Đệ tử Phật không có phân biệt
gái trai già trẻ, giàu nghèo sang hèn, xuất gia, tại gia. Chỉ cần phát tâm tin
Phật, quy y Tam Bảo, thực hành theo lời Phật dạy, đều gọi là đệ tử Phật...
KINH BÁT ĐẠI
NHÂN GIÁC
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang
Bài 1: Khái thuật về
Kinh Bát Đại Nhân Giác
Tôi rất hoan hỷ khi giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác, bộ thánh điển ứng dụng
nhập thế của Phật giáo, trước các vị thính chúng.
Trước khi giảng vào nội dung, tôi xin thuật khái quát về bộ Kinh này.
Tôi dự định sẽ giảng bộ Kinh này trong mười buổi. Kinh tên là Bát Đại Nhân
Giác, nội dung có tám điều giác ngộ của bậc đại nhân. Mỗi một điều tôi sẽ giảng
trong một bài, nên phần chánh tông sẽ có tám bài giảng. Còn đề Kinh, dịch giả,
phần tự tôi sẽ giảng một bài trong phần khái thuật. Phần lưu thông ở cuối Kinh
văn là phần tổng kết, cũng giảng một bài. Như vậy, tổng cộng là mười bài giảng.
Vì thế giảng thuyết Kinh này, tôi gọi là Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân
Giác(Phật Thuyết Bát Đại Nhân Giác Kinh Thập Giảng).
NHÂN DUYÊN PHẬT NÓI KINH NÀY
Phàm một việc gì cũng có nhân duyên của nó. Đức Phật vì sao lại giảng Kinh
này? Tất nhiên đây cũng có nhân duyên. Đó là lúc Phật ở tinh xá Kỳ Viên, một
hôm trong Pháp hội, tôn giả A Na Luật thiên nhãn đệ nhất thưa với Phật rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn, trong Tăng đoàn với tinh thần lục hòa, thì việc quên
mình, xả bỏ tự ngã là điều chúng con có thể làm được; đối với chúng sanh phải
tuyệt đối từ bi, tuyệt đối nhân ái, đây cũng là điều mà chúng con đã biết…
Nhưng bạch đức Thế Tôn! Những Phật tử tại gia học đạo rất nhiều, đệ tử xuất gia
tiếp cận xã hội hoằng Pháp lợi sinh cũng rất đông. Những vị như vậy làm thế nào
để cầu được giác ngộ, tiến nhập niết bàn? Cúi xin đức Thế Tôn từ bi khai thị!
Đức Phật an lành mĩm cười, hoan hỷ trả lời:
- Này A Na Luật, lời nói của ông rất đúng. Điều ông hỏi là vấn đề học hạnh
Đại nhân (Bồ tát). Tôi sẽ vì ông mà nói tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân, mà
đệ tử Phật nên ngày đêm chí tâm tụng niệm….
Đây chính là nhân duyên đức Phật giảng nói Kinh này.
BỐ CỤC KINH VĂN
Mở đầu tất cả Kinh Phật đều có: Ta nghe như vầy, một thuở Phật ở nơi đâu,
cùng với ai v.v…., gọi là sáu việc thành tựu. Vậy tại sao Kinh này lại không
có? Đây là do Kinh này không phải đức Phật nói ra trong một Pháp hội, mà là
trích đoạn những lời Phật dạy trong các Kinh khác, rồi biên tập lại, nên phần
tự của Kinh không có những câu Ta nghe như vầy v.v…, và phần lưu thông ở sau
cũng không có câu: Tin nhận vâng làm.
Bố cục của Kinh tuy không giống với các kinh khác, song vẫn có đầu đuôi,
điều mục rõ ràng, người học rất dễ dàng nắm được bản ý của Kinh văn.
NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ
Trong Phật giáo, phần đông các đại đức đều thừa nhận Kinh này rất thích hợp
cho hàng Phật tử tại gia thọ trì. Chúng ta thường nghe người ta đề xướng khẩu
hiệu: Phật giáo nhân sinh, Phật giáo tại gia. Nhưng rốt cuộc làm thế nào để
kiến lập nhân sinh Phật giáo? Như thế nào mới là tại gia Phật giáo? Điều này
nhất định phải y cứ vào thánh ngôn lượng để quyết đoán. Theo tôi nghĩ, Kinh này
là một quyển bảo điển trân quí nhất, để kiến lập nhân sinh Phật giáo, tu học
tại gia Phật giáo.
Phật giáo tuy có xuất gia, tại gia, song tín đồ tại gia lại chiếm đa số;
Phật giáo lại chia làm nhập thế và xuất thế, nhưng tinh thần vẫn chú trọng nhập
thế; Phật giáo lại có nhân sinh trong hiện thật và thọ sinh ở đời sau, nhưng
trọng điểm vẫn là nhân sinh trong hiện thật.
Kinh nói:
Phật Pháp vốn ở thế gian
Xin đừng tìm kiếm muôn ngàn cõi xa Bồ đề sẳn tại lòng ta
Tìm ngoài cuộc sống, chỉ là uổng công!
Xin đừng tìm kiếm muôn ngàn cõi xa Bồ đề sẳn tại lòng ta
Tìm ngoài cuộc sống, chỉ là uổng công!
Đại sư Thái Hư cũng nói: "Chỉ mong cầu quả Phật, song thành tựu hay
không là ở nơi nhân cách; nhân cách thành tựu thì Phật thành tựu, đây chính là
thực tế chân thật." Như vậy đủ thấy, Phật giáo nhân sinh và Phật giáo tại
gia có địa vị quan trọng như thế nào!
Do đó, Kinh Bát Đại Nhân Giác, quyển sách quí ứng dụng vào nhân sinh nhập
thế này, Kinh văn tuy ngắn chỉ vài trăm chữ mà giá trị lại vô cùng trọng yếu!
