Đã thông hiểu chân lý ấy ta sẽ buông bỏ, để cho tất
cả trôi qua như nước lăn trôi trên lá sen. Đã thông hiểu chân lý ấy ắt
không còn “Hữu” và “Sanh”. Vì sao không còn sanh nữa?
Cái tâm này
Về cái tâm
này . . . trong thực tế không có gì thật sự là sai. Bản chất cố hữu
của tâm là trong sạch. Do bẩm tính thiên nhiên, tự nó đã là thanh
bình an lạc. Sở dĩ ngày nay tâm này không được an lạc là bởi vì nó
mãi chạy theo những cảm xúc thương ghét buồn vui của đời. Cái tâm
chân thật không có gì là vui buồn hay thương ghét mà đơn giản chỉ là
một sắc thái của Thiên Nhiên. Tâm trở nên an lạc hay chao động vì bị
cảm xúc lường gạt. Một cái tâm không được rèn luyện quả thật là
khờ dại. Cảm thọ do giác quan đưa đến phỉnh gạt, đưa nó vào những
trạng thái hạnh phúc, đau khổ, thỏa thích hay âu sầu, nhưng bản chất
thật sự của tâm là không có gì như vậy.Thỏa thích hay âu sầu ấy,
không phải là tâm. Mà chỉ là những cảm xúc, đến để phỉnh lừa chúng
ta. Một cái tâm không được rèn luyện sẽ lạc lối và bám sát theo
những xúc cảm buồn vui thương ghét ấy và tự quên mình. Rồi ta nghĩ
rằng chính ta băn khoăn lo ngại hoặc dễ chịu thoải mái, hoặc gì
khác.
Trong thực tế
tâm vốn không chao động và thanh bình . . . thật sự an lạc! Giống như
chiếc lá, nằm im khi không có gió. Ngọn gió thoảng qua, lá liền chao
động. Lá chao động vì gió – trạng thái tâm “chao động” phát sanh do
những cảm xúc. Tâm bám, sát chạy theo. Nếu tâm không chạy theo ắt
không “chao động”. Nếu chúng ta thấu hiểu tận tường bản chất thật sự
của những cảm xúc, ắt chúng ta không còn lo âu tư lự.
Pháp hành của
chúng ta chỉ để nhận thấy bản chất thật sự của cái Tâm Nguyên Thủy.
Như vậy phải rèn luyện tâm để thấu hiểu những cảm xúc và không bị
lạc lối trong đó, để làm cho tâm thanh bình an lạc. Chính đó là mục
tiêu mà ta phải đạt đến xuyên qua bao nhiêu khó khăn của pháp hành.
Pháp hành thiền
Làm cho tâm
vắng lặng có nghĩa là tìm đúng trạng thái quân bình. Nếu quý vị
cố gắng bắt buộc tâm mình làm quá sức ắt nó đi quá xa; còn nếu
không cố gắng thì nó không đi đến nơi đến chốn, mất thăng bằng.
Thông thường
tâm không yên tĩnh mà luôn luôn di động, nhưng nó không đủ năng lực. Làm
cho tâm có nhiều năng lực và tạo năng lực cho thân không giống nhau.
Muốn cho thân có sức mạnh phải thúc đẩy, bắt nó vận động. Nhưng làm
cho tâm mạnh có nghĩa là làm cho nó an lạc, không nghĩ ngợi suy tư
điều này việc nọ. Đối với phần động chúng ta tâm không bao giờ được
an lạc, không bao giờ có được năng lực của “định” (samadhi) – trạng
thái tâm an trụ và tĩnh lặng do nhờ hành thiền. Do đó ta đặt nó vào
khuôn khổ, ngồi lại hành thiền, ở với “người hiểu biết”.
