánh nhau tám năm rồi vẫn phải đầu
hàng, chẳng phải là của họ mà! Chính phủ Mãn Thanh
ở ngoài biên ải[13] vào Trung Quốc thống
trị hai trăm sáu mươi năm, họ làm được
là vì trong mạng họ có, đất đai ấy là của
họ. Nếu chẳng phải là của họ, dùng chiến
tranh hay chiếm đóng đều chẳng được.
Đúng là “nhất ẩm nhất
trác, mạc phi tiền định”. Dùng thủ đoạn
chiến tranh để đoạt được vẫn là
do trong mạng của chính mình có, nhưng thủ đoạn
chiến tranh là thủ đoạn hết sức tồi tệ!
Quý vị giết bao nhiêu người, gây tổn thất
tài sản cho bao nhiêu người dân, đó là điều ác
cực lớn, đều có báo ứng, quý vị hưởng
hết phước sẽ mắc quả báo. Làm vua mà làm
không tốt, sau khi mất nước, còn phải trả nợ,
còn phải thường mạng, đâu có chuyện tiện
nghi như vậy! Vì thế, người thật sự hiểu
rõ chân tướng sự thật, vọng niệm hoàn toàn
đoạn dứt. Gì là tốt? Vẫn là niệm Phật tốt
đẹp, vẫn là vượt thoát lục đạo
luân hồi, vượt thoát mười pháp giới là tốt
đẹp! Người ấy làm chuyện này, chẳng làm
gì khác! Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng ta học
tới đây!
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
phần 6 hết
[1]“ Trọn
gói”: Tạm dịch chữ “nhất điều long”, một
ngôi trường gọi là “nhất điều long” khi nó có
toàn bộ các cấp lớp, chẳng sót một lớp nào.
[2] Giáp, Ất,
Bính, Đinh v.v... là cách đánh số thứ tự theo lối
truyền thống trong cổ văn, giống như chúng ta
dùng số La Mã hoặc các con số 1,2,3... để
đánh số từng đoạn.
[3] Cố
Cung, còn gọi là Tử Cấm Thành là cung điện hoàng
đế của hai triều đại Minh và Thanh tại
Bắc Kinh. Cố Cung do hoàng đế Minh Thành Tổ (Châu
Lệ) bắt đầu xây dựng vào năm 1406 khi dời
kinh đô từ Nam Kinh lên Bắc Kinh, mãi đến niên hiệu
Vĩnh Lạc thứ tư (1420) mới hoàn thành. Tổng
công trình sư (kiến trúc sư trưởng) là Khoái Tường,
một trong những thiết kế sư (kiến trúc
sư) nổi tiếng của công trình này là thái giám Nguyễn
An (vốn bị nhà Minh bắt về nước khi chiếm
Việt Nam
dưới đời Hồ Quý Ly).
[4] Quy chế “cửu
tự” đã có từ thời Tiền Hán. Đây chính là
chín cơ cấu quản lý sự vụ trực thuộc
chánh quyền trung ương. Chín cơ cấu này do cửu
khanh (chín vị đại thần quyền hạn nhỏ
hơn Tam Công) đứng đầu, tâu trình trực tiếp
với hoàng đế, không qua sự quản lý của Tể
Tướng (hay Thủ Phụ). Dinh thự của cửu
khanh gọi là Tự. Do đó, chín cơ quan này cũng được
gọi là Tự. Cửu Tự gồm:
1. Thái Thường Tự: Chưởng quản nghi lễ, phụ trách các điển
lễ của quốc gia (thường gọi chung là Quốc
Tế) như lễ tế trời, tế xã tắc v.v...,
đồng thời quản lý âm nhạc cung đình,
cũng như quản lý các thuật sĩ và y sĩ. Cơ
quan này về sau trực thuộc bộ Lễ.
2. Quang Lộc Tự: Chưởng quản
những sự vụ thường ngày trong cung, phụ
trách yến tiệc, chuẩn bị các nhu cầu ăn mặc
trong cung.