Tám điều giác ngộ như la bàn của nhà đi biển, chỉ ra con đường phía trước cho
nhân sinh! Tám điều giác ngộ như tiếng chuông vang vọng giữa đêm trường, đánh
thức những ai còn mơ màng trong giấc mộng! Cho nên, đây là Thánh điển giúp
chúng sinh nhận rõ đường mê, quay về nẻo giác; giúp người Phật tử tại gia cải
thiện, thăng hoa cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn!
GIẢI THÍCH ĐỀ KINH
Hán văn:
Phật thuyết Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Giảng nghĩa:
Đức Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni vốn là vương tử nước Ca Tỳ La Vệ ở Ấn Độ. Vì
muốn liễu sinh thoát tử, cứu độ chúng sinh, nên vào năm mười chín tuổi Ngài
quyết tâm lìa bỏ ngôi vua, xuất gia học đạo. Năm ba mươi mốt tuổi Ngài thành
tựu Vô thượng Chánh giác dước cội Bồ đề. Sau bốn mươi chín năm thuyết Pháp độ
sinh, Ngài nhập Niết bàn ở nước Câu Hy La, giữa hai cội cây Sala, khi vừa đúng
tám mươi tuổi. Tất cả tựa đề Kinh Phật đều có hai chữ Phật thuyết, có nghĩa tất
cả Kinh điển đều do đức Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni nói ra. Kinh này đương
nhiên cũng không ngoại lệ.
Khi giảng đề Kinh này, chúng ta trước phải hiểu ý nghĩa hai chữ Đại nhân. Vì
đại nhân ở đây không đồng nghĩa với chữ đại nhân trong khái niệm đại nhân va
tiểu nhân. Song nó cũng không phải chỉ người làm quan lớn, hay nhà kinh doanh
buôn bán lớn, vì Kinh này không phải chỉ cách cho người ta thăng quan hay phát
tài! Thực ra, Đại nhân ở đây là chỉ người lo việc liễu sinh thoát tử và rộng độ
chúng sinh, cũng chính là ý Bồ tát! ( Dịch giả viết hoa chữ Đại nhân, cũng là
để phân biệt với chữ đại nhân theo nghĩa mà người Trung Quốc thường dùng. )
Bồ tát nói lược của Bồ đề tát đỏa, dịch ý là giác hữu tình, tức là người lo
viê? giác ngộ cho mình và người; hay Đại đạo tâm chúng sinh, tức chúng sinh
phát đạo tâm lớn, trên cầu thành Phật dưới độ chúng sinh. Chúng tôi vừa nói đến
Bồ tát, có người liền nghĩ đến Bồ tát Quan Âm, Bồ tát Địa Tạng v.v…. Vâng, các
vị đó đều là Bồ tát. Nhưng Bồ tát Đại nhân ở đây chủ yếu là chỉ những người
bước vào cửa Phật, phát tâm học đạo. Các vị nghe xong chắc muốn hỏi: Người sao
lại có thể gọi là Bồ tát? Thực ra, Bồ tát không phải là tranh ảnh, cũng không
phải là những pho tượng làm bằng đồng, xi măng, thạch cao v.v…, được bày ở điện
Tam Bảo cho người cúng dường lễ bái. Bồ tát là tượng trưng cho những đức tính
sống động trong nhân sinh. Ai có nhiệt tình vô hạn, bi nguyện vô lượng, có thể
làm lợi ích cho mình, cho người, mới là Bồ tát sống chân chính!
Thế gian chỉ cần thêm một vị phát tâm Bồ đề: Trên cầu Phật đạo, dưới độ
chúng sinh, thì sẽ thêm một vị Bồ tát. Bồ tát vốn chia ra rất nhiều bậc: Thập
tín, thập hạnh, thập trụ, thập hồi hướng, thập địa, diệu giác v.v…, tất cả có
năm mươi mốt bậc. Các vị Bồ tát Quán Âm, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền đương
nhiên đều là Bồ tát từ thập địa trở lên. Nhưng nếu các vị là những người phát
tâm gánh vác sự nghiệp lớn giải thoát sinh tử, hóa độ chúng sinh, thì cũng có
thể gọi là Bồ tát. Song đây chẳng qua chỉ là Bồ tát mới phát tâm, hay Bồ tát
mới khởi lòng tin. Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại
nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác
ngo? nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân. (Bát Đại Nhân Giác
Kinh).
Nói đến sự giác ngộ của Bồ tát, là muốn đề cập vấn đề tâm yếu trong Phật
giáo. Phật giáo là tôn giáo cốt đem lại sự giác ngộ cho chúng sinh. Đức Phật vì
một nhân duyên lớn mà thị hiện ra đời, đó là khiến chúng sanh thể nhập tri kiến
Phật; chỉ dẫn chúng sinh bước đi trên con đường giác ngộ. Ngược lại với giác là
mê. Chúng sinh lang thang trong sinh tử, trôi lăn nơi sáu đường, quên mất bản
lai diện mục của mình, nên gọi là mê. Nay biết luân hồi là khổ, sinh tử đáng
sợ, nhận ra rằng phải dựa theo tám Pháp môn mà Kinh này chỉ dạy để tu hành, hầu
mong giác ngộ, giải thoát, gọi là giác.
Tập hợp tám ý nghĩa giúp chúng sanh giác ngộ lại, gọi là Kinh. Kinh có nghĩa
là con đường thẳng. Noi theo con đường thẳng mà Phật chỉ dạy để đi, sẽ đạt đến
mục đích liễu sinh thoát tử, tự tại an lạc. Phàm đạo lý mà có thể gọi là Kinh,
thì trên phải kế hợp với chân lý muôn đời không thay đổi, dưới phải khế hợp với
căn cơ chúng sinh muôn ngàn sai khác. Kinh này do đức Phật nói, là chỗ tu học
của chúng sinh phát Bồ đề tâm, cho nên tên là Phật Thuyết Kinh Tám Điều Giác
Ngộ Của Bậc Đại Nhân. (Bát Đại Nhân Giác Kinh).
