Lại một lần khác, con vào vườn cây của
chùa trộm lấy mười quả
xoài là
vật của hiện tiền tăng, rồi ăn một mình. Do nghiệp ác
này, nên con chịu
khổ
trong chốn địa ngục. Nghiệp ác ấy chưa hết, con phải sinh làm rồng đói ở nơi đầm vắng, thường bị các loài côn trùng cắn rỉa,
ăn
thịt, máu mủ chảy
khắp, đói khát khổ não...
Phẩm Tế long trong kinh Đại tập ghi: “Lúc bấy giờ, trong chúng hội, có một con rồng
mù tên
là
Phả-la-cơ-lê-xa lớn tiếng khóc than, thưa rằng:
- Bạch Đại Thánh Thế
Tôn, xin Ngài cứu con! Xin Ngài cứu con! Nay thân con chịu nhiều đau khổ,
ngày đêm thường bị các loài côn trùng cắn rỉa, ăn thịt, sống
trong
nước nóng, không lúc nào
được
tạm vui.
Đức Phật
bảo
Lê-xa:
- Vào thời quá khứ, ngươi từng làm tì-kheo ở trong Phật pháp, nhưng lại
hủy
phá giới cấm, trong ngầm
dối
trá, ngoài hiện tướng hiền lành, tham muốn quyến thuộc
đông, đệ
tử nhiều, danh tiếng vang khắp, ai ai cũng biết đến, còn tự xưng: ‘Ta là hòa thượng đã đắc quả A-la-hán’. [85a] Do nhân
duyên này, ngươi
được
thí
chủ cúng
dường rất
nhiều, nhưng chỉ riêng mình
thụ
dụng. Thấy người giữ giới thì ngươi lại nói xấu, khiến họ buồn khổ và thề rằng: ‘Đời đời dù sinh ra nơi nào, ta cũng ăn thịt ông’. Đó là thân đời trước của ngươi. Do nghiệp ác này, sau khi chết, ngươi sinh trong loài rồng. Những người kia vì lời thề nên ăn thịt ngươi, còn ngươi do tạo nghiệp ác nên phải chịu quả
báo mù lòa. Lại nữa, trong vô
lượng kiếp quá
khứ
lúc ở nơi địa
ngục nước đồng sôi,
ngươi cũng thường bị các loài côn trùng
cắn rỉa, ăn thịt.
Nghe câu chuyện
này, rồng
buồn khổ khóc lớn, bạch
Phật:
- Chúng con ngày nay đều xin chí thành sám
hối, nguyện cho chúng con
mau được thoát
khỏi
nỗi
khổ này.
Khi ấy, hai mươi sáu ức con rồng đói kia đều nhớ lại thân quá khứ của
mình, khóc lóc thảm thiết, nhớ lại đời trước tuy đã xuất gia ở trong Phật pháp nhưng tạo đủ
các
nghiệp ác, nên trải qua
vô
số thân bị đọa vào ba đường ác; do nghiệp báo này
chưa
hết, nên lại sinh vào loài rồng, chịu khổ cùng cực, chẳng
hạn
như
con rồng mù
này vậy.
Bấy giờ, Đức Phật
bảo
các con
rồng:
- Các ngươi hãy lấy nước
rửa
chân Như Lai thì tội báo của các ngươi dần dần được tiêu trừ.
Ngay đó, tất cả rồng lấy tay vốc nước, thì nước
đều biến thành lửa, lại biến
thành tảng đá lớn, rồi nổi lửa dữ đỏ rực
khắp cả lòng bàn tay, dập tắt thì lại cháy, bảy lần như thế. Thấy vậy, tất cả rồng đều
kinh
sợ,
sầu não, nước
mắt
đầm
đìa. Vâng lời Phật dạy, chúng phát nguyện lớn, lửa dữ đều bị dập tắt. Đến lần thứ tám, chúng
lấy
tay
vốc nước rửa
chân Như Lai, chí thành
sám
hối.