3. Vệ Úy Tự: Chưởng quản
vũ khí và canh gác, phòng bị trong cung, nhất là chịu
trách nhiệm bảo vệ kho vũ khí, sắp đặt
các thứ nghi trượng và ngự lâm quân bảo vệ
khi vua xuất du.
4. Tông Chánh Tự: Chưởng quản sự
vụ trong hoàng tộc, tông thất, cũng như gia phả
của ngoại thích (họ hàng của các hoàng hậu, phi tần),
bảo vệ, tu bổ lăng miếu của hoàng gia, kiêm
nhiệm chưởng quản tăng nhân, đạo sĩ.
5. Thái Bộc Tự: Chưởng quản
xe ngựa của hoàng gia, kho dự trữ, các bãi chăn
nuôi, cung cấp quân lương.
6. Đại Lý Tự: Chưởng quản
pháp luật. Đây là cơ quan tư pháp tối cao, gần
như Tối Cao Pháp Viện hiện thời. Các vụ trọng
án do các quan Án Sát (Niết Ty) các tỉnh phải đệ
đạt hồ sơ lên Đại Lý Tự trước
khi phán án chung thẩm. Nếu cần, Tam Pháp Ty đồng
thời tham gia thẩm tra vụ án. Thời Minh, Đại
Lý Tự kiêm nhiệm vai trò mật vụ, có thể bắt
giữ bất cứ ai, kể cả hoàng thân, quốc
thích. Đại Lý Tự cùng với Ngự Sử Đài và
bộ Hình được gọi là Tam Pháp Ty.
7. Hồng Lô Tự: Chưởng quản
chuyện tiếp đón sứ thần ngoại quốc, tiếp
nhận lễ vật, chuẩn bị tặng phẩm của
hoàng đế đối với các phái bộ ngoại quốc,
cũng như hướng dẫn nghi lễ cho các sứ thần
ngoại quốc triều kiến hoàng đế.
8. Tư Nông Tự: Chưởng quản
lương thực, hàng hóa, vải vóc trong toàn quốc, gần
như tương đương với bộ Tài Chánh hiện
thời. Về sau, vai trò của Tư Nông Tự bị bộ
Hộ thay thế, hầu như chỉ còn giới hạn
vai trò trong kinh thành. Vai trò của Tự này đôi khi xen lẫn
với Thái Phủ Tự.
9. Thái Phủ Tự: Chưởng quản
sự giao dịch mua bán hàng hóa, tiền tệ, dự trữ,
trả lương, phát bổng cho các quan, cũng như khống
chế vật giá.
[5] Nói “đời trước” vì người
Mông Cổ tin ngài Chương Gia là một vị hoạt Phật
(tức tu sĩ được coi là hóa thân của các tổ
sư, Phật, Bồ Tát) chuyển thế nhiều lần.
Chương Gia đại sư (Lobsang Pelden Tenpe Dronme,
1891-1957), thầy của hòa thượng Tịnh Không, là
đời thứ mười chín. Vị “Chương Gia
đời trước” được nhắc đến
ở đây là Chương Gia đời thứ mười
bảy (1849-1875) được vua Hàm Phong (chồng Từ
Hy Thái Hậu) mời vào kinh để coi sóc việc nhập
tạng kinh điển, chưởng quản Lạt Ma Giáo
toàn quốc, và vị kế tiếp là Chương Gia đời
thứ mười tám (1878-1888) đều là quốc sư
nhà Thanh. Tuy nói Chương Gia có đến mười tám
đời, nhưng trên thực tế chỉ có bảy
đời, vì vị Chương Gia thứ nhất (Dragpa
Oser, 1607-1641) được tăng sĩ Mông Cổ coi là
hóa thân lần thứ mười ba của tôn giả Channa
(người Hoa thường phiên âm là Tôn Đạt, còn ghi
là Chandaka, tức ngài Xa Nặc, người đánh ngựa
của đức Phật Thích Ca). Ngài Xa Nặc là một
trong sáu vị tỳ-kheo thường được gọi
là Lục Quần Tỳ Kheo chuyên gây rối trong Tăng
đoàn để đức Thế Tôn có cơ hội chế
giới.