KHẢO CHỨNG VỀ NGƯỜI DỊCH
Sa môn An Thế Cao, nước An Tức, đời Hậu Hán dịch.
Giảng Nghĩa:
Tất cả Kinh điển Phật nói vốn được ghi chép bằng Phạn văn Ấn Độ, nên phải
cần có dịch giả dịch sang chữ Hán. Người dịch Kinh này là Sa môn Pháp sư An Thế
Cao đời Hậu Hán. Hậu Hán là tên triều đại, chính là nhà Hậu Hán Quang Vũ Trung
Hưng của Trung Quốc. Nước An Tức là nước Ba Tư hiện nay. Sa môn là chỉ chung
cho người học đạo. Người Hoa dịch nghĩa là cần tức (??), ý nói: Siêng tu giới
định tuệ, dứt trừ tham sân si. Hậu Hán là chỉ thời đại An Thế Cao ra đời. Nước
An Tức là chỉ quê quán, còn Sa môn là chỉ thân phận của Ngài. An Thế Cao chính
là dịch giả của Kinh này.
Pháp sư An Thế Cao còn gọi là An Thanh, vốn là vương tử nước An Tức. Vốn là
người xem phú quí vinh hoa chỉ là vô thường, giả tạm, lại thêm chán cuộc sống
vua chúa suốt ngày phải phiền phức bởi chuyện triều chính, không được tự tại,
nên sau khi lên ngôi không bao lâu, Ngài liền nhường ngôi lại cho chú, còn mình
ra đi xuất gia, chỉ với bình bát, ca sa. Pháp sư bẩm sinh có thiên tài về ngôn
ngữ, thông hiểu hơn ba mươi thứ tiếng, nhất là tinh thông Hán văn, xem khắp các
Kinh, lại còn nghe hiểu được tiếng chim thú. Đời Ngài sự tích thần dị rất nhiều,
thế gian không sao lường hết chỗ cao thâm. Vào thời Hán Hoàn Đế, Ngài từ nước
An Tức đến Lạc Dương, phiên dịch Kinh điển tất cả hơn một trăm bộ, ngày nay còn
truyền lại chừng hơn ba mươi bộ. Kinh luận do Pháp sư phiên dịch nghĩa lý rõ
ràng, văn từ xác đáng, dùng từ không hoa mỹ mà văn chất lại chẳng quê mùa chút
nào. Trong lịch sử phiên dịch Kinh luận thời kỳ đầu ở Trung Quốc, Pháp sư An
Thế Cao được tán thán là vị đứng đầu. Qua đó có thể thấy, địa vị của Ngài trong
giới dịch thuật cao cả như thế nào.
GIẢNG VỀ PHẦN TỰA
Việt dịch:
Là đệ tử Phật ngày đêm nên thường chí tâm tụng niệm tám điều giác ngộ của
bậc đại nhân.
Giảng Nghĩa:
Pháp sư Đạo An đời Đông Tấn đã chia một bộ Kinh làm ba phần: Phần tự, phần
chánh tông và phần lưu thông. Lấy thân thể con người để tỉ dụ, Phần tự như đầu,
phần chánh tông như thân và phần lưu thông như chân. Pháp sư Đạo An phân phán
như thế, mọi người đều khen là: "Phân phán cao minh trùm thiên hạ, học giả
xưa nay thảy tuân hành". Như vậy đủ thấy, tính chính xác, cao minh trong
sự phân định của Ngài như thế nào.
Kinh này tuy không phải đức Phật nói trong một Pháp hội, nhưng cũng có phần
tự, phần chánh tông, phần lưu thông một cách hoàn chỉnh như những Kinh điển
khác. Đoạn Kinh ở trên, có thể được xem là phần tư, duyên khởi mở đầu cho bản
Kinh này.
Là đệ tử Phật sớm tối nên có công khoá tu trì nhất định. Trong các tự viện,
phần lớn lấy chú Lăng Nghiêm, Kinh Di Đà làm công khoá tu tập sớm tối. Thực ra,
theo phần tự của bản Kinh này, muốn thực hành Phật giáo nhân sinh, muốn cải biến
khí chất thân tâm của con người, phải lấy Kinh Bát Đại Nhân Giác làm thời khóa
tụng niệm sớm tối! Điều này thật vô cùng xác đáng.
Người Phật tử tại gia đương nhiên nên sớm tối thọ trì quyển Kinh này, song
hàng đệ tử xuất gia còn cần phải thọ trì hơn nữa. Đệ tử Phật không có phân biệt
gái trai già trẻ, giàu nghèo sang hèn, xuất gia, tại gia. Chỉ cần phát tâm tin
Phật, quy y Tam Bảo, thực hành theo lời Phật dạy, đều gọi là đệ tử Phật.
Đệ tử Phật phải đem tâm chí thành chí thiết, không giả dối, tạp loạn, bốn
mùa xuân hạ thu đông chẳng kể là sớm hay tối, đều phải luôn luôn ghi nhớ, miên
mật quán niệm tám điều mà Bồ tát nên giác ngộ này. Hoặc lớn tiếng tụng đọc,
hoặc niệm thầm trong tâm đều là cách tu trì tốt nhất.
Đệ tử Phật có bảy chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na ni, Sa di, Sa
di ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Kinh này đặc biệt thích hợp cho hàng Ưu bà tắc, Ưu
bà di thọ trì hơn cả.
Chúng tôi nay đem tám điều giác ngộ trong Kinh Bát Đại Nhân Giác trình bày ở
biểu đồ sau. Sau này chúng tôi sẽ dựa vào biểu đồ để giảng giải, mong rằng mọi
người cùng chí tâm thọ trì.
Dịch thơ:
Người con Phật phát tâm học đạo
Luôn ngày đêm y giáo phụng hành Đại nhân giác ngộ đành rành
Tám điều ghi nhớ, chí thành niệm tu.