Đức Phật thụ ký cho các con rồng này: ‘Vào thời Phật Di-lặc, các
ngươi sẽ được làm người, gặp Phật xuất gia, tinh tiến trì giới, đắc
quả A-la- hán’.
Bấy giờ, các con rồng đều chứng được túc mạng tâm329, tự nhớ lại nghịêp đã tạo trong đời quá khứ, từng ở trong Phật pháp, hoặc làm cư sĩ thân cận
với
chúng tăng, hoặc
tới
lui nghe
pháp. Những người có
lòng tin cúng
dường
các món ăn, thức uống, hoa quả, thì cùng
với các tì-kheo ăn
uống.
Có rồng nói:
- Tôi thường dùng thức ăn, thức uống và hoa quả của tứ phương chúng
tăng.
Có rồng nói:
- Tôi đến chùa cúng dường chúng
tăng, hoặc lễ bái và cũng ăn uống như
thế.
Rồng
khác nói:
- Tôi từng
làm người
cư sĩ
ở trong pháp hội của Phật
Tì-bà-thi.
Rồng
khác lại
nói:
- Tôi từng làm người cư sĩ ở trong pháp hội của Phật Thích-ca Mâu-ni,
hoặc do nhân duyên quen biết thăm
hỏi,
hoặc tới lui nghe pháp mà qua lại
chốn chùa chiền. Những người có lòng tin đem các thứ hoa quả, đồ ăn,
thức
uống cúng dường chúng tăng. [85b]Tì-kheo nhận rồi, trở lại cho tôi, tôi liền thụ.
Vì
nghiệp duyên ấy, nên tôi bị đọa
vào địa ngục trải qua
vô số kiếp, hoặc bị thiêu
nấu ở trong lửa dữ, hoặc uống nước đồng sôi, hoặc nuốt
hòn sắt nóng… Ra
khỏi địa ngục, tôi
đọa
làm súc
sinh; bỏ thân súc sinh, lại
sinh vào loài ngạ quỷ, chịu nhiều sự thống khổ như thế. Nhưng vì nghiệp ác
chưa hết, nên tôi
phải sinh
trong
loài rồng này, thường bị khổ đau.
Đức Phật
dạy:
- Những nghiệp ác này không khác gì trộm vật của Phật… Tội này bằng nửa năm tội nghịch. Nay ngươi nên suốt đời quy y tam bảo, dốc lòng tu
thiện. Nhờ công đức này, trong đời
hiền kiếp, các ngươi sẽ gặp vị
Phật
cuối
cùng hiệu là Lâu-chí330. Vào thời Đức Phật ấy, tội lỗi của các ngươi sẽ được dứt
trừ.
Sau khi nghe
Phật dạy, tất cả rồng đều chí thành, nguyện suốt đời thụ trì tam quy.
của người nữ, thật là khó nhìn. Khi nó ăn uống, thì máu mủ chảy
ra. Toàn
thân thường bị ruồi muỗi, các loài trùng độc cắn rỉa, ăn thịt. Thân thể hôi thối, chẳng
ai dám nhìn.
Lúc
ấy, với lòng đại bi, Đức Phật nhìn
thấy vợ của rồng kia mù lòa khốn
khổ
như thế, bèn hỏi:
- Vì sao ngươi phải
mang lấy thân xấu
xa
như vậy, trong quá khứ
đã
từng làm nghiệp gì?
Rồng
vợ đáp:
- Bạch Đức
Thế
Tôn, thân của con đây phải chịu các
thứ
khổ bức bách, không
có lúc nào
tạm dừng, giả sử muốn
nói cũng không thể nói được. Con
nhớ
lại, vào thời quá khứ cách đây ba mươi sáu ức kiếp, trong trăm nghìn
năm, con sinh vào loài rồng chịu khổ như thế, suốt cả ngày đêm, không
phút giây tạm dừng. Lại trong chín mươi mốt kiếp xa xưa, vào thời Phật
Tì-bà-thi,
con từng làm tì-kheo ni ở trong Phật pháp, thường nghĩ đến việc
dâm
dục
hơn
cả người say. Tuy đã xuất gia, nhưng con không thực
hành
đúng pháp, trong chốn già-lam
trái phạm
giới
luật, nên thường bị thiêu
nướng
trong ba đường
ác.
