Đối với
những người không tin vào một tôn giáo nào, cũng không bước theo một con đường tâm
linh nào, có nghĩa là sự suy nghĩ của họ tách ra ngoài các quan điểm mang tính
cách tín ngưỡng về thế giới, thì điều quan trọng hơn hết đối với họ trong lúc lâm
chung là phải giữ được sự bình thản, thư giãn, và phải ý thức thật minh bạch
trong nội tâm mình là cái chết cũng chỉ là một quá trình tự nhiên, thuộc thành
phần của chính sự sống...
SUY TƯ VỀ CÁC CẢNH HUỐNG
TRONG CUỘC SỐNG
Suy tư về bệnh tật
98
Ngày nay ngành y khoa đã đạt được
nhiều tiến bộ khả quan. Tuy nhiên trong lãnh vực phòng ngừa kể cả việc chữa trị
thì sức mạnh tâm thần vẫn luôn giữ một vai trò chủ yếu. Điều này thật hết sức hiển nhiên.
99
Dù bệnh
trạng biến chuyển như thế nào thì cũng phải hiểu rằng có hốt hoảng cũng chẳng giải
quyết được gì cả mà cũng chỉ là cách ghép thêm khổ đau vào đau khổ mà thôi (hốt hoảng cũng là một thể dạng khổ đau).
Tôi vẫn thường nhắc đến lời khuyên rất thiết thực của nhà hiền triết Ấn-độ
Shantideva/Tịch Thiên, đại khái như sau: "Nếu đã có một giải pháp thì lo lắng
để mà làm gì, cứ mang giải pháp ấy ra mà áp dụng. Nếu không còn một giải pháp nào
nữa thì lo lắng cũng chỉ là vô ích, chỉ làm cho sự đau đớn gay gắt thêm mà thôi".
100
Phòng
ngừa là phương thuốc chữa trị hiệu nghiệm nhất. Phương thuốc đó liên hệ đến ẩm thực
và phong cách hành xử trong cuộc sống thường nhật của minh. Nhiều người lạm dụng
rượu chè và thuốc lá. Họ tự hủy hại sức khỏe của mình chỉ vì một chút thích thú
nhỏ nhoi và tạm bợ, tạo ra bởi mùi vị và sự kích thích của các thứ ấy. Nhiều
người khác thì ăn quá nhiều mà mang bệnh. Tôi được biết nhiều người tu hành trong
khi ẩn cư nơi rừng núi trong các chiếc am hẻo lánh thì có sức khỏe tốt. Thế nhưng
mỗi khi về thăm gia đình hay bè bạn vào các dịp Tết hay lễ lạc, thì họ không sao
kềm hãm được sự tham ăn và đã ngã bệnh (Ngài
bật cười).
101
Đức
Phật nói với các tỳ kheo (các đệ tử) rằng
nếu ăn uống không đầy đủ thì cơ thể sẽ bạc nhược, đó là một sự sai lầm, thế nhưng
Ngài cũng cho biết thêm là nếp sống phủ phê cũng là một cách làm tiêu hao công đức
(1) của mình mà thôi. Đấy là cách mà Ngài khuyên chúng ta hãy giảm bớt các sự
thèm khát và biết an phận với những gì mình có, hầu giúp mình thăng tiến nhanh chóng
hơn trên đường tu tập và mang lại cho mình một sức khỏe tốt. Ăn uống quá nhiều
hay quá ít đều khiến mình mang bệnh. Trong cuộc sống thường nhật tốt hơn nên tránh
mọi hình thức thái quá.
(1) Công đức trong Phật giáo
có nghĩa là các hành động tốt lành mà mình đã thực hiện được, nhưng cũng có
nghĩa là các luồng khí lực tích cực tạo ra bởi các hành động đó, chúng ăn sâu vào
"dòng luân lưu của tri thức" một cá thể. Các luồng khí lực đó sẽ tạo ra các xu hướng tâm
thần thuận lợi mang lại hạnh phúc cho mình. Sớm muộn gì thì các tác động đó sẽ xảy
ra với mình, tất cả tùy vào các luồng khí lực đó có được kết hợp hay không với
các luồng khí lực khác mang tính cách tích cực, hoặc cũng có thể là tiêu cực. Hơn
nữa dưới tác động của nguyên lý tương liên/lý duyên khởi các luồng khí lực đó còn
có thể tạo ra cho mình các điều kiện thuận lợi về mặt vật chất, chẳng hạn như sức
khỏe tốt, sự giàu có, v.v. (ghi chú
trong sách của dịch giả Christian Bruyat - gcts).