Luôn ngày đêm y giáo phụng hành Đại nhân giác ngộ đành rành
Tám điều ghi nhớ, chí thành niệm tu.
************
Lược Sử Đại Sư An Thế Cao
Ngài tên Thanh, tự Thế Cao là vương tử nước An Tức (một nước cổ thuộc vùng
đất Ba Tư, phía tây bắc Ấn Độ hiện nay). Vì họ của Ngài lấy theo tên nước, nên
mới có các tên như An Thanh, An Hầu, An Thế Cao. Thuở nhỏ, An Thế Cao có tiếng
hiếu thảo, lại thêm thông tuệ, có chí cầu học; các sách vở nước ngoài, thiên
văn, địa lý, y học v.v…, thảy đều tinh thông. Đặc biệt về phương diện ngôn ngữ,
Ngài thông thạo hơn ba mươi sinh ngữ, cho đến nghe hiểu được tiếng chim thú.
Một hôm, An Thế Cao cùng các bạn đang đi trên đường, bổng gặp một đàn chim én
ríu rít, liền nói: Chúng bảo nhau sắp có người đem thức ăn đến. Một lát sau quả
nhiên như vậy! Mọi người ai cũng lấy làm kinh dị. Tiếng tăm của Ngài vì thế sớm
đã lừng lẫy khắp nơi.
Thế Cao tuy ở nhà mà giữ gìn giới pháp vô cùng nghiêm tịnh. Sau khi vua cha
mất, Ngài lên nối ngôi, song do thấu đáo lẽ vô thường khổ không, nên sớm đã xem
vinh hoa phú quý như bèo bọt mây nổi. Khi mãn tang cha xong, Thế Cao liền
nhường ngôi lại cho chú, còn mình xuất gia du phương học đạo. Với tài đức sẵn
có, chẳng bao lâu Ngài đã thông đạt Tam Tạng, sở trường về A Tỳ Đàm và thiền
quán đến mức nhập diệu. Sau đó, Thế Cao đi qua các nước ở Tây Vực để hoằng hóa;
vào niên hiệu Kiến Hòa thứ 2 đời Đông Hán Hoàn Đế (148), lại đến Lạc Dương
Trung Quốc. Với sức thông tuệ nghe một biết ngàn, Ngài ở đây chẳng bao lâu đã
thông thạo tiếng Hoa và tham gia công tác dịch thuật hơn hai mươi năm (đến niên
hiệu Kiến Ninh thứ 3 đời Hán Linh Đế – 170). Đây là thời kỳ đầu của Phật giáo Trung
Quốc, thuật ngữ Phật giáo còn chưa phong phú, ít có người thông thạo cả hai thứ
tiếng Phạn và Hoa nên việc dịch thuật rất khó khăn và khó tránh có chỗ lầm lẫn.
Thế Cao nhờ là người Tây Vực, lại thông thạo cả hai ngôn ngữ, nên dịch Kinh rất
chính xác. Kinh điển Ngài dịch nghĩa lý rõ ràng, văn từ xác đáng, lời không hoa
mỹ mà văn chất lại chẳng quê mùa chút nào. Độc giả đọc văn, ai cũng say mê
không biến chán. Ngài được đánh giá là vị đứng đầu trong các nhà dịch thuật
thời đó, là một trong những vị mở đường, đặt nền móng cho Phật giáo Trung Quốc.
Những Kinh Ngài dịch như An Ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập, A Tỳ Đàm, Ngũ Pháp Tứ Đế,
Thập Nhị Nhân Duyên, Chuyển Pháp Luân, Bát Chánh Đạo, Thiền Hành Pháp Tưởng , Tu
Hành Đạo v.v…, khoảng ba mươi bốn bộ, bốn mươi quyển. Đây là theo Tam Tạng Ký.
Ngoài ra còn nhiều thuyết khác, như Cao Tăng Truyện nói có ba mươi chín bộ….
Thế Cao là người thông đạt sự lý, biết rõ nghiệp duyên của mình. Sự tích
thần dị về đời Ngài thật không ai lường nổi.Thế Cao từng nói tiền thân của mình
là một vị xuất gia ở chung với người bạn đồng tu. Vị này ưa thích bố thí cúng
dường nhưng tánh tình lại hay sân hận. Mỗi khi đi khất thực, gặp thí chủ nào
trái ý là ông liền nổi giận. Thế Cao từng nhiều lần khuyên bảo mà ông ta vẫn
không ăn năn cải đổi. Như thế hơn hai mươi năm, một hôm Ngài từ biệt người bạn
ấy ra đi, nói rằng:
- Tôi đi Quảng Châu để trả cho hết túc nghiệp. Ông tinh tấn, thông đạt Kinh
điển chẳng kém gì tôi, nhưng tánh còn nhiều sân hận. Sau khi mạng chung, e rằng
ông phải bị đọa, mang thân hình xấu xa đáng sợ. Nếu tôi đắc đạo sẽ đến độ ông.
Sau đó Thế Cao đến Quảng Châu, gặp thời giặc cướp hoành hành, khắp nơi loạn
lạc. Trên đường Ngài gặp một tên thiếu niên, hắn ta rút dao ra nói:
- Ta tìm gặp được ngươi rồi!
Ngài mỉm cười trả lời:
- Ta vì đời trước mắc nợ mạng của ông, nên từ xa đến đây để trả. Ông sở dĩ
gặp ta liền nổi sân, là do có lòng hờn giận từ đời trước.
Nói xong, thản nhiên không chút sợ hãi, ung dung đưa cổ cho chém! Lúc ấy, người
xem đứng chật cả hai bên đường, không ai là không kinh dị.