Nếu ép buộc
hơi thở của mình phải quá dài hay quá ngắn chúng ta sẽ không quân
bình, tâm sẽ không an lạc. Cũng như ta bắt đầu xử dụng bàn máy may
đạp bằng chân. Trước tiên chỉ tập đạp không cho quen chân, rồi sau đó
mới thật sự may món đồ gì. Theo dõi hơi thở cũng dường thế ấy.
Không cần phải lo lắng quan tâm đến hơi thở dài hay ngắn, mạnh hay
yếu, chỉ ghi nhận. Chỉ để cho hơi thở tự nhiên diễn tiến và ghi nhận
diễn tiến tự nhiên ấy.
Khi hơi thở
được đều đặn ta sẽ lấy đó làm đề mục hành thiền. Lúc thở vào,
đoạn đầu của hơi thở ở tại chóp mũi, đoạn giữa tại lồng ngực và đoạn
cuối ở bụng. Đó là con đường của hơi thở. Khi thở ra, đoạn đầu của
hơi thở ở bụng, đoạn giữa ở lồng ngực và đoạn cuối ở chóp mũi. Ta
chỉ giản dị theo dõi ghi nhận luồng hơi thở ở chóp mũi. Chúng ta ghi
nhận ba điểm này đề làm cho tâm vững chắc, để hạn chế những hoạt
động tâm linh hầu giúp phát sanh dễ dàng tâm chú niệm và tự hay
biết.
Đến lúc đã
thuần thục ghi nhận ba điểm này ta có thể không theo dõi hơi thở trọn
vẹn từ chóp mũi đến bụng nữa mà chỉ chú tâm nơi chóp mũi, hoặc ở
môi trên, nơi nào mà luồng hơi chạm vào và chỉ theo dõi hơi thở, nơi
điểm ấy. Không cần phải đi theo hơi thở mà chỉ chú niệm vào chóp
mũi, và ghi nhận hơi thở tại ngay điểm duy nhất ấy – vào, ra, vào,
ra. Không cần phải suy nghĩ gì đặc biệt. Trong hiện tại chỉ tập trung
nỗ lực vào nhiệm vụ đơn giản này, luôn luôn có sự chú tâm hay biết.
Không có gì khác phải làm, chỉ thở vào, thở ra.
Không bao lâu
tâm trở nên an lạc, hơi thở trở nên vi tế. Thân tâm nhẹ nhàng. Đó là
trạng thái đúng trong công trình hành thiền.
Khi ngồi
thiền tâm trở nên vi tế, nhưng bất luận trạng thái tâm như thế nào ta
phải cố gắng hay biết, thấu hiểu nó. Sinh hoạt tâm linh cùng ở chung
với trạng thái vắng lặng. Có chi thiền Tầm (Vitakka), sự đưa tâm đến
đề mục. Nếu chú niệm yếu, Tâm cũng yếu. Rồi tiếp theo đó là chi
thiền Sát, hay Tứ (Vicara), sự quán niệm quanh quẩn đề mục. Thỉnh
thoảng những cảm giác yếu ớt khác nhau có thể phát hiện nhưng tự
hay biết mình là yếu tố quan trọng, bất cứ gì xảy ra ta liên tục hay
biết. Càng đi sâu vào thiền ta càng hay biết thường xuyên trạng thái
tâm của ta, thấu hiểu tâm có an trụ vững chắc cùng không. Như vậy cả
hai, chú niệm và hay biết đều hiện diện, hành giả luôn luôn chú niệm
và hay biết.
Tâm an lạc
không có nghĩa là không có gì xảy ra, những cảm xúc có thể phát
sanh. Thí dụ như khi đề cập đến sơ thiền, tầng vắng lặng đầu tiên, ta
nói có năm chi. Cùng với hai chi thiền Tầm và Sát, Phỉ (Piti) cùng
phát sanh với đề mục và sau đó là Lạc (Sukha). Cả bốn chi thiền này
đều nằm chung trong cái tâm vắng lặng, an trụ vững chắc. Tất cả cùng
ở chung một trạng thái.
Nhằm giúp
quý vị chưa quen thuộc với các từ ngữ trong pháp môn thiền định, dễ
dàng lãnh hội thời Pháp của Ngài Thiền Sư chúng tôi xin thêm phần
chú giải dười đây, dựa theo Vi Diệu Pháp.
Năm chi thiền,
tức năm yếu tố của thiền: Tầm, Sát, Phỉ, Lạc và Trụ, nằm trong tâm
Định, bao gồm cái được gọi là sơ “thiền” (Jhana). Trong tầng nhị
thiền hai chi đầu tiên được loại và cuối cùng đến tứ thiền, chí đến
chi thiền thứ tư, “Lạc”, cũng được loại và “Xã” được thay vào.
Vitakka, Tầm
là chi thiền hướng về đối tượng nhưng tâm sở cùng phát sanh đồng
thời.
Vicara, Sát
hay Tứ, là quan sát hay dò xét. Ở đây Sát là liên tục đặt tâm trên
đối tượng. Tầm hướng tâm về đối tượng và Sát đặt tâm lên đối tượng.
Vitakka, Tâm, giống như con ong bay hướng về hoa. Vicara, Sát, như ong bay
vo vo, quanh quẩn trên hoa.
Piti, Phỉ, là
thỏa thích. Nhưng Piti, Phỉ, không phải là một loại thọ (vedana) như
Sukha. Một cách chính xác, nó là tâm sở đến trước, và trong khi xuất
hiện, báo hiệu rằng có thọ Sukha, Lạc, phát sanh. Có năm loại Phỉ
là: Sự thỏa thích thoảng qua mau lẹ như trời chớp, sự thỏa thích
tràn ngập như sóng biển trườn lên bãi, sự thỏa thích thanh thoát, đem
lại cho hành giả cảm giác nhẹ nhàng như bông gòn, lững lờ bay theo
chiều gió, và sự thỏa thích thấm nhuần toàn thể châu thân như bong
bóng được thổi phòng, hay trận lụt tràn lan làm ngập cả ao vũng.
Sukha, Lạc,
là thọ lạc, an vui hạnh phúc. Piti, Phỉ, làm cho hành giả phấn khởi
vui thích trong đề mục còn Sukha, Lạc, thì giúp hành giả thỏa thích
hưởng thọ đề mục. Khách lữ hành mệt mỏi đi trong sa mạc, thấy xa xa
có cụm cây và ao nước thì lấy làm thỏa thích. Vui mừng trước khi
thật sự hưởng thọ là Piti. Khi đến tận ao nước, trạng thái thỏa
thích tắm rửa và uống nước là Sukha.
Upekkha, Xã
là một hình thức vi tế của tâm bình thản, quân bình. Tâm sở này
cũng đã tiềm ẩn trong các tầng sơ thiền, nhị thiền và tam thiền
nhưng đến tứ thiền thì nổi bậc lên và trở thành vi tế đến mức cao
độ. Đến đây chấm dứt phần chú giải của người dịch.)
Chi thứ năm
là Nhất Điểm Tâm (Ekaggata), tâm gom vào một điểm duy nhất. Quý vị có
thể ngạc nhiên làm sao tâm có thể là “nhất điểm” trong khi còn có
những chi thiền khác cũng hiện diện trong một lúc. Đó là vì tất cả
đều hợp nhất, an trụ trên nền tảng vắng lặng. Hợp chung lại, cả năm
chi thiền được gọi chung là “định” (samadhi). Nó không phải trạng thái
tâm mà ta có hằng ngày, nó là những yếu tố của vắng lặng, các chi
thiền. Có năm đặc điểm ấy, nhưng nó không làm xáo trộn trạng thái
vắng lặng căn bản. Có chi Tầm, nhưng nó không khuấy động tâm. Sát,
Phỉ, Lạc phát sanh nhưng không làm xáo trộn tâm. Tâm là một, đồng
nhất thể với các chi thiền. Tầng vắng lặng đầu tiên là như vậy.