Công đức (merit, virtue) còn gọi
là đạo hạnh hay các điều xứng đáng, tiếng Pa-li là punna, tiếng Phạn là punya, hoặc
vừa tiếng Phạn và tiếng Pa-li là kusala, là một khái niệm mang ý nghĩa rất rộng
và rất quan trọng trong Phật giáo, phản ảnh các hành động đạo đức của người tu
hành, đồng thời cũng nói lên một phép tu căn bản và tiên khởi nhất trên đường
tu tập gọi là "tu giới". Các "năng lực" hay "xúc cảm"
tạo ra bởi các hành động tốt lành - gọi chung là công đức - sẽ lưu lại các dấu
vết in đậm trên dòng tri thức một cá thể . Các dấu vết này sẽ hiển hiện trở lại
và trở thành các xu hướng tâm thần hay các xúc cảm, khi chúng tiếp xúc với các
bối cảnh và các điều kiện của môi trường bên ngoài - xuyên qua các sự cảm nhận
của ngũ giác - phù hợp và thích nghi với chúng.
Những xu hướng và xúc cảm đó sẽ
tạo ra cho cá thể ấy các cảm nhận hạnh phúc, hoặc cũng có thể là các thúc đẩy tâm
thần khiến cá thể ấy thực hiện thêm các hành động tích cực khác để tiếp tục tạo
ra các công đức khác. Dưới tác động của quy luật nguyên-nhân-hậu-quả, các hành
động đó sẽ mang lại các điều tốt lành cho cá thể ấy. Các điều tốt lành này sẽ xảy
ra với cá thể ấy, chỉ sớm hay muộn mà thôi, tất cả đều tùy thuộc vào tác động gây
ra bởi các hành động khác, có thể là tích cực hay tiêu cực. Dầu sao thì sự vận
hành mang lại "công đức" hay các điều "tệ hại" rất phức tạp
vì không những trực tiếp liên hệ với nghiệp quá khứ ghi khắc bên trong tâm thức
cùng các các cơ duyên bên ngoài mà còn tùy thuộc vào ý chí và quyết tâm thúc đẩy
bên trong tâm thức của cá thể ấy. Khi mình được đầy đủ, sống phủ phê thì đấy là
nhờ vào công đức của mình từ trước, thế nhưng nếu mình cứ tiếp tục thừa hưởng một
cách vô tâm thì đến một lúc nào đó các công đức ấy sẽ khô cạn, vì thế tốt hơn hết
là khi mình đang được đầy đủ thì nên nghĩ đến những người nghèo khó và chia sẻ
với họ, hầu làm gia tăng thêm công đức sẵn có của mình. Đấy là một trong các khía
cạnh tu giới đơn giản và hiệu quả nhất - gccncntV.
Suy
tư về những kẻ tật nguyền và những người chăm sóc họ
102
Nếu chẳng
may thân xác bị tật nguyền thì các bạn cứ hãy tự nhủ rằng từ bên trong chính mình
thì mình vẫn là một con người như tất cả mọi người khác. Mặc dù không còn sử dụng
được một vài cơ quan cảm giác nào đó, thế nhưng tâm thức mình vẫn vận hành bình
thường như tất cả mọi người. Không nên tuyệt vọng, hãy phát động sự tự tin nơi
chính mình. Là con người, đương nhiên các bạn sẽ có đủ khả năng làm được một cái
gì đó cho đời mình.
Một hôm
tôi đến viếng một trường câm điếc. Thoạt nhìn thì các đứa trẻ ấy không sao đàm
thoại được như chúng ta. Thế nhưng chúng biết sử dụng các phương tiện khác để học
hỏi không khác gì như các người khác. Ngày nay người mù có thể đọc và viết nhờ
vào một chiếc máy. Một số đã trở thành văn sĩ. Tôi có dịp trông thấy trên truyền
hình Ấn-độ một người cụt cả hai tay nhưng có thể viết được bằng chân. Tuy không
viết nhanh được nhưng chữ viết rất rõ.
Người chuyển ngữ các dòng này
có dịp viếng một trường mù và trông thấy các em chơi bóng đá. Bên trong quả bóng
có cát hạt sỏi (?) gây ra tiếng sột soạt khi quả bóng lăn trên mặt đất. Căn cứ
vào tiếng động đó các em ước tính khoảng cách, tốc độ, hướng lăn của quả bóng để
chạy theo và tranh nhau đá vào quả bóng. Các em vừa chơi vừa vui cười, hò hét để
biết vị trí của nhau, tạo ra một bầu không khí thật hăng say và vui vẻ -
gccncntV).
103
Dầu bất
cứ chuyện gì xảy ra thì các bạn cũng không bao giờ tuyệt vọng. Một người luôn tự
nhủ: "Tôi sẽ thành công", sẽ đạt được mục đích. Nếu các bạn nghĩ rằng
: "Chuyện đó thật khó thực hiện, tôi không còn đủ khả năng như trước đây nữa,
tôi sẽ chẳng bao giờ làm được việc đó", thì thật hiển nhiên là các bạn sẽ
thất bại. Có một câu tục ngữ Tây Tạng như sau: "Không sao thoát được sự
nghèo đói bằng cách buông tay".
104
Khi một
đứa bé chào đời với khuyết tật bẩm sinh thì không cần phải nóí, cha mẹ và các
người khác trong gia đình, không một ai tránh khỏi những giây phút đau buồn, lo
âu và tuyệt vọng. Thế nhưng dưới một góc nhìn khác thì việc chăm lo cho kẻ khác
là cả một cội nguồn mang lại hạnh phúc và sự toại nguyện cho mình. Kinh sách Phật
giáo khuyên chúng ta nên yêu thương nhiều hơn những ai đang khổ đau, không còn
tự chăm lo cho mình được nữa. Càng xả thân vì những người trong hoàn cảnh đó thì
mình sẽ càng cảm nhận được một sự toại nguyện sâu xa và nhận thấy mình là một
con người hữu ích.
105
Nói chung
thì việc trợ giúp kẻ khác là hành động cao quý nhất. Nếu trong gia đình, ngay bên
cạnh mình có một người hoàn toàn cô đơn, không ai ngó ngàng, hoặc mang khuyết tật
không phương chữa lành, thì hãy nghĩ rằng đây là một dịp may hiếm có giúp mình
chăm lo cho người ấy với một niềm hân hoan tràn ngập trong lòng. Đó là dịp giúp
mình làm được một việc thật tuyệt vời.
Nếu
xem đấy là một bổn phận mà mình buộc lòng phải gánh vác, thì việc làm đó sẽ không
được trọn vẹn (không còn mang ý nghĩa cao
đẹp của một sự hy sinh nữa), đấy chỉ là cách mà mình tự tạo ra cho mình một
cách phi lý các khó khăn thật ra không hề có (cáu kỉnh, thốt ra những lời không đẹp, tạo ra một bầu không khí căng
thẳng, chỉ là cách khiến người được giúp đỡ thêm đớn đau và chua xót trong lòng,
trong khi đó thì mình cũng phải đảm đang công việc của mình. Yêu thương và nhẫn
nhục là cả một sự thử thách đối với chính mình).
Suy
tư về người sắp lìa đời và các người thân chung quanh
106
Giây
phút lìa đời thật quan trọng, vì thế cần phải chuẩn bị trước. Nên hiểu rằng cái
chết không sao tránh khỏi được. Hãy chấp nhận nó như là thành phần bất khả phân
của sự sống. Nếu sự sống có một điểm khởi đầu thì tất nhiên nó cũng phải có một
điểm chấm dứt. Tìm cách tránh né sự thật đó chỉ là chuyện hoài công.