Sau đó, thần thức Thế Cao thác sinh lại làm vương tử nước An Tức, chính là
An Thế Cao hiện đời. Sau khi du hóa Trung Quốc, việc dịch Kinh hoằng Pháp đã
xong, gặp loạn Mạc Quan Lạc thời Hán Linh Đế (niên hiệu Kiến Ninh thứ ba - 170)
Ngài bèn chấn tích đi đến Giang Nam, nói rằng: Tôi sẽ đến Giang Nam để độ người
bạn đồng tu xưa.
Thuyền đi đến hồ Cung Đình. Nơi đây có một miếu thờ thần nổi tiếng linh
thiêng. Các thương khách đi ngang nếu ghé lại cúng lễ, thì đi đường sẽ xuôi
buồm thuận gió. Trước đây từng có người đến đốn trộm trúc trồng ở quanh miếu,
rồi cho thuyền chở đi. Nhưng thuyền đi được một đỗi liền bị lật chìm, trúc trôi
trở lại nơi cũ. Từ đó thuyền nhân đều kinh sợ, không ai dám động phạm đến miếu
này. Lúc An Thế Cao cùng hơn ba mươi người khách đồng thuyền đi ngang qua, một
vài người đại diện mang lễ vật lên miếu cúng tế để cầu bình an. Thần miếu liền
giáng xuống bảo rằng: Trong thuyền có Sa môn, xin mời lên đây! Mọi người đều
kinh ngạc, vội mời An Thế Cao lên miếu.
Ngài vào miếu, thần liền bảo:
- Thuở xưa tôi cùng Ngài xuất gia học đạo. Tôi thích bố thí mà tánh lại hay
sân hận nên phải bị đọa làm thần giữ miếu ở hồ Cung Đình, cai quản chu vi cả
ngàn dặm. Tôi nhờ phước bố thí nên tài vật dồi dào, song do sân hận phải bị đọa
làm thần giữ miếu. Nay gặp lại bạn tu xưa thật vui buồn lẫn lộn, khôn xiết bùi
ngùi. Thọ mạng tôi chẳng còn bao lâu. Thân hình to lớn xấu ác của tôi nếu chết
ở đây e rằng sẽ làm ô uế sông hồ, nên định dời sang đầm Sơn Tây. Tôi chết đi sợ
sẽ đọa vào địa ngục. Tôi có ngàn xấp lụa và các thứ bảo vật, xin Ngài nhận lấy
để xây chùa tháp, cầu siêu độ cho tôi.
An Thế Cao nói:
- Tôi đến đây là cốt để độ ông. Sao ông không hiện ra cho thấy nguyên hình?
Thần đáp:
- Thân tôi quá xấu xa đáng sợ, e rằng khiến mọi người kinh hãi.
Thế Cao bảo:
- Xin chỉ hiện một phần nào mà mọi người trông thấy không kinh sợ.
Thần liền từ phía sau giường đưa đầu lên. Thì ra là con mãng xà lớn, không
biết cả mình dài bao nhiêu, chỉ thấy đầu cao đến gối. Ngài An Thế Cao liền đọc
vài biến Kinh tiếng Phạn cho nó nghe. Nghe xong, mãng xà buồn bã, lệ rơi lã
chã, giây lát liền ẩn mất.
Sau đó, Thế Cao thu dọn lụa là và đồ vật trong miếu rồi xuống thuyền ra đi.
Thuyền dong buồm rời bến, mãng xà leo lên núi nhìn theo đến hút tầm mắt. Khi
đến Dự Chương, Ngài đem những đồ vật của thần miếu dùng vào việc xây cất chùa
Đông Tự.
Lúc Thế Cao đi rồi, thần mạng chung. Tối đến, mọi người thấy có một thiếu
niên đến quì trước An Thế Cao nhận lời chú nguyện, giây lát bổng nhiên không
thấy đâu cả. Thế Cao nói với những người chung thuyền:
- Thiếu niên đó chính là vị thần ở ngôi miếu tại hồ Cung Đình, nay đã thoát
được thân xấu ác.
Từ đó miếu hết linh thiêng. Sau này người ta thấy một con mãng xà rất lớn
chết ở đầm Sơn Tây, đầu đuôi dài đến mấy dặm! Nơi đây nay trở thành Xà thôn
(làng Rắn) ở huyện Tầm Dương.
An Thế Cao sau đó đi Quảng Châu, tìm đến nhà vị thiếu niên đời trước giết
mình. Vị thiếu niên kia nay vẫn còn, song đã trở thành ông lão tóc bạc. Thế Cao
gặp vị đó, liền nhắc lại chuyện trả nợ mạng xưa kia của mình và nói rõ nhân
duyên đời trước, rồi hoan hỷ bảo: Ta nay vẫn còn chút dư báo, nên phải đi Cối
Kê để trả cho xong!
Vị khách Quảng Châu đó nhận ra Thế Cao là bậc phi phàm nên chợt tỉnh ngộ, ăn
năn tội lỗi trước kia. Từ đó vô cùng cung kính An Thế Cao và tình nguyện đi
theo đến Cối Kê. Đến nơi vào chợ, gặp lúc có loạn, người ta đánh lầm trúng đầu
Ngài, nhân đó liền qua đời. Vị khách Quảng Châu hai lần chứng kiến việc trả báo
của Ngài nên vô cùng tin sợ nhân quả, tinh tấn tu tập và thuật lại đầu đuôi câu
chuyện này cho mọi người biết. Xa gần hay biết, không ai là không thương tiếc!
Soạn dịch theo Cao Tăng Truyện và Phật Quang Đại Từ Điển
********************
Bài 1: Khái thuật về
Kinh Bát Đại Nhân Giác
Tôi rất hoan hỷ khi giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác, bộ thánh điển ứng dụng
nhập thế của Phật giáo, trước các vị thính chúng.
Trước khi giảng vào nội dung, tôi xin thuật khái quát về bộ Kinh này.