[6] Giáo Thụ là cách người Hoa dịch
chữ Professor, tức là các giáo sư trong trường
Đại Học, và được chia thành nhiều cấp
như Giảng Tòa Giáo Thụ (Chair Professor), Giáo Thụ
(Professor), Phó Giáo Thụ (Associate Professor), Trợ Lý Giáo Thụ
(Assistant Professor), Giảng Sư (Instructor). Còn chữ Giáo
Sư chỉ chung các thầy giáo, nhất là trong các trường
Tiểu Học, Trung Học, nhưng hầu như rất
ít khi dùng chữ Giáo Sư mà thường gọi là Lão
Sư.
[7] Tứ
A Hàm (Āgama), còn phiên âm là A Hàm Mộ, hay A Cấp Ma,
tương ứng với Nikāya trong
hệ thống Phật giáo Nam Truyền. Tứ A Hàm trong
Đại Tạng Kinh được dịch từ tiếng
Bắc Phạn (Sankrit), trong khi Nikāya chép bằng tiếng
Nam Phạn (Pali). A Hàm có nghĩa là lần lượt
lưu truyền. Du Già Sư Địa Luận quyển tám
mươi lăm giảng: “Bốn
loại như thế, do thầy trò lần lượt truyền
cho nhau đến nay; do đạo lý này, nên gọi là A Cấp
Ma”. Tứ A Hàm gồm bốn bộ Trường A Hàm
Kinh (Dīrgha Āgama, hai mươi hai quyển, do ngài Trúc
Phật Niệm dịch vào thời Diêu Tần, tương
ứng với bộ Dīgha Nikāya của Nam Tông), Trung
A Hàm Kinh (Madhyama Āgama, sáu mươi quyển, do ngài
Đàm Ma Nan Đề dịch vào thời Phù Tần,
tương ứng với bộ Majjhima Nikāya của Nam
Tông), Tạp A Hàm Kinh (Samyukta Āgama, năm mươi quyển,
do ngài Cầu Na Bạt Đà La và Bảo Vân dịch vào
đời Lưu Tống, tương ứng với
Samyutta Nikāya của Nam Tông), Tăng Nhất A Hàm (Ekottara
Āgama, năm mươi mốt quyển, do ngài Trúc Phật
Niệm dịch, tương ứng với Anguttara
Nikāya của Nam Tông).
[8] Thông thường nói là ba mươi ba ứng
thân, ở đây, chỉ nói ba mươi hai tức là không
kể thân Bồ Tát.
[9] Ngũ
Chỉ là chiếu pháp thanh hư ly duyên chỉ, quán nhân tịch
phạ tuyệt dục chỉ, tánh khởi phồn hưng
nhĩ chỉ, định quang hiển hiện vô niệm
chỉ, Sự Lý huyền thông phi tướng chỉ.
Lục Quán là: Nhiếp cảnh quy tâm chân
không quán, tùng tâm hiện cảnh diệu hữu quán, tâm cảnh
bí mật viên dung quán, trí thân ảnh hiện chúng duyên quán,
đa thân nhập nhất cảnh tượng quán, và chủ
bạn hỗ hiện đế võng quán.
Nếu muốn biết chi tiết các
phép Chỉ và Quán này, xin xem bộ Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng
Tận Hoàn Nguyên Quán do hòa thượng đã giảng.
[10] Khúc Lễ là một bộ phận của
sách Lễ Ký, chuyên giảng về những lễ tiết
nhỏ nhặt nhưng quan trọng trong cuộc sống.
[11] Đúng ra
phải đọc là Mai Côi (玫瑰: hoa hồng), nhưng thường bị
đọc trại thành Mân Côi, Văn Côi, Môi Côi, Mai Khôi, hay
Môi Khôi trong tiếng Việt. Bản kinh này vốn có tên bằng
tiếng Latin là Rosarium, có nghĩa là “vườn hồng”
hay “tràng hoa hồng” nhằm vinh danh Đức Mẹ Maria.