Chúng ta không
cần đề cập đến các tầng Thiền (Jhana) -- sơ thiền, nhị thiền, tam
thiền và tứ thiền -- Hãy gọi nó là “ tâm an lạc ”. Vào lúc
trở nên ngày càng vắng lặng hơn, tâm không cần đến Tầm và Sát nữa
mà chỉ còn Phỉ và Lạc. Tại sao tâm loại bỏ Tầm và Sát? Đó là vì,
khi tâm càng vi tế hơn thì tác động của Tầm và Sát trở thành quá
thô thiển để tồn tại chung. Vào giai đoạn này, khi tâm loại bỏ Tầm
và Sát, những cảm giác phỉ lạc mạnh mẽ có thể phát sanh, nước mắt
có thể tuôn chảy. Nhưng khi trạng thái Định vững mạnh sâu sắc thêm,
Phỉ cũng bị loại ra, chỉ còn Lạc và Trụ, hay Nhất Điểm Tâm.
Cuối cùng Lạc cũng bị loại bỏ và tâm tiến đạt đến mức độ vi tế
cao nhất. Chỉ còn Xã và Nhất Điểm Tâm, tất cả những chi thiền khác
đều bị loại. Tâm đứng yên, vững chắc không chao động.
Một khi tâm
đã an lạc thì điều này có thể xảy đến. Quý vị không cần suy tư
nhiều về nó, tự nó sẽ đến. Đó là năng lực của tâm an lạc. Trong
trạng thái nầy tâm không nghe hôn trầm. Cả năm chướng ngại tinh thần
cũng gọi là năm pháp triền cái : tham dục, oán ghét, hôn trầm dã
dượi, phóng dật lo âu và hoài nghi đều tan biến.
Tuy nhiên, nếu
năng lực tinh thần vẫn chưa đủ mạnh và chú niệm còn yếu đôi khi một
vài cảm xúc sẽ lẫn xen vào. Tâm an lạc, nhưng trong sự tĩnh lặng
dường như có một trạng thái lu mờ. Mặc dầu vậy đó không phải là
loại hôn trầm bình thường, một vài cảm xúc sẽ biểu hiện - - có thể
chúng ta nghe một tiếng động hay thấy một vật, con chó hay gì khác.
Nó không phải là thật sự rõ ràng nhưng cũng không phải là một giấc
mơ. Đó là vì năm pháp triền cái không quân bình và còn yếu ớt.
Tâm có chiều
hướng bày trò phỉnh gạt bên trong những tầng vắng lặng. Những hình
ảnh tưởng tượng xuyên qua giác quan, đôi khi sẽ phát sanh khi tâm ở vào
trạng thái này, và khi hành giả không thể nói một cách chính xác
những gì đã xảy ra. “ Tôi có đang ngủ chăng? Không. Phải chăng đó là
một giấc mơ? Không. Đó không phải là một giấc mơ.” Những cảm giác
tương tợ thường phát sanh trong trạng thái vắng lặng; nhưng nếu tâm
thật sự vắng lặng và sáng tỏ chúng ta không hoài nghi những cảm
giác hoặc những hình ảnh tưởng tượng khác nhau đã phát sanh. Những
thắc mắc như, “Tôi có phóng tâm không? Tôi có ngủ không? Tôi có lạc
lối không? không phát sanh, bởi vì nó là những đặc điểm của cái tâm
còn hoài nghi. “Tôi ngủ hay thức?”… Đó, nó bị rối nùi! Đó là cái
tâm bị lạc lối trong những cảm giác. Giống như ánh trăng bị vầng mây
che án. Ta vẫn còn thấy mặt trăng nhưng nó bị mây án nên trở thành lu
mờ, không phải như mặt trăng đã vượt ra khỏi đám mây – trong sáng, rõ
ràng và rạng ngời.
Khi tâm an lạc
và kiên cố vững chắc trong chú niệm và trong trạng thái tự hay biết,
sẽ không còn hoài nghi đối với những hiện tượng khác nhau mà mình
gặp phải. Nó sẽ thật sự vượt ra ngoài những chướng ngại tinh thần.
Chúng ta sẽ thấu hiểu rõ ràng tất cả những gì phát sanh đến tâm,
đúng như chính thật nó là vậy. Chúng ta không hoài nghi bởi vì tâm
đã sáng ngời và tỏ rạng. Cái tâm tiến đạt đến “định” (samadhi) là
như vậy.
Tuy nhiên, vài
người cảm thấy khó mà nhập định (samadhi), bỏi vì việc này không
thích hợp với khuynh hướng tự nhiên của họ. Tâm có định, nhưng không
đủ dũng mãnh và không đủ kiên cố. Trong trường hợp này, có thể
thành tựu an lạc bằng cách dùng trí tuệ để quán chiếu và nhận
thấy chân lý của sự vật, giải quyết vấn đề như vậy. Đó là sử dụng
trí tuệ thay vì năng lực của định. Trong thực tế, không cần thiết phải
ngồi thiền để đạt đến trạng thái vắng lặng. Chỉ tự hỏi mình, “Ê!
Cái gì vậy?” và giải quyết vấn đề ngay tại đó! Người có trí tuệ
là vậy. Có thể không thật sự đạt đến tầng cao nhất của tâm định,
mặc dầu vậy người ấy cũng phát triển tâm an trụ đầy đủ để trau
giồi trí tuệ. Cũng giống như sự khác biệt giữa trồng lúa và trồng
bắp. Để sinh sống, người kia có thể tùy thuộc vào lúa nhiều hơn
bắp. Pháp hành của chúng ta cũng dường thế ấy, tùy thuộc nhiều hơn
vào trí tuệ để giải quyết vấn đề. Khi đã thấy chân lý, an lạc sẽ
phát sanh.
Hai đường lối
này không giống nhau. Vài người có tuệ minh sát và trí tuệ dũng
mãnh nhưng không có nhiều tâm định. Khi ngồi xuống hành thiền họ không
thấy nhiều an lạc. Họ có khuynh hướng suy tư buông lung, quán tưởng
điều nầy việc nọ, cho đến khi tình cờ họ quán niệm về hạnh phúc
và đau khổ và thấy chân lý trong đó. Họ thiền về quán chiếu sự vật
hơn là định tâm. Bất luận giờ phút nào – trong khi đi, đứng, nằm hay
ngồi – ta cũng có thể chứng ngộ Giáo Pháp. Do nhận thấy, do từ bỏ,
họ đạt đến an lạc thanh bình. Họ thành tựu trạng thái an lạc bằng
cách thấu hiểu chân lý mà không chút hoài nghi, bởi vì tự chính họ
đã nhận thấy.
Người khác có ít trí tuệ nhưng tâm định rất dũng mãnh. Họ có thể nhập định một cách nhanh chóng và thâm sâu, nhưng không có được nhiều trí tuệ. Họ không thể chụp bắt được các ô nhiễm của họ, không phân biệt nó. Họ không thể giải quyết vấn đề.
Người khác có ít trí tuệ nhưng tâm định rất dũng mãnh. Họ có thể nhập định một cách nhanh chóng và thâm sâu, nhưng không có được nhiều trí tuệ. Họ không thể chụp bắt được các ô nhiễm của họ, không phân biệt nó. Họ không thể giải quyết vấn đề.
Nhưng, bất
luận đường lối nào đã chọn, ta phải loại bỏ suy tư lầm lạc và chỉ
giữ lại chánh kiến. Phải loại trừ tình trạng mơ hồ hổn loạn, chỉ
giữ lại an lạc thanh bình. Đằng nào chúng ta cũng chấm dứt cùng một
nơi. Pháp hành có