Tôi dự định sẽ giảng bộ Kinh này trong mười buổi. Kinh tên là Bát Đại Nhân
Giác, nội dung có tám điều giác ngộ của bậc đại nhân. Mỗi một điều tôi sẽ giảng
trong một bài, nên phần chánh tông sẽ có tám bài giảng. Còn đề Kinh, dịch giả,
phần tự tôi sẽ giảng một bài trong phần khái thuật. Phần lưu thông ở cuối Kinh
văn là phần tổng kết, cũng giảng một bài. Như vậy, tổng cộng là mười bài giảng.
Vì thế giảng thuyết Kinh này, tôi gọi là Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân
Giác(Phật Thuyết Bát Đại Nhân Giác Kinh Thập Giảng).
NHÂN DUYÊN PHẬT NÓI KINH NÀY
Phàm một việc gì cũng có nhân duyên của nó. Đức Phật vì sao lại giảng Kinh
này? Tất nhiên đây cũng có nhân duyên. Đó là lúc Phật ở tinh xá Kỳ Viên, một
hôm trong Pháp hội, tôn giả A Na Luật thiên nhãn đệ nhất thưa với Phật rằng:
- Bạch Đức Thế Tôn, trong Tăng đoàn với tinh thần lục hòa, thì việc quên
mình, xả bỏ tự ngã là điều chúng con có thể làm được; đối với chúng sanh phải
tuyệt đối từ bi, tuyệt đối nhân ái, đây cũng là điều mà chúng con đã biết…
Nhưng bạch đức Thế Tôn! Những Phật tử tại gia học đạo rất nhiều, đệ tử xuất gia
tiếp cận xã hội hoằng Pháp lợi sinh cũng rất đông. Những vị như vậy làm thế nào
để cầu được giác ngộ, tiến nhập niết bàn? Cúi xin đức Thế Tôn từ bi khai thị!
Đức Phật an lành mĩm cười, hoan hỷ trả lời:
- Này A Na Luật, lời nói của ông rất đúng. Điều ông hỏi là vấn đề học hạnh
Đại nhân (Bồ tát). Tôi sẽ vì ông mà nói tám điều giác ngộ của bậc Đại nhân, mà
đệ tử Phật nên ngày đêm chí tâm tụng niệm….
Đây chính là nhân duyên đức Phật giảng nói Kinh này.
BỐ CỤC KINH VĂN
Mở đầu tất cả Kinh Phật đều có: Ta nghe như vầy, một thuở Phật ở nơi đâu,
cùng với ai v.v…., gọi là sáu việc thành tựu. Vậy tại sao Kinh này lại không
có? Đây là do Kinh này không phải đức Phật nói ra trong một Pháp hội, mà là
trích đoạn những lời Phật dạy trong các Kinh khác, rồi biên tập lại, nên phần
tự của Kinh không có những câu Ta nghe như vầy v.v…, và phần lưu thông ở sau
cũng không có câu: Tin nhận vâng làm.
Bố cục của Kinh tuy không giống với các kinh khác, song vẫn có đầu đuôi,
điều mục rõ ràng, người học rất dễ dàng nắm được bản ý của Kinh văn.
NỘI DUNG VÀ GIÁ TRỊ
Trong Phật giáo, phần đông các đại đức đều thừa nhận Kinh này rất thích hợp
cho hàng Phật tử tại gia thọ trì. Chúng ta thường nghe người ta đề xướng khẩu
hiệu: Phật giáo nhân sinh, Phật giáo tại gia. Nhưng rốt cuộc làm thế nào để
kiến lập nhân sinh Phật giáo? Như thế nào mới là tại gia Phật giáo? Điều này
nhất định phải y cứ vào thánh ngôn lượng để quyết đoán. Theo tôi nghĩ, Kinh này
là một quyển bảo điển trân quí nhất, để kiến lập nhân sinh Phật giáo, tu học
tại gia Phật giáo.
Phật giáo tuy có xuất gia, tại gia, song tín đồ tại gia lại chiếm đa số;
Phật giáo lại chia làm nhập thế và xuất thế, nhưng tinh thần vẫn chú trọng nhập
thế; Phật giáo lại có nhân sinh trong hiện thật và thọ sinh ở đời sau, nhưng
trọng điểm vẫn là nhân sinh trong hiện thật.
Kinh nói:
Phật Pháp vốn ở thế gian
Xin đừng tìm kiếm muôn ngàn cõi xa Bồ đề sẳn tại lòng ta
Tìm ngoài cuộc sống, chỉ là uổng công!
Xin đừng tìm kiếm muôn ngàn cõi xa Bồ đề sẳn tại lòng ta
Tìm ngoài cuộc sống, chỉ là uổng công!
Đại sư Thái Hư cũng nói: "Chỉ mong cầu quả Phật, song thành tựu hay
không là ở nơi nhân cách; nhân cách thành tựu thì Phật thành tựu, đây chính là
thực tế chân thật." Như vậy đủ thấy, Phật giáo nhân sinh và Phật giáo tại
gia có địa vị quan trọng như thế nào!
Do đó, Kinh Bát Đại Nhân Giác, quyển sách quí ứng dụng vào nhân sinh nhập
thế này, Kinh văn tuy ngắn chỉ vài trăm chữ mà giá trị lại vô cùng trọng yếu!
Tám điều giác ngộ như la bàn của nhà đi biển, chỉ ra con đường phía trước cho
nhân sinh! Tám điều giác ngộ như tiếng chuông vang vọng giữa đêm trường, đánh
thức những ai còn mơ màng trong giấc mộng! Cho nên, đây là Thánh điển giúp
chúng sinh nhận rõ đường mê, quay về nẻo giác; giúp người Phật tử tại gia cải
thiện, thăng hoa cuộc sống ngày một tốt đẹp hơn!
GIẢI THÍCH ĐỀ KINH
Hán văn:
Phật thuyết Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân.