Trình bày xong, rồng
bạch
Phật:
- Xin Ngài cứu con!
Nghe
rồng kể
lại sự thật như thế, Đức Phật lấy một ít nước đổ vào miệng
rồng. Khi ấy lửa và giòi bọ, máu mủ đều tan biến. Miệng được sạch sẽ, rồng lại thưa:
- Đại Thánh Như Lai! Con nhớ thuở quá khứ,
thời
Phật Ca-diếp,
con từng
làm người cư sĩ. Một hôm, con đang cày ruộng, có vị tì-kheo đến xin con năm mươi
đồng
tiền. Khi ấy, con trả lời:
- Đợi khi lúa chín, tôi
sẽ
cúng cho ngài. Vị
tì-kheo
nói:
- Nếu không
thể cho
năm mươi đồng thì cho
xin
mười
đồng
cũng được.
Lúc đó, con
tức
giận, nói
với
vị tì-kheo:
- Dù chỉ mười đồng, tôi
cũng không cho.
Bấy giờ, vị
tì-kheo sinh lòng
buồn
khổ, ra về.
[85c] Lại một lần khác, con vào vườn cây của
chùa trộm lấy mười quả
xoài là
vật của hiện tiền tăng, rồi ăn một mình. Do nghiệp ác
này, nên con chịu
khổ
trong chốn địa ngục. Nghiệp ác ấy chưa hết, con phải sinh làm rồng đói ở nơi đầm vắng, thường bị các loài côn trùng cắn rỉa,
ăn
thịt, máu mủ chảy
khắp, đói khát khổ não. Còn vị tì-kheo kia do nghiệp
ác
của lòng sân
giận, nên chết đọa làm con rồng độc nhỏ sống trong nách con để hút máu,
hơi
nóng xông khắp thân, không thể chịu được. Thế nên, thân con nóng bức, máu mủ đầm đìa.
Rồng
lại
bạch Phật:
- Xin Ngài từ bi thương xót cứu con, để
con mau được thoát khỏi rồng độc
oan
gia
này!
Bấy giờ, Đức Phật
dùng tay vốc nước, phát
nguyện
và
kể rằng:
- Thuở xưa, gặp thời đói khát, Ta phát nguyện làm một con vật có thân
to lớn, dài rộng vô lượng, rồi dùng năng lực thần thông ở giữa hư không xướng lên rằng:
- Trong đầm vắng kia, có một con vật to lớn, tên là Bất Sân, các người nên
đến
lấy thịt
của nó
về
làm thức
ăn cho khỏi đói.
- Người, phi nhân
v.v.. nghe lời
này, tất cả đều
tranh nhau đến
ăn thịt
nó.
Nghe Phật phát nguyện và kể lại sự thật này, con rồng nhỏ ở dưới nách
rồng
kia
bèn chui
ra, cả hai cùng
bạch
Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn! Đến khi nào chúng con mới hết kiếp rồng, dứt sạch
tội báo?
Đức Phật
bảo:
- Nghiệp này rất nặng, sẽ bị đọa địa ngục Ngũ Vô Gián331. Vì sao? Nếu có
vật của tứ phương tăng332, hoặc vật của hiện tiền tăng333, vật do đàn-việt có
niềm
tin
sâu dày dâng cúng, như hoa quả,
vườn
cây, đồ ăn, thức
uống, giường chiếu, tọa
cụ, thuốc thang… mà mình tự tiện tiêu xài riêng, hoặc mang ra ngoài cho những người cư sĩ, bạn bè quen biết, tội này rất nặng,
phải chịu quả báo nơi địa ngục A-tỳ. Vì thế, các ngươi nên thụ trì tam quy. Sau khi quy y tam bảo, các ngươi mới có thể sống trong dòng nước lạnh. Ba
lần xưng, ba lần thụ như thế, các ngươi sẽ được an ổn sống trong dòng
nước
ấy”.