Nếu cách
suy nghĩ trên đây sớm ăn sâu vào sự suy tư của chúng ta thì khi cái chết xảy đến
với mình thì nó sẽ không hiện ra như là một sự kiện bất ngờ hay một biến cố bất
bình thường. Nhờ đó chúng ta sẽ đủ nghị lực tiếp cận với nó một cách khác hơn (thanh thản, không sợ hãi, mình và nó hay nó
và mình thì cũng chỉ là như thế, lúc nào cũng là đôi bạn đồng hành trong sự
chuyển động của thế giới hiện tượng).
107
Quả
thật là hầu hết chúng ta đều cảm thấy ghê rợn mỗi khi nghĩ đến cái chết của chính
mình. Chúng ta dành ra phần lớn đời mình để gom góp của cải, hoạch định vô số các
dự án lớn lao, cứ như là mình sẽ còn sống bất tận, không một mảy may tin rằng rồi
đây mình cũng sẽ chết vào một ngày nào đó, biết đâu ngày ấy cũng có thể là ngày
mai, hoặc trong một chốc lát nữa đây mình cũng có thể sẽ ra đi và bỏ lại tất cả.
108
Theo
Phật giáo thì thật hết sức quan trọng là ngay trong lúc này chúng ta phải luyện
tập cách mà mình sẽ ra đi như thế nào để được tốt đẹp nhất. Khi các chức năng của
sự sống (tức là sự vận hành của các cơ
quan trong cơ thể) chấm dứt thì các cấp bậc thô thiển của tâm thức theo đó
cũng sẽ tan biến hết (tư duy, ý niệm, xúc
cảm, các cảm nhận, trí nhớ..., tất cả đều lần lượt tan biến hết) và thành
phần tri thức tinh tế, khi đó không còn lệ thuộc vào cơ sở vật chất (tức thân xác hay các thành phần vật lý)
nữa sẽ hiện ra, tạo ra dịp may duy nhất giúp những người tu tập cao thâm đạt được
Giác Ngộ (họ sẽ nhận biết được thể dạng
trống không tinh tế nhất của tri thức hiện lên qua sự diễn tiến của quá trình của
cái chết và lưu lại vĩnh viễn trong thể dạng đó, không chuyển sang quá trình đảo
ngược tức là sự tái sinh). Chính vì thế nên trong kinh sách, nhất là các
kinh Tan-tra (1), người ta thường thấy nêu lên rất nhiều phương pháp thiền định
nhằm chuẩn bị cho cái chết khi nó đến với mình (đó là các phép thiền định nhằm khởi động và theo dõi quá trình diễn tiến
của cái chết giả tạo/simulation. Đến khi cái chết thật xảy ra với mình thì người
tu tập sẽ theo dõi được sự diễn biến của cái chết thật ấy của chính mình. Vào lúc
thể dạng tinh tế mang bản chất trống không của tâm thức hiện ra với mình thì người
tu tập sẽ lưu lại trong thể dạng trống không tuyệt đối đó - gccncntV).
(1) Tan-tra trong Phật giáo là
các kinh căn bản của Kim Cương Thừa (gcts)
109
Nếu bạn
là người có đức tin (có nghĩa là theo các
tôn giáo độc thần) thì đến khi cái chết gần kề hãy nên hồi tưởng lại đức
tin ấy của mình để cầu nguyện. Nếu tin có Trời thì các bạn cứ nghĩ rằng dù hết
sức đáng buồn khi sự sống chấm dứt, thế nhưng nhất định là Trời có cái lý của
Ngài mà bên trong có một cái gì đó thật sâu xa mà mình không hiểu nổi. Cách suy
nghĩ ấy nhất định sẽ có thể trợ giúp các bạn (đó là cách giúp mình bớt sợ hãi, và dù đấy chỉ là một cách tự đánh lừa
mình, thế nhưng sự thanh thản và tin tưởng đó sẽ giúp mình tái sinh trong một
hoàn cảnh an bình hơn, phù hợp với các xu hướng tâm thần của mình trong lúc hấp
hối. Thế nhưng dầu sao đi nữa thì mình cũng không sao tránh khỏi hậu quả tạo ra
bởi các hành động của mình khi còn sống và cả trong các kiếp sống trước đó
trong quá khứ. Tất cả các tông phái Phật giáo đều cho rằng thể dạng tri thức
trong giây phút cuối cùng rất quan trọng vì nó sẽ hướng sự tái sinh của mình trong
một bối cảnh phù hợp với thể dạng tri thức cuối cùng đó).
110
Nếu
là người Phật giáo và tin vào sự tái sinh thì cái chết cũng chỉ là một sự thay
đổi lớp vỏ bên ngoài tức là thân xác, tương tự như thay quần áo mới khi quần áo
cũ đã rách. Khi cơ sở chuyển tải vật chất, dưới tác động của các nguyên nhân bên
trong (nghiệp ghi khắc trên dòng tri thức)
và bên ngoài (thân xác với các thứ bệnh tật,
sự già nua, v.v...), trở nên bất lực không còn duy trì được sự sống nữa, thì
đấy sẽ là lúc phải buông bỏ nó để thay vào đó bằng một cơ sở chuyển tải mới. Cái
chết diễn ra qua tác động của sự lôi kéo đó giữa các điều kiện và cơ duyên, không
có nghĩa là một sự chấm dứt vĩnh viễn (mà
chỉ là một sự chuyển động mang tính cách trói buộc và níu kéo triền miên giữa
nguyên nhân và hậu quả, khiến chúng ta không bao giờ sống mãi mãi được hay chết
luôn một cách vĩnh viễn: nguyên nhân này đưa đến hậu quả kia, hậu quả kia lại đưa
đến nguyên nhân khác, cái chết và sự sống cũng vậy, chúng lệ thuộc vào nhau, quấn
quýt và xoay vần với nhau, để cùng nhau chuyển động, có nghĩa là hiện lên và
tan biến bất tận trong thế giới hiện tượng - gccncntV).
111
Mỗi
khi đề cập đến bản chất phù du của mọi hiện tượng (kinh sách Phật giáo gọi bản chất này là "Vô thường"/Impermanence,
tiếng Pa-li là Anicca, tiếng Phạn là Anitya) thì phải luôn hiểu rằng nó có hai
cấp bậc khác nhau. Cấp bậc thứ nhất mang tính cách thô thiển, dễ nhận thấy và thật
hết sức hiển nhiên, chẳng hạn như sự chấm đứt của sự sống hay bất cứ một sự kiện
nào cũng vậy (mọi hiện tượng đều ở thể dạng
liên tục chuyển động và đổi thay: một hiện tượng hiện ra và sau đó sẽ chuyển thành
một hiện tượng khác, chẳng hạn sự sinh hiện ra và chuyển thành cái chết, đó là
cấp bậc thô thiển dễ nhận thấy. Cái chết chuyển thành sự tái sinh cũng phải
chuyển qua một số hiện tượng khác khá phức tạp khó nhận biết hơn mà thôi).
Thế nhưng bản chất phù du/vô thường nêu lên trong Bốn Sự Thật Cao Quý (còn gọi là Tứ Diệu Đế) thì tinh tế hơn
nhiều, đó là bản chất nói lên tính cách tạm thời của sự hiện hữu (cấp bậc thứ hai này của bản chất vô thường
nêu lên một cách gián tiếp qua Bốn Sự Thật Cao Quý, sẽ được giải thích trong
các lời ghi chú dưới đây).
Sự hiện hữu của mình chẳng hạn
sở dĩ tồn tại và đang diễn biến là nhờ vào sự liên kết và tương tác giữa thật nhiều
điều kiện. Thế nhưng các điều kiện đó không đứng yên mà luôn biến động, khiến sự
hiện hữu của mình cũng phải luôn ở trong tình trạng chuyển động và đổi thay. Đến
một lúc nào đó khi các điều kiện ấy -
tùy thuộc vào nghiệp của mình và liên hệ với các cơ duyên bên ngoài - không
còn giữ được sự tương tác và liên kết với nhau nữa, thì lúc đó sự hiện hữu của
mình cũng sẽ không còn giữ được nguyên vẹn thể dạng trước đây của nó nữa, mà phải
biến đổi để trở thành một thể dạng hiện hữu khác. Sự chuyển biến liên tục đó là
nguyên nhân tạo ra "khổ đau" cho chính nó tức là sự hiện hữu, và cũng
là của chính mình: đấy là Sự Thật Thứ Nhất trong số Bốn Sự Thật Cao Quý, làm nền
tảng cho toàn bộ giáo lý Phật gíáo. Bản chất chuyển động của mọi hiện tượng tức
là vô thường cũng cho biết là sự "khổ đau" đó của sự hiện hữu cũng có
một nguyên nhân làm phát sinh ra nó: đấy là Sự Thật Thứ Hai. Nếu sự "khổ đau" của sự hiện hữu là một
hiện tượng vô thường và có một "nguyên nhân" làm phát sinh ra nó, thì nếu loại bỏ được "nguyên
nhân" ấy của nó thì nó sẽ không hiện ra được nữa: đấy là Sự Thật Thứ Ba. Nếu
sự tan biến của "khổ đau" là một hiện tượng vô thường do một nguyên
nhân tạo ra thì cũng sẽ có một "phương pháp" hay một "Con Đường"
để hóa giải nó, đó là cách biến nó trở thành một thể dạng khác đúng theo ý muốn
của mình, thể dạng đó gọi là sự Giải Thoát: đấy là Sự Thật Thứ Tư.
Cấu trúc của Bốn Sự Thật Cao
Quý do đó nhất thiết được dựa vào bản chất vô thường mang tính cách níu kéo và
trói buộc của mọi hiện tượng, còn gọi là Nguyên lý Tương liên/ Interdependence/
tiếng Pa-li Paticcasamuppada/ tiếng Phạn Pratityasamutpada. Khi đã hiểu được
tính cách vô thường và trói buộc đó của mọi hiện tượng thì cũng sẽ hiểu được bản
chất của sự sống là gì, cái chết và sự tái sinh là gì, nguyên nhân của những sự
chuyển động đó là gì, và cả sự Hóa Giải tất cả các thứ ấy là gì? Bốn sự Thật
Cao Quý cũng chỉ là các sự lôi kéo tất nhiên của các hiện tượng: 1) khổ đau -
2) nguyên nhân mang lại khổ đau - 3) sự chấm dứt của nguyên nhân khổ đau - 4) sự Giải Thoát - gccncntV)
112
Thiền
định hướng vào các cấp bậc thô thiển của vô thường (sự chuyển động lộ liễu và cụ thể của các hiện tượng) sẽ giúp mình ý
thức được sự hiện diện này của mình (sự sống
của mình đang có) trong hiện tại thật là quý báu, điều đó khiến mình bám víu
quá đáng vào cái khoảng thời gian ngắn ngủi mà mình còn lại trong kiếp sống này.
Chỉ khi nào đã trút bỏ được gánh nặng tạo ra bởi sự bám víu đó thì khi ấy mình
mới ý thức được là việc tu tập hầu chuẩn bị cho các kiếp sống tương lai sẽ quan
trọng đến dường nào.
113
Đối với
những người có đức tin, và dù họ có chấp nhận hay không chấp nhận hiện tượng tái
sinh đi nữa, thì khi cái chết bất thần xảy đến với mình thì điều quan trọng hơn
cả là phải làm cho các tư duy phát sinh từ tri thức thô thiển (các sự lo sợ, đau buồn, hoang mang, hốt hoảng,
bám víu, thương tiếc, v.v. tức là các cảm nhận sơ đẳng nhất về bản chất phù du/vô
thường) phải chấm dứt, bằng cách gợi lên thật minh bạch đức tin vào Thượng Đế
bên trong chính mình, hoặc bất cứ một thể dạng tâm thần tích cực nào khác (chẳng hạn như tình thương nhân loại, sự toại
nguyện trong kiếp sống vừa qua, tình thương yêu hướng vào những người nghèo khổ
hay tất cả chúng sinh, v.v.). Tốt nhất là duy trì được một tâm thức càng
trong sáng càng tốt, bằng cách loại bỏ tất cả những gì có thể khiến tâm thức bị
u mê (thể dạng tâm thần cuối cùng trong
khi quá trình của cái chết đang diễn tiến sẽ hướng sự tái sinh phù hợp với thể
dạng tâm thần đó của mình). Tuy nhiên nếu người hấp hối đau đớn quá mức và nội
tâm mất hết khả năng khơi động một thái độ thuận lợi, thì tốt hơn hết không nên
để người hấp hối ra đi trong tình trạng hoàn toàn ý thức (trước các sự đau đớn đang hành hạ mình). Trong trường hợp này nên
sử dụng các loại thuốc an thần hoặc thuốc ngủ, đó cũng là một giải pháp tốt (một người chết trong tình trạng đau đớn, hốt
hoảng, tức giận hay lo sợ quá mức sẽ có xu hướng tái sinh trong một bối cảnh
tương tự).
114
Đối với
những người không tin vào một tôn giáo nào, cũng không bước theo một con đường tâm
linh nào, có nghĩa là sự suy nghĩ của họ tách ra ngoài các quan điểm mang tính
cách tín ngưỡng về thế giới, thì điều quan trọng hơn hết đối với họ trong lúc lâm
chung là phải giữ được sự bình thản, thư giãn, và phải ý thức thật minh bạch
trong nội tâm mình là cái chết cũng chỉ là một quá trình tự nhiên, thuộc thành
phần của chính sự sống (1).
(1) Lời khuyên trên đây có thể
chỉ là một sự dư thừa (costless, gratis). Thật vậy, đối với những người không
tín ngưỡng nói chung thì phía sau cái chết sẽ chẳng có gì cả. Thế nhưng trong
trường hợp này Đức Đạt-lai Lạt-ma với tư cách là một người Phật giáo cho biết rằng
không thể nào hình dung được tâm thức phi-vật-chất lại có thể biến mất một cách
đơn giản trước cái chết vật chất của thân xác, bởi vì mỗi thứ mang một bản chất
khác nhau. Tri thức tinh tế sẽ tiếp tục con đường của nó xuyên qua thể dạng
trung gian giữa cái chết và sự tái sinh. Nó sẽ hòa nhập vào một thân xác mang hình
tướng khác, thân xác đó sẽ được hình thành thích nghi với các hành động trong quá
khứ của người quá cố và cả thể dạng tâm thần của người này vào lúc cái chết
đang diễn tiến. Vì lý do đó qua các lời khuyên tiếp theo dưới đây, Đức Đạt-lai
Lạt-ma sẽ nói đến "các sự bất lợi có thể xảy ra với ngưòi quá cố nếu người
này có các xu hướng tâm thần tiêu cực" - gcts).
115
Trong
khi chăm sóc cho một người sắp ra đi thì các bạn phải chú ý đến cá tánh và cả căn
bệnh của người ấy, nhất là phải hiểu người ấy có tin vào một tôn giáo nào hay
không, tức là tin hay không tin vào sự tái sinh, và sau đó là cố tránh với bất
cứ giá nào không được sử dụng các phương pháp gây chết không đau (euthanasia). Hãy
cố gắng tối đa giúp người hấp hối thư giãn bằng cách tạo ra một bầu không khí
an bình chung quanh người ấy. Nếu các bạn tỏ ra hốt hoảng thì tâm thức của người
hấp hối cũng sẽ bị xao động bởi đủ mọi thứ tư duy hiện ra với họ, khiến họ cảm
thấy bất an, theo Phật giáo thì đấy chính là cách mà các bạn tạo ra các xu hướng
tâm thần tiêu cực cho người hấp hối (kêu
gào, khóc than, ôm chặt, xô lắc người hấp hối, v.v..., là cách tạo ra các xu hướng
tâm thần tiêu cực - các xúc cảm bám víu của người ra đi - hướng sự tái sinh của
người này vào các hoàn cảnh bất lợi).
116
Nếu
người hấp hối có cùng một tôn giáo với mình thì các bạn nên gợi lại các phương
pháp tu tập mà người này đã quen từ trước (Tinh
độ, Thiền học, Kim cương thừa, v.v.), hoặc ngược lại nếu người hấp hối không
có cùng một tín ngưỡng với mình thì chỉ nên giúp họ khơi động lại đức tin của họ.
Trước cái chết, tâm thức của người hấp hối thường mất hết sự sáng suốt, vì thế sẽ
là vô ích nếu các bạn gợi lên với họ một phép tu tập hoàn toàn xa lạ hoặc chưa quen
luyện tập (một cách vắn tắt là không nên
mang các phép tu tập Phật giáo để khuyên giải những người hấp hối không phải là
người Phật giáo, vì có thể họ sẽ chẳng hiểu gì cả mà còn có thể khiến họ hoang
mang thêm). Khi tri thức thô thiển (các
sự suy nghĩ miên man cũng như các xúc cảm đủ loại, chẳng hạn như lo sợ, hoảng hốt,
tiếc nuối, hận thù, cầu xin, van vái, v.v.) đã tan biến hết và tri thức
tinh tế (các cảm nhận cũng như các các ảo
giác thuộc vào các cấp bậc tinh tế khác nhau hiện lên xuyên qua quá trình của cái
chết) bắt đầu hiển hiện thì khi đó duy nhất chỉ có sức mạnh mang lại từ sự tu
tập của mình từ trước cùng các tư duy tích cực lúc sắp lìa đời mới có thể giúp được
mình mà thôi (có nghĩa là sự luyện tập về
quá trình của cái chết trước đây khi mình còn sống mới có thể giúp mình theo
dõi được các biến chuyển của dòng tri thức xuyên qua sự diễn tiến của quá trình
cái chết, hầu nhận biết và chủ động được thể dạng tinh tế nhất của dòng tri thức
đó, có nghĩa là sự trống không/tánh không của sự hiện hữu của chính mình để
"dừng lại" với thể dạng đó, không chuyển sang giai đoạn tiếp theo là quá
trình đưa đến sự tái sinh - gccncntV).
117
Khi
đã rơi vào tình trạng hôn mê (coma) thì người bệnh chỉ còn giữ được hơi thở vào
và ra, tư duy không còn hiện lên nữa. Nếu không còn cách nào giúp người sắp lìa
đời thoát ra khỏi tình trạng vô thức thì vẫn cứ tiếp tục trợ giúp người ấy trong
tình trạng đó. Nếu gia đình khá giả và người sắp lìa đời được mọi người yêu quý
đến độ sẵn sàng hy sinh tất cả để kéo dài sự sống của người ấy, thì thật hết sức
quan trọng là nên cố gắng, dù chỉ kéo dài thêm được một ngày cũng vậy. Mặc dù việc
đó chẳng ích lợi gì đối với người sắp lìa đời thế nhưng cũng có thể giúp những
người thương mến họ được toại nguyện.
118
Theo quan
điểm Phật giáo thì phải làm tất cả những gì có thể làm được nhằm giúp người sắp
lìa đời không quá đau đớn, tuy nhiên và dầu sao đi nữa thì người ấy cũng không
sao tránh khỏi các sự đau đớn do chính mình gây ra cho mình (nghiệp do mình tạo ra cho mình). Nói một
cách khác thì nguyên nhân mang lại sự đau đớn cho người ấy chính là các hành động
(karma/nghiệp) do người ấy tạo ra và hậu quả mang lại bởi các hành động đó thì không
sao tránh khỏi được. Tệ hại hơn nữa là nếu người ấy đang ở vào một nơi thiếu các
điều kiện thuận lợi về vật chất (sống
trong một nơi hay một xứ sở nghèo nàn, không thuốc men, bệnh viện...), hoặc
sinh ra dưới một thể dạng hiện hữu khác không ai chăm sóc mình (chẳng hạn thú vật thường không có khả năng
giúp đỡ nhau khi đau ốm, bị thương tích hoặc trong lúc hấp hối), thì tình
thế sẽ còn thê thảm hơn nữa. Vì thế, trong lúc còn có những người chung quanh chăm
lo và trợ giúp mình, thì cũng nên chịu đựng sự đau đớn với cái thân xác mà mình
đang có (sự chịu đựng đó là một cách nhận
chịu nghiệp do mình tạo ra cho mình, chấp nhận sự đau đớn là một cách thanh toán
"món nợ" đó, hoặc ít ra cũng làm cho nó "nhẹ bớt" đi, không
nên giữ lại để kéo dài thêm sự đau đớn đó trong các kiếp sống tương lai).
Hoang
Phong chuyển ngữ
0 Kommentare:
Post a Comment