Giảng nghĩa:
Đức Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni vốn là vương tử nước Ca Tỳ La Vệ ở Ấn Độ. Vì
muốn liễu sinh thoát tử, cứu độ chúng sinh, nên vào năm mười chín tuổi Ngài
quyết tâm lìa bỏ ngôi vua, xuất gia học đạo. Năm ba mươi mốt tuổi Ngài thành
tựu Vô thượng Chánh giác dước cội Bồ đề. Sau bốn mươi chín năm thuyết Pháp độ
sinh, Ngài nhập Niết bàn ở nước Câu Hy La, giữa hai cội cây Sala, khi vừa đúng
tám mươi tuổi. Tất cả tựa đề Kinh Phật đều có hai chữ Phật thuyết, có nghĩa tất
cả Kinh điển đều do đức Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni nói ra. Kinh này đương
nhiên cũng không ngoại lệ.
Khi giảng đề Kinh này, chúng ta trước phải hiểu ý nghĩa hai chữ Đại nhân. Vì
đại nhân ở đây không đồng nghĩa với chữ đại nhân trong khái niệm đại nhân va
tiểu nhân. Song nó cũng không phải chỉ người làm quan lớn, hay nhà kinh doanh
buôn bán lớn, vì Kinh này không phải chỉ cách cho người ta thăng quan hay phát
tài! Thực ra, Đại nhân ở đây là chỉ người lo việc liễu sinh thoát tử và rộng độ
chúng sinh, cũng chính là ý Bồ tát! ( Dịch giả viết hoa chữ Đại nhân, cũng là
để phân biệt với chữ đại nhân theo nghĩa mà người Trung Quốc thường dùng. )
Bồ tát nói lược của Bồ đề tát đỏa, dịch ý là giác hữu tình, tức là người lo
viê? giác ngộ cho mình và người; hay Đại đạo tâm chúng sinh, tức chúng sinh
phát đạo tâm lớn, trên cầu thành Phật dưới độ chúng sinh. Chúng tôi vừa nói đến
Bồ tát, có người liền nghĩ đến Bồ tát Quan Âm, Bồ tát Địa Tạng v.v…. Vâng, các
vị đó đều là Bồ tát. Nhưng Bồ tát Đại nhân ở đây chủ yếu là chỉ những người
bước vào cửa Phật, phát tâm học đạo. Các vị nghe xong chắc muốn hỏi: Người sao
lại có thể gọi là Bồ tát? Thực ra, Bồ tát không phải là tranh ảnh, cũng không
phải là những pho tượng làm bằng đồng, xi măng, thạch cao v.v…, được bày ở điện
Tam Bảo cho người cúng dường lễ bái. Bồ tát là tượng trưng cho những đức tính
sống động trong nhân sinh. Ai có nhiệt tình vô hạn, bi nguyện vô lượng, có thể
làm lợi ích cho mình, cho người, mới là Bồ tát sống chân chính!
Thế gian chỉ cần thêm một vị phát tâm Bồ đề: Trên cầu Phật đạo, dưới độ
chúng sinh, thì sẽ thêm một vị Bồ tát. Bồ tát vốn chia ra rất nhiều bậc: Thập
tín, thập hạnh, thập trụ, thập hồi hướng, thập địa, diệu giác v.v…, tất cả có
năm mươi mốt bậc. Các vị Bồ tát Quán Âm, Địa Tạng, Văn Thù, Phổ Hiền đương
nhiên đều là Bồ tát từ thập địa trở lên. Nhưng nếu các vị là những người phát
tâm gánh vác sự nghiệp lớn giải thoát sinh tử, hóa độ chúng sinh, thì cũng có
thể gọi là Bồ tát. Song đây chẳng qua chỉ là Bồ tát mới phát tâm, hay Bồ tát
mới khởi lòng tin. Kinh này có tám phương pháp tu hành thành Phật, mà bậc Đại
nhân gánh vác sự nghiệp lớn liễu sinh thoát tử, hóa độ chúng sinh cần phải giác
ngo? nên gọi là Kinh Tám Điều Giác Ngộ Của Bậc Đại Nhân. (Bát Đại Nhân Giác
Kinh).
Nói đến sự giác ngộ của Bồ tát, là muốn đề cập vấn đề tâm yếu trong Phật
giáo. Phật giáo là tôn giáo cốt đem lại sự giác ngộ cho chúng sinh. Đức Phật vì
một nhân duyên lớn mà thị hiện ra đời, đó là khiến chúng sanh thể nhập tri kiến
Phật; chỉ dẫn chúng sinh bước đi trên con đường giác ngộ. Ngược lại với giác là
mê. Chúng sinh lang thang trong sinh tử, trôi lăn nơi sáu đường, quên mất bản
lai diện mục của mình, nên gọi là mê. Nay biết luân hồi là khổ, sinh tử đáng
sợ, nhận ra rằng phải dựa theo tám Pháp môn mà Kinh này chỉ dạy để tu hành, hầu
mong giác ngộ, giải thoát, gọi là giác.
Tập hợp tám ý nghĩa giúp chúng sanh giác ngộ lại, gọi là Kinh. Kinh có nghĩa
là con đường thẳng. Noi theo con đường thẳng mà Phật chỉ dạy để đi, sẽ đạt đến
mục đích liễu sinh thoát tử, tự tại an lạc. Phàm đạo lý mà có thể gọi là Kinh,
thì trên phải kế hợp với chân lý muôn đời không thay đổi, dưới phải khế hợp với
căn cơ chúng sinh muôn ngàn sai khác. Kinh này do đức Phật nói, là chỗ tu học
của chúng sinh phát Bồ đề tâm, cho nên tên là Phật Thuyết Kinh Tám Điều Giác
Ngộ Của Bậc Đại Nhân. (Bát Đại Nhân Giác Kinh).
KHẢO CHỨNG VỀ NGƯỜI DỊCH
Sa môn An Thế Cao, nước An Tức, đời Hậu Hán dịch.
Giảng Nghĩa:
Tất cả Kinh điển Phật nói vốn được ghi chép bằng Phạn văn Ấn Độ, nên phải
cần có dịch giả dịch sang chữ Hán. Người dịch Kinh này là Sa môn Pháp sư An Thế
Cao đời Hậu Hán. Hậu Hán là tên triều đại, chính là nhà Hậu Hán Quang Vũ Trung
Hưng của Trung Quốc. Nước An Tức là nước Ba Tư hiện nay. Sa môn là chỉ chung
cho người học đạo. Người Hoa dịch nghĩa là cần tức (??), ý nói: Siêng tu giới
định tuệ, dứt trừ tham sân si. Hậu Hán là chỉ thời đại An Thế Cao ra đời. Nước
An Tức là chỉ quê quán, còn Sa môn là chỉ thân phận của Ngài. An Thế Cao chính
là dịch giả của Kinh này.
Pháp sư An Thế Cao còn gọi là An Thanh, vốn là vương tử nước An Tức. Vốn là
người xem phú quí vinh hoa chỉ là vô thường, giả tạm, lại thêm chán cuộc sống
vua chúa suốt ngày phải phiền phức bởi chuyện triều chính, không được tự tại,
nên sau khi lên ngôi không bao lâu, Ngài liền nhường ngôi lại cho chú, còn mình
ra đi xuất gia, chỉ với bình bát, ca sa. Pháp sư bẩm sinh có thiên tài về ngôn
ngữ, thông hiểu hơn ba mươi thứ tiếng, nhất là tinh thông Hán văn, xem khắp các
Kinh, lại còn nghe hiểu được tiếng chim thú. Đời Ngài sự tích thần dị rất nhiều,
thế gian không sao lường hết chỗ cao thâm. Vào thời Hán Hoàn Đế, Ngài từ nước
An Tức đến Lạc Dương, phiên dịch Kinh điển tất cả hơn một trăm bộ, ngày nay còn
truyền lại chừng hơn ba mươi bộ. Kinh luận do Pháp sư phiên dịch nghĩa lý rõ
ràng, văn từ xác đáng, dùng từ không hoa mỹ mà văn chất lại chẳng quê mùa chút
nào. Trong lịch sử phiên dịch Kinh luận thời kỳ đầu ở Trung Quốc, Pháp sư An
Thế Cao được tán thán là vị đứng đầu. Qua đó có thể thấy, địa vị của Ngài trong
giới dịch thuật cao cả như thế nào.
GIẢNG VỀ PHẦN TỰA
Việt dịch:
Là đệ tử Phật ngày đêm nên thường chí tâm tụng niệm tám điều giác ngộ của
bậc đại nhân.
Giảng Nghĩa:
Pháp sư Đạo An đời Đông Tấn đã chia một bộ Kinh làm ba phần: Phần tự, phần
chánh tông và phần lưu thông. Lấy thân thể con người để tỉ dụ, Phần tự như đầu,
phần chánh tông như thân và phần lưu thông như chân. Pháp sư Đạo An phân phán
như thế, mọi người đều khen là: "Phân phán cao minh trùm thiên hạ, học giả
xưa nay thảy tuân hành". Như vậy đủ thấy, tính chính xác, cao minh trong
sự phân định của Ngài như thế nào.
Kinh này tuy không phải đức Phật nói trong một Pháp hội, nhưng cũng có phần
tự, phần chánh tông, phần lưu thông một cách hoàn chỉnh như những Kinh điển
khác. Đoạn Kinh ở trên, có thể được xem là phần tư, duyên khởi mở đầu cho bản
Kinh này.
Là đệ tử Phật sớm tối nên có công khoá tu trì nhất định. Trong các tự viện,
phần lớn lấy chú Lăng Nghiêm, Kinh Di Đà làm công khoá tu tập sớm tối. Thực ra,
theo phần tự của bản Kinh này, muốn thực hành Phật giáo nhân sinh, muốn cải biến
khí chất thân tâm của con người, phải lấy Kinh Bát Đại Nhân Giác làm thời khóa
tụng niệm sớm tối! Điều này thật vô cùng xác đáng.
Người Phật tử tại gia đương nhiên nên sớm tối thọ trì quyển Kinh này, song
hàng đệ tử xuất gia còn cần phải thọ trì hơn nữa. Đệ tử Phật không có phân biệt
gái trai già trẻ, giàu nghèo sang hèn, xuất gia, tại gia. Chỉ cần phát tâm tin
Phật, quy y Tam Bảo, thực hành theo lời Phật dạy, đều gọi là đệ tử Phật.
Đệ tử Phật phải đem tâm chí thành chí thiết, không giả dối, tạp loạn, bốn
mùa xuân hạ thu đông chẳng kể là sớm hay tối, đều phải luôn luôn ghi nhớ, miên
mật quán niệm tám điều mà Bồ tát nên giác ngộ này. Hoặc lớn tiếng tụng đọc,
hoặc niệm thầm trong tâm đều là cách tu trì tốt nhất.
Đệ tử Phật có bảy chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na ni, Sa di, Sa
di ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di. Kinh này đặc biệt thích hợp cho hàng Ưu bà tắc, Ưu
bà di thọ trì hơn cả.
Chúng tôi nay đem tám điều giác ngộ trong Kinh Bát Đại Nhân Giác trình bày ở
biểu đồ sau. Sau này chúng tôi sẽ dựa vào biểu đồ để giảng giải, mong rằng mọi
người cùng chí tâm thọ trì.
Dịch thơ:
Người con Phật phát tâm học đạo
Luôn ngày đêm y giáo phụng hành Đại nhân giác ngộ đành rành
Tám điều ghi nhớ, chí thành niệm tu.
Luôn ngày đêm y giáo phụng hành Đại nhân giác ngộ đành rành
Tám điều ghi nhớ, chí thành niệm tu.
(Còn tiếp)
(Nguồn: thuvienhoasen.com)
0 Kommentare:
Post a Comment