Bấy giờ, Đức Phật
liền
nói
kệ cho các con
rồng nghe:
Thà dùng dao bén
tự
xẻ thân,
Từng đoạn
xương
khớp, thịt, da, gân, Tài
vật
do đàn-việt
dâng
cúng,
Cư sĩ thế tục chẳng có
phần.
Thà nuốt
sắt
nóng cháy phừng phừng, Khiến
cho miệng lưỡi
lửa bốc lên,
Đồ ăn, thức uống
của tăng chúng, Cư sĩ
không
nên
lén tự dùng.
Là người cư
sĩ sống tại gia,
Thà
đem lửa lớn
như
Tu-di,
Tự tay bốc lấy bỏ vào miệng,
Chứ không dám dùng
vật
của
tăng. [86a]
Thà dùng
dao bén xẻ thân
mình,
Tự ăn da
thịt của
bản thân,
Nếu là người tại gia cư sĩ,
Không nên nhận
thức ăn
tăng
chúng.
Thà tự gieo mình vào ngọn lửa,
Đang cháy phừng
phực khắp
căn
phòng,
Nếu
là người
tại
gia cư sĩ
Chớ ngồi, chớ
nằm
giường chúng tăng.
Thà dùng
chày sắt
nung lửa
dữ,
Đưa tay cầm lấy bị
cháy tiêu,
Nếu
là người
tại
gia cư sĩ,
Không nên lén dùng vật của tăng.
Thà
dùng dao
chày thật
bén
tốt,
Tự lóc, giả thịt của bản thân,
Đối với hàng
xuất gia thanh tịnh,
Chớ
khởi
lên
một niệm giận
sân.
Thà
tự
tay móc hai mắt
mình,
Vứt bỏ, quăng ném xuống nền đất,
Đối
với
người tu
tập pháp lành,
Không nên nhìn bằng
tâm
sân giận.
Thà lấy tấm sắt
nóng
quấn thân,
Đi đứng, ngồi nằm thân
chẳng yên,
Chớ
khởi
tâm
sân, sinh đố
kị,
Mà khoác y thanh
tịnh của tăng. Thà uống
nước tro hay nước muối,
Nước sôi
phỏng miệng như lửa
bỏng,
Không nên ôm lòng tham, sân, ác,
Uống
thuốc đàn-việt
cúng
chúng
tăng.
Sau khi Đức Phật nói bài kệ
này, bầy
rồng
một vạn
bốn nghìn con đều thụ
trì
tam quy, tất cả nghiệp báo khổ đau
trong quá
khứ, hiện tại đều được tiêu trừ, tin sâu tam bảo, tâm không lui sụt.
Lại
có các bầy rồng khác gồm tám
mươi ức con cũng phát
tâm quy y tam bảo.
Kinh Đại tập
ghi: “Có vị tì-kheo nhận được tất cả những vật dụng cần thiết. Tất cả vật dụng ấy đều do đàn-việt có tín tâm cúng dường. Vậy mà
vị này hoặc để mình ăn, hoặc cho người khác, hoặc cùng mọi người lén lấy cất giấu, dùng riêng ở chỗ khuất. Vì những việc làm như thế, nên vị này
đọa
vào ba đường
ác,
mãi chịu khổ đau.
Lại có chúng sinh nghèo cùng hèn hạ,
không được an ổn,
cho
nên xuất gia
mong được giàu có, an ổn vui sướng. Thế nhưng, sau khi xuất gia, vị ấy
biếng nhác,
không chịu đọc
tụng kinh điển, không siêng năng tu tập thiền
định, trí tuệ, chỉ
thích
tò mò
việc của tăng.
Lại có tì-kheo ngày đêm
siêng năng tu tập pháp lành, đọc tụng kinh điển, tọa thiền, tu tuệ không phút
giây lơ là. Nhờ công đức này, vị ấy được bốn
chúng cúng dường đầy đủ. Bấy giờ, vị ấy làm tri sự được nhiều lợi
dưỡng,
rồi hoặc lấy dùng riêng, hoặc lén cho những người thế tục thân quen. Do
nghiệp duyên này, vị ấy ở mãi trong đường ác, ra
rồi
lại vào. Kẻ ngu si như thế không sợ quả báo đời sau nặng nhẹ ra sao. [86b]
Thế nên, nay Ta răn nhắc các đệ tử sa-môn: ‘Hãy nhớ nghĩ đến pháp mà hành trì, không được tự xưng: ‘Tôi là
sa-môn, tu hành đúng chính pháp’. Nhờ nương tựa vào chúng tăng, nên các ông được nhận các vật do đàn-việt cúng dường,
như
bánh, rau, hoa, quả, nhưng đó là vật thực của chúng tăng, không
được tự tiện lấy cho người thế tục, cũng không được
nói:
‘Đó là vật của tôi’, rồi ăn biệt334 chúng”.
Lại nữa, cũng không được lấy vật của chúng tăng cất chứa, kiếm
lời, mua bán đổi chác… bảo là làm lợi ích, để rồi phải bị người đời chê bai. Lại cũng không được mua rẻ bán đắt, để tranh lợi với đời. Lại cũng không được vì việc ăn uống hay
việc tăng mà làm cho chúng sinh bị rơi vào ba đường ác, phải nên khuyên bảo họ an trú trong pháp lành để họ có niềm
tin vững chắc vào tam bảo, nhiếp hộ tất cả
chúng sinh cho đến cha mẹ, đều
được
an ổn, đắc ba môn giải thoát335.
(Trích CHƯ KINH YẾU TẬP
Nguyên tác:
Pháp Sư
Đạo
Thế
Việt
dịch: Ban dịch
thuật Hán
tạng
Pháp
Âm
Chủ nhiệm:
Tỳ
kheo Thích Nguyên Chơn
Phó chủ
nhiệm (Hiệu đính
văn
nghĩa): Bồ-tát
giới
Định Huệ
Biên
tu: Tiến
sĩ Quảng Âm - Đoàn
Ánh Loan)
Ghi Chú:
329 Túc mạng tâm 宿命心(Cg: túc mạng trí): trí biết được những thụ báo sai biệt, thiện ác khổ vui trong một đời
hay trong vô
lượng đời ở quá khứ.
330 Lâu Chí 樓至 (S: Rudita, Rucika): vị Phật xuất thế sau cùng trong số một
nghìn vị Phật trong kiếp Hiền.
331 Địa ngục Ngũ Vô Gián (Ngũ Vô Gián địa ngục 五無間地獄): địa ngục có năm quả báo vô gián, tức chỉ cho
địa ngục A-tì. Năm quả báo vô gián là thời vô gián, hình vô gián, thụ khổ vô gián, thú quả vô gián và mạng vô gián.
332 Vật của tứ phương tăng (tứ phương tăng vật 四方僧物): chỉ cho các
vật
cúng dường đến từ nơi khác và thuộc
về vật dùng chung của tất cả tì-kheo, như chùa chiền, kho lẫm, ruộng vườn, cơm gạo,
y phục, thuốc men…
333 Vật của hiện tiền tăng (hiện tiền tăng vật 現前僧物): đồ vật mà chúng tăng hiện tiền có thể thụ dụng theo nhu
cầu vật chất trong cuộc sống, như
y phục, thực phẩm, thuốc men và những di vật của
vị
tì-kheo đã mất.
0 Kommentare:
Post a Comment