Thuật ngữ này cũng dùng để chỉ chuỗi hạt
thường được dùng trong khi cầu kinh của
Công Giáo. Thông thường, người Công Giáo tin bản
kinh này và chuỗi Mân Côi do chính Đức Mẹ truyền
cho thánh Dominic (Domingo, thánh Đa Minh) vào năm 1214. Khi thực
hành, tín hữu Công Giáo đọc kinh này ra tiếng hay đọc
thầm theo trình tự: Một kinh Lạy Cha (Pater
Noster), sau đó là mười kinh Kính Mừng (Ave
Maria), và kết thúc bằng một kinh Sáng Danh (Gloria
Patri), mỗi trình tự như thế gọi là một “mầu
nhiệm” (Mysteria, hay còn dịch là suy niệm), được
hiểu là một bộ mười kinh. Một “mầu
nhiệm” còn được gọi là một “sự”,
tương ứng với một sự kiện về cuộc
đời chúa Jesus và Đức Mẹ theo kinh Tân Ước.
Đến thế kỷ 16, kinh Mân Côi đã bao gồm
mười lăm “mầu nhiệm”, được chia làm
ba nhóm: Mầu nhiệm năm sự vui (Mysteria Gaudiosa), mầu
nhiệm năm sự thương (Mysteria Dolorosa), mầu
nhiệm năm sự mừng (Mysteria Gloriosa). Tất cả
hầu như không có gì thay đổi cho đến
năm 2002, Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ đệ nhị (John
Paul II) công bố thêm năm “mầu nhiệm” mới, đó
là “mầu nhiệm năm sự sáng” (Mysteria Luminosa). Do vậy,
kinh Mân Côi hiện thời có hai mươi “mầu nhiệm”.
[12] Đây là một chứng bệnh rối
loạn hệ thống miễn nhiễm (Immune system) của
con người, gây tổn hại nghiêm trọng đến
phổi, da, thận, tế bào máu, và tim. Trong căn bệnh
này, hệ thống miễn nhiễm của người bệnh
tự tấn công các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể,
khiến bệnh nhân bị viêm nhiễm lâu dài. Y giới vẫn
chưa biết rõ nguyên nhân của căn bệnh này. Bệnh
kéo dài dai dẳng, có lúc tiềm ẩn, rồi bùng phát, khiến
cho các tế bào bị tấn công, thân thể bệnh nhân
sưng phồng, lở loét, các khớp đau cứng, khó
thở, mệt mỏi, sốt cao, rụng tóc, lở miệng,
ngứa ngáy, sợ ánh sáng, sưng các hạch lâm-ba (lympho
nodes), nhức đầu, đau bụng, ói mửa, tim loạn
nhịp, ho ra máu, da mọc vảy nến, bong tróc, đầu
ngón tay tím tái. Trong trường hợp nghiêm trọng,
người bệnh không thể cử động, thậm
chí mặt sưng phù nề biến dạng trông hao hao
như mặt con sói nên mới gọi là Lupus. Chữ “hồng ban lang sang” (lở loét
nổi mẩn đỏ, mặt giống con sói) nhằm
hình dung tình trạng phù nề và biến chứng trên da của
người bệnh. Không rõ danh từ y khoa tiếng Việt
dịch căn bệnh này chính xác như thế nào, chứ
thuật ngữ y tế của Hà Nội dịch là “bệnh
lupus viêm ban đỏ” nghe không ổn lắm!
[13] Dân Mãn
Thanh sống chủ yếu ở vùng Liêu Ninh, tức ở
ngoài Sơn Hải Quan. Sơn Hải Quan là cửa ải trọng
yếu của cực Đông vùng Trung Nguyên, nằm giữa
ranh giới tỉnh Hà Bắc và Liêu Ninh. Sơn Hải Quan
thuộc rặng Yên Sơn, địa thế hiểm yếu.
Cái tên Sơn Hải Quan do đại tướng Từ
Đạt của nhà Minh đặt ra khi vâng chiếu tu bổ
Vạn Lý Trường Thành do nhận thấy ải này nằm
giữa Yên Sơn và Bột Hải.
(còn tiếp)
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment