Chúng ta có lầm như
vậy không? Tất cả chúng ta đều lầm như vậy cả. Nên rồi mình sống trong mê lầm
mà không hay. Chính mình đang nghe có tiếng hoặc không tiếng, chớ đâu phải
không có cái nghe. Thấy không có cảnh, không có vật, chớ đâu phải không có cái
thấy. Rõ ràng chúng ta quên mình theo vật, cứ chạy theo sáu trần. Vì vậy bên
ngoài sáu căn đuổi theo sáu trần, rồi đem bóng dáng đó vào chấp chứa, phân biệt
trong tâm. Đó là sống với cái giả mà quên cái thật...
Tổ Huệ Năng khi được
pháp ở Ngũ tổ Hoằng Nhẫn rồi, Ngài mang y bát về phương Nam. Khi đó đám người
kỳ thị đuổi theo giật y bát lại. Trong nhóm đó có Thượng tọa Minh, trước khi tu
làm tướng nên cỡi ngựa rất giỏi, rượt kịp. Tổ biết người ta đuổi theo giành y
bát, nên Ngài để y bát trên bàn thạch, chui vô lùm cây trốn.
Thượng tọa Minh nhảy
xuống ngựa, ôm y bát lên nhưng ôm không nổi. Chừng đó mới giật mình, thì ra đây
là vật huyền bí, không phải vật thường. Bấy giờ, ông vừa sợ vừa hối lỗi. Tất cả
niệm tranh giành ngang đó chấm dứt. Ông liền gọi: “Hành giả, hành giả! Tôi đến
đây vì pháp, chớ không phải vì y bát.”
Khi ấy, Lục Tổ ở trong
lùm cây chui ra nói: “Nếu ông vì pháp, thì ta sẽ nói cho ông.” Rồi bảo: “Ông
yên lặng giây lâu, ta sẽ dạy cho.” Thượng tọa Minh đứng yên lặng giây lâu. Tổ
nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái gì là Bản lai diện mục của Thượng
tọa Minh?” Ngay câu đó Thượng tọa Minh liền thấy đạo.
Quí vị thấy Lục Tổ hết
sức thật thà. Ngài thấy chỗ cứu kính thế nào thì Ngài nói thế ấy. Thiện, ác tức
là hai bên. Thiện ác, thương ghét, phải quấy v.v… đều là hai bên. Niệm đầu vừa
dấy lên thì niệm sau nối tiếp theo nhau. Buông hết hai bên thì không còn niệm,
lúc ấy Bản lai diện mục hiện tiền. Bản là xưa, lai là nay, diện mục là mặt mắt
thật của mình. Hết sức đơn giản.
Nói vậy quí vị sẽ có
thắc mắc. Người tu cấm không được nghĩ ác, làm ác, chớ tại sao bảo không nghĩ
thiện, làm thiện? Không nghĩ thiện, không nghĩ ác tức là không làm lành cũng
không làm ác. Như vậy làm sao tu? Quí vị nhớ trong nhà Phật dạy tu có nhiều cấp
bậc. Người tu ít, người tu nhiều, người tu bình bình khác nhau. Tùy theo công
phu tu mà sanh trong lục đạo địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, người, a-tu-la, trời.
Trong lục đạo luân hồi
có chia ba đường thiện, ba đường ác. Cho nên nghĩ thiện, nghĩ ác đều đi trong
luân hồi. Lâu nay người ta quen cho rằng tu là làm việc thiện thôi. Nhưng sự
thật tu thiện thì được sanh cõi lành. Làm người, a-tu-la hoặc trời là sanh
trong ba cõi lành nhưng vẫn còn đi trong sanh tử. Nhà Phật gọi đó là tu pháp
Nhân thừa, Thiên thừa thôi, chớ không phải pháp giải thoát. Muốn giải thoát
sanh tử thì phải ra khỏi cả thiện lẫn ác.
Nhà Phật cũng nói về
hai thứ: hữu duyên từ và vô duyên từ. Hữu duyên từ là còn có sự phân biệt theo
duyên thích hợp mà khởi lòng từ bi. Còn vô duyên từ thì thấy người ta khổ là
mình cứu ngay, không phân biệt có duyên hay không có duyên. Thí dụ người không
nghĩ thiện không nghĩ ác gì cả, thấy đứa bé té liền bế nó dậy, đó thuộc về vô
duyên từ. Chúng ta đa số làm việc thiện mà nghĩ suy nhiều quá. “Việc thiện này
làm kết quả không?” “Được khen hay bị chê?” v.v… nghĩ đủ thứ.
Đức Phật hay các vị
Bồ-tát luôn luôn làm lành với tâm vô duyên từ, tức là lòng từ vô duyên. Gặp
cảnh thì làm chớ không có nghĩ suy, không xét duyên cớ. Chúng ta bây giờ thấy
người đó nghèo đói, mà họ làm thinh, mình cũng bỏ lơ. Ngược lại, nếu họ năn nỉ
“Tôi nghèo đói quá, cô bác giúp đỡ giùm” thì mới chịu giúp. Giúp như vậy là có
duyên, có sự cầu khẩn, còn bình thường thì không giúp. Với Phật, với Bồ-tát thì
không như vậy. Thấy người ta khổ là giúp, khỏi xin xỏ, khỏi cầu khẩn. Cho nên
các ngài làm lành rồi là thôi. Còn chúng ta do đợi xin xỏ, nên giúp người rồi
mà họ ngó lơ không thèm cám ơn là bực bội liền. Cho nên có duyên từ thì kèm theo
có danh, đòi hỏi này nọ. Còn vô duyên từ không đòi hỏi điều kiện gì hết. Đó mới
cao siêu, quí báu. Đừng cho rằng không nghĩ thiện, không nghĩ ác là xấu. Hiểu
vậy như vậy mới thấy gốc của sự tu.
Ngài Nam Nhạc Hoài
Nhượng có đệ tử là Mã Tổ Đạo Nhất rất nổi danh ở Trung Quốc. Một hôm Mã Tổ cùng
Thị giả là Bá Trượng Hoài Hải ra vườn chơi. Trên đường đi, thấy bầy vịt trời
bay trên hư không, Mã Tổ hỏi:
- Cái gì đó?
Hoài Hải thưa:
- Bầy vịt trời.
Hồi sau Mã Tổ hỏi:
- Bay đâu rồi?
Ngài Hoài Hải ngó lên
thấy bầy vịt trời bay mất, liền trả lời:
- Bay mất rồi.
Liền bị Mã Tổ nắm lỗ
mũi véo một cái thật mạnh, Ngài la thất thanh. Mã Tổ bảo:
- Sao không nói bay
mất đi?
Ngay đó Bá Trượng liền
đại ngộ.
Mã Tổ dạy cái gì mà
ngài Bá Trượng ngộ đạo? Đó là những hình ảnh kỳ đặc của các Tổ sau này. Véo lỗ
mũi người ta đau điếng đến nỗi phải la thất thanh, rồi hỏi: “Sao không nói bay
mất đi?” Vậy mà đệ tử liền ngộ. Để thấy rằng ông thầy muốn chỉ cái thật cho học
trò mà không dùng những ngôn từ bình thường, chỉ dùng những thủ thuật đặc biệt.
Lâu nay chúng ta có
bệnh mắt thì chạy theo sắc, tai thì chạy theo tiếng… tất cả sáu căn luôn luôn
đuổi theo sáu trần. Nhớ sáu trần mà quên cái gốc nơi sáu căn. Sáu căn có cái
thấy, cái nghe, cái ngửi, cái nếm… Có thấy, có nghe, có ngửi, có nếm… là có
biết. Cái biết đó không đuổi theo sáu trần, mà luôn hiện hữu nơi mình, có vắng
lúc nào đâu.
Trong kinh Lăng
Nghiêm, đức Phật đưa tay lên, hỏi ngài A-nan:
- Thấy không?
- Thấy.
- Thấy cái gì?
- Thấy tay Phật đưa
lên.
Phật để tay xuống rồi
hỏi tiếp:
- Thấy không?
- Không thấy.
Phật quở:
- Tay đưa lên thì thấy
có tay, tay để xuống thì thấy không tay, chớ cái thấy đâu có vắng. Sao lại nói
lộn xộn vậy.
Phật quở vì ngài A-nan
lầm cho cái tay là cái thấy, đó là quên mình theo vật. Chúng ta cũng như vậy.
Vì quên mình theo vật nên cho vật là mình.
Thêm một ví dụ nữa,
Phật bảo ngài La-hầu-la đánh một tiếng chuông nghe “boong”, hỏi A-nan:
- Ông nghe không?
- Dạ nghe.
Tiếng chuông bặt, Phật
hỏi:
- Ông nghe không?
- Dạ không.
Phật quở một phen nữa:
- Tiếng chuông có thì
nghe có tiếng chuông. Tiếng chuông lặng thì nghe không có tiếng chuông. Tại sao
nói không nghe?
Chúng ta có lầm như
vậy không? Tất cả chúng ta đều lầm như vậy cả. Nên rồi mình sống trong mê lầm
mà không hay. Chính mình đang nghe có tiếng hoặc không tiếng, chớ đâu phải
không có cái nghe. Thấy không có cảnh, không có vật, chớ đâu phải không có cái
thấy. Rõ ràng chúng ta quên mình theo vật, cứ chạy theo sáu trần. Vì vậy bên
ngoài sáu căn đuổi theo sáu trần, rồi đem bóng dáng đó vào chấp chứa, phân biệt
trong tâm. Đó là sống với cái giả mà quên cái thật.
Cho nên Mã Tổ nắm lỗ
mũi Bá Trượng véo một cái đau điếng, hỏi: “Sao không nói bay mất đi?” Bay qua
thì chim bay qua, chớ cái thấy chim bay qua có mất lúc nào đâu. Ngài Bá Trượng
nhờ thế sực tỉnh, nhớ cái lỗ mũi đau đời đời không quên. Đó là một thủ thuật.
Tổ Bá Trượng sau nổi tiếng là nhờ thủ thuật của ông thầy.
Chúng ta thấy hai vị
trước là Tổ Đạt-ma và Tổ Huệ Năng nói rất hiền lành. Qua tới Mã Tổ thì bắt đầu
kỳ đặc. Dưới Tổ Bá Trượng có ngài Hoàng Bá Hy Vận cũng có thủ thuật rất kỳ đặc.
Ngài Lâm Tế trước khi gặp Tổ Hoàng Bá, là một con người rất thâm trầm, cho nên
Thủ tọa Minh thấy có tương lai, nên xúi ngài Lâm Tế hỏi Tổ Hoàng Bá: “Thế nào
là đại ý Phật pháp?” Hoàng Bá nghe xong, không trả lời lấy một câu, liền lấy
gậy đập cho một gậy. Ngài Lâm Tế bị đập rồi ngẩn ngơ, không biết làm sao hết.
Đó là lần thứ nhất.
Ít hôm sau Thủ tọa lại
bảo: “Thôi lên hỏi nữa đi.” Ngài cũng hiền, nghe xúi thì làm theo, cũng lên hỏi
câu đó: “Bạch Hòa thượng! Thế nào là đại ý Phật pháp?” liền bị đập một gậy nữa.
Đau quá, Ngài không biết nói gì nữa, ôm lòng buồn tủi đi xuống.
Ít hôm sau, Thủ tọa
lại xúi lên hỏi nữa. Lần thứ ba cũng bị ăn gậy, đau khổ cùng cực Ngài chỉ còn
có nước khóc thôi. Xuống gặp Thủ tọa hỏi: “Bữa nay thế nào?” Ngài trả lời: “Ba
lần hỏi, ba lần đều bị ăn đòn, chắc tôi không có duyên ở đây. Thôi tôi xin đi.”
Thế là Ngài cuốn gói sửa soạn đi. Ông Thủ tọa nói nhỏ: “Trước khi đi nên đến
bạch với Hòa thượng cầu chỉ dạy.” Nghe lời, Ngài lên thưa: “Bạch Hòa thượng,
con không có duyên ở đây, con xin đi.” Tổ Hoàng Bá bảo: “Ông nên tới chỗ Cao
An, hỏi Đại Ngu. Kia sẽ vì ông mà chỉ cho.”
Đại Ngu tức là núi Đại
Ngu, còn tên của Ngài tôi quên mất rồi, chỉ nghe người ta kêu theo tên núi là
Đại Ngu. Lâm Tế qua đó gặp ngài Đại Ngu. Đại Ngu hỏi:
- Ông từ đâu đến?
- Con từ Hoàng Bá đến.
- Hoàng Bá đã chỉ dạy
gì cho ông?
- Con ba lần hỏi đại ý
Phật pháp, ba lần đều bị ăn đòn, không biết con có lỗi hay không lỗi?
Ngài Đại Ngu liền chụp
lấy vai Lâm Tế nói:
- Hoàng Bá đã vì ông
chỉ tột, mà còn hỏi có lỗi hay không lỗi?
Ngay đó ngài Lâm Tế
liền đại ngộ, nói:
- Phật pháp của Hoàng
Bá rất ít.
Ngài Đại Ngu liền xô
ra hỏi:
- Mới hồi nãy nói có
lỗi không lỗi, bây giờ lại nói Phật pháp của Hoàng Bá rất ít. Ông thấy đạo lý
gì, nói mau.
Lâm Tế liền thoi cho
Đại Ngu một thoi vô hông. Ngài Đại Ngu xô ra bảo:
- Thầy ngươi là Hoàng
Bá, không phải ta.
Quí vị thấy thế nào?
Ngài Hoàng Bá, mới nhìn thấy quá tàn nhẫn phải không. Nhưng dưới con mắt của
Đại Ngu thì Ngài quá từ bi. Vì quá từ bi nên mới dồn đệ tử tới chỗ bí hiểm đó.
Dồn rồi đưa qua cho Đại Ngu vì biết ngài Đại Ngu sẽ tháo gỡ được. Cho nên khi
nghe ngài Đại Ngu nói: “Hoàng Bá đã vì ông chỉ tột, mà ông còn hỏi có lỗi không
lỗi?” thì Lâm Tế liền đại ngộ. Ngộ như thế tới chết cũng không quên! Bởi vì ba
lần bị đánh đòn đau quá, quên sao nổi.
Một bên bị véo lỗ mũi,
một bên bị đánh đòn. Đau quá nên cả hai đều đại ngộ! Chỗ Lục Tổ nói không nghĩ
thiện, không nghĩ ác thì ngài Lâm Tế nói có lỗi không lỗi. Hai lối nói đó có
khác nhau không? Khi nào không còn chỗ thấy hai bên mới là chỗ chân thật. Ngài
Lâm Tế ngộ được chỗ đó rồi, sau này Ngài thường nói với Tăng Ni: “Ta sau khi ăn
đòn, biết được chỗ chân thật rồi, tới nay không bao giờ quên.”
Ngày nay, Phật tử nghe
quí thầy nói cũng hiểu vậy, nhưng vài bữa là quên. Tại vì chưa ăn đòn, chưa bị
véo lỗ mũi, phải không? Quí thầy ngày nay dễ nên Phật tử cũng dễ quên. Còn
người xưa khó như vậy nên không bao giờ quên. Đó là những thủ thuật đặc biệt
của các Thiền sư Trung Hoa.
Những phương tiện ấy
đều là giáo ngoại biệt truyền. Trong kinh không dạy đánh, không dạy véo lỗ mũi,
nhưng quí ngài làm những việc đó. Như vậy có trái với đạo lý không? Chẳng những
không trái mà những thủ thuật ấy còn đưa hành giả tới chỗ lý đạo sâu xa hơn,
không bao giờ quên.
Bởi vì lâu nay chúng
ta quen nghĩ suy rồi. Bây giờ muốn chặn đứng nó lại phải có phương pháp mạnh
mới chặn nổi. Nếu không thì cũng ngồi thiền, cũng ngó xuống, mà cái đầu lăng
xăng không chịu yên. Cho nên thói quen đã thành đường mòn rồi, sửa khó. Muốn
cho đường mòn đó được bít lại, thì phải có cách khôn ngoan, khéo léo để chặn
đứng nó.
Còn nghĩ thiện, còn
nghĩ ác là còn sanh tử. Nghĩ thiện thì đi đường lành, nghĩ ác thì đi đường dữ.
Người tu chuyển nghiệp là đừng đi đường dữ, mà đi đường lành, đó là tu Nhân
thừa và Thiên thừa. Nếu muốn dứt hết không còn sanh tử nữa thì phải làm sao?
Tâm không còn dính, không còn kẹt bên nào thì mới thoát ly sanh tử. Tại sao?
Bởi vì dấy niệm thiện, ác thì tạo nghiệp thiện, ác. Trong ba nghiệp, ý là chủ.
Ý nghĩ thiện nghĩ ác thì thân làm thiện làm ác, miệng nói thiện nói ác. Bây giờ
ý không nghĩ thiện nghĩ ác, gặp cảnh thì làm tùy duyên, tâm không khởi niệm.
Việc làm đó không có gốc của thiện, ác.
Nếu tâm của chúng ta thản
nhiên, tự tại, không bị một niệm nào sai khiến thì nó bao la, trùm khắp. Nên
nói tâm bao la trùm khắp khó hiểu, bởi vì người ta cứ nghĩ tâm ở trong tấm thân
nhỏ bé này. Nhưng sự thật, nếu chúng ta nghĩ về người, thì cái nghĩ đó duyên
theo hình bóng người, nghĩ về cái chuông thì duyên theo bóng của cái chuông,
nghĩ về đồng hồ thì duyên theo bóng của đồng hồ… nó có giới hạn. Nếu không nghĩ
gì hết thì nó duyên theo bóng nào? Không có bóng. Không có bóng, không có hình
tướng thì nó trùm khắp rồi. Vậy mà chúng ta lại bỏ cái rộng lớn bao la ấy, đi
bắt lấy những cái nhỏ nhoi, tạm bợ. Cho nên Phật thương chúng sanh là thương ở
chỗ mê lầm đó.
Chúng sanh bám vào
những giả dối, tạm bợ mà hài lòng, còn cái chân thật lại bỏ quên. Trong khi cái
chân thật đó không bao giờ mất, nó luôn ở bên mình. Nên nói rằng chúng ta xuống
địa ngục thì Phật tánh cũng xuống địa ngục; nhưng Phật tánh không bị hành,
không bị khổ. Rõ ràng Phật tánh không tách rời chúng ta, chỉ tại chúng ta quên
thôi.
Quí vị nhìn lại chàng
cùng tử trong kinh Pháp Hoa xem có giống mình không? Cha là trưởng giả giàu có,
của cải vô số mà chàng cùng tử không chịu ở, bỏ đi lang thang. Tới chừng khổ
quá, mới thức tỉnh trở về. Thức tỉnh trở về mà cũng không dám nhận cha của
mình, của cải sự nghiệp của mình. Dần dần do người cha khéo dùng phương tiện
dìu dẫn, chàng cùng tử mới quen và từ từ nhận ra được gia tài và cha mình.
Chúng ta cũng vậy, có
cái chân thật, thênh thang mà không dám nhận. Chỉ nhận bóng dáng tạm bợ mấy
chục năm, tâm lăng xăng lộn xộn luôn luôn thay đổi là mình, bỏ quên cái chân
thật. Như vậy có đáng thương không? Chư Phật và Bồ-tát, thương là thương cái mê
lầm đó của chúng sanh. Cho nên toàn bộ kinh Phật đều nhằm đánh thức cho mình
tỉnh, đừng mê lầm nữa. Hết mê lầm là giải thoát sanh tử.
Cho nên có trí tuệ
giác ngộ rồi mới đi tới giải thoát. Nếu không có trí tuệ, không có giác ngộ thì
không có giải thoát. Đó là lẽ thường. Như vậy chúng ta tu cốt để được giải
thoát sanh tử thì phải đi con đường đó. Nếu chúng ta tu để đời sau sướng hơn
đời này, thì đi con đường Nhân thừa hoặc Thiên thừa như đã nói ở trên. Nhưng
đức Phật không thích chúng ta lên cõi trời. Tại sao? Bởi vì lên cõi trời hưởng
sung sướng nhiều quá, tu không được. Đến khi hưởng hết phước rồi thì rơi xuống
trở lại. Thế là uổng công bao nhiêu năm!
Chúng ta thường lầm
cho nghĩ rằng ăn ngon, mặc đẹp, ở nhà lầu, đi xe hơi… là hạnh phúc. Nhưng nếu
xét kỹ thân này ăn để chi? Cả ngày cứ mượn trả, mượn trả… ít chục năm nó cũng
hư hoại. Mượn trả tốt, mượn trả xấu cũng là mượn trả thôi, chớ có gì hơn. Đó là
nói ở cõi Ta-bà này chỉ có mấy chục năm thôi. Nếu ở cõi trời thì tuổi thọ gấp
năm mười lần, hai ba mươi lần cõi này. Nhưng lên đó mượn trả đã rồi cũng phải
trở xuống. Như vậy có nghĩa lý gì. Tốt hơn ở đây có khổ có vui, mau tỉnh. Mau
tỉnh thì dễ tu. Dễ tu mới có thể ra khỏi sanh tử luân hồi sớm. Chúng ta thấy
rằng đức Phật nhìn thật tường tận. Còn chúng ta thì không như thế.
Như vậy ở thế gian,
người giàu quá hoặc nghèo quá, dễ tu hay khó tu? Cả hai đều khó cả. Chỉ có hạng
người vừa đủ ăn, khổ vui lẫn lộn là dễ tu hơn hết. Khổ quá thì tối ngày bận bịu
với cuộc sống, đâu có rảnh mà nhớ tu. Còn dư dả quá, giàu có quá thì tiệc tùng
liên miên cũng không rảnh mà tu. Nên nó cả hai trường hợp này đều khó tu. Phật
bảo sanh trong tam ác đạo không tu được nên phải tránh. Nhưng cõi trời cũng khó
tu, chỉ cõi người là dễ tu.
Từ nay, quí vị có than
phiền sanh cõi người khổ nữa không? Sanh cõi người là cơ hội tốt để cho mình dễ
thức tỉnh. Nếu được lên cõi trời mình cứ hưởng không nghĩ tới tu. Sanh cõi
người, chúng ta có đủ cơm ăn là tốt rồi, để thời giờ nghiên cứu, học hỏi, tu
hành. Người biết đạo là người không tham cầu sung sướng, chỉ vui trong hoàn
cảnh vừa đủ của mình, rồi để dành thời giờ lo tu. Những vui buồn là cơ hội tốt
để mình tỉnh, chớ nếu vui hoài thì không tỉnh. Nên buồn không hẳn là tai họa,
nó cũng là duyên để chúng ta thức tỉnh.
Nhớ như vậy thì sự
sống của mình an lành. Còn nếu chúng ta cứ đòi hỏi bằng người này, bằng người
kia là không biết sống. Vì sống mà cứ mơ ước, trông đợi trong ảo tưởng, không
thực tế cho nên khổ.
Tất cả các bệnh của
chúng ta đều từ tâm niệm so sánh, đối chiếu mà có. Tham, sân, si cũng từ đó.
Nếu chúng ta buông liền từ gốc dấy niệm thì đâu còn gì để tham, sân, si. Như
vậy uống có một thang thuốc mà lành hết tất cả bệnh. Đó là do trị tận gốc vậy.
Phương thuốc thật đơn giản, nói đơn giản nhưng lại khó làm. Nếu làm được thì
kết quả rất to, chớ không phải thường. Cho nên đường lối tu thiền này các Tổ sư
gọi là Tối thượng thừa, không theo thứ bậc nào cả.
Trị từng bệnh là Nhị
thừa. Đến như Bồ-tát cũng còn trị từng bệnh. Ở đây không trị từng bệnh, mà trị
tận gốc. Gốc hết rồi thì tất cả bệnh theo đó hết. Đây gọi là đi đường thẳng.
Cho nên nó đốn giáo, tức thẳng tắt chớ không có quanh co. Vì vậy Tối thượng
thừa cũng gọi là Phật thừa. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật; chớ nó không có
quanh co thứ bậc. Các thừa kia theo thứ lớp, dẹp được phiền não nào thì chứng
được tầng bậc nào tương ứng. Ở đây không dẹp phiền não, mà dẹp gốc sanh phiền
não. Gốc sanh phiền não nếu dẹp được thì thẳng đó thành Phật. Ngay ông Phật sẵn
của mình hiện ra. Học Thiền đốn ngộ là chỉ thẳng gốc ấy. Nếu gốc đốn được rồi
thì ngọn dễ lắm. Nếu gốc chưa đốn được thì chặt ngọn này, nó nhảy ra ngọn khác,
khó lâu mới hết sạch.
Người tu không hiểu,
không nắm được pháp tu là tu mù. Nếu biết rõ thì kết quả tu sẽ đúng như mình
mong muốn. Đó là tu trong sáng suốt. Nên quí vị đừng mong rằng mình ngồi thiền,
ngày nào đó có hào quang sáng ngời lên chẳng hạn. Những việc ấy không thể cứu
được mình. Cứu mình là thấy đúng như thật. Vọng tưởng biết vọng tưởng. Đó là
trí tuệ rồi. Trí tuệ này hết sức đơn giản. Chúng ta thường không chịu cái đơn
giản, mà đòi có hào quang, đòi đủ thứ hết. Bởi vậy người tu thiền lạc vào tà
đạo cũng tại mong muốn những thứ không thực tế.
Cho nên trong kinh,
Phật nói rằng: “Ngoại đạo tu có thể chứng được ngũ thông; còn ta tu chỉ lấy đạo
thông làm gốc.” Đạo thông tức là suốt được lối đi, thấu được đạo lý chân thật.
Bởi vì thần thông không cứu được mình. Hiểu như vậy trên đường tu mới khỏi lầm
lẫn.
Chư sư Nguyên thủy tu
theo Tứ niệm xứ v.v… các ngài đi biết giở chân, đứng biết dừng chân, duyên theo
từng hành động. Bởi tu duyên theo từng hành động nên lối đi đứng rất nghiêm
trang. Còn lối tu biết vọng, trong các oai nghi thảnh thơi, biết vọng không
theo. Chỉ “chăn” cái nghĩ, mà không “chăn” hành động. Vì vậy lối tu này, hành
giả sanh hoạt một cách tự nhiên, không kềm gượng.
Nhiều Phật tử thuật
lại cho tôi nghe, họ ứng dụng lối tu biết vọng, lúc lái xe thì cứ lái xe, vừa
nghĩ bậy liền buông. Do đó khi lái xe cũng vẫn tu được. Làm việc gì chuyên tâm
vào việc đó, không cho nghĩ cái gì khác. Nhờ chuyên tâm nên việc làm rất tốt.
Như vậy trường hợp nào cũng tu được hết. Sống trong thời khoa học máy móc này,
nếu chúng ta lơ lỏng, ngồi đây mà lo ra, nghĩ chuyện khác thì sẽ rất nguy hiểm.
Như vậy lối tu này, tu
mà không thấy mình tu gì hết. Ở ngoại quốc ứng dụng lối tu này rất hay, vì nếu
tụng kinh, lễ bái nhiều hàng xóm nghe chuông, nghe mõ người ta phản đối lắm.
Chúng ta ngồi thiền im lìm không có gì phiền đến người khác cả, như vậy vừa hay
cho mình, vừa hay cho người. Tu ở đâu cũng được, dễ dàng không có gì trở ngại.
Tóm lại, trên đường tu
chúng ta tu thế nào để cho bản thân mình, cuộc sống của mình và cuộc sống xã
hội không bị trở ngại, đó là điều cần thiết. Được vậy sự truyền bá của Phật
pháp mới đúng với nhịp tiến của thời đại. Nếu chúng ta tu mà không thích hợp
với cuộc sống của thời đại, của xã hội mới thì không được. Quí Phật tử cần phải
hiểu cho thấu đáo để ứng dụng tu có kết quả thiết thực. Hôm nay tôi đưa ra
thang thuốc này, chúc quí vị được lành tất cả bệnh.
- HT Thích Thanh Từ -
(Nguồn: Thienvienthuongchieu)
0 Kommentare:
Post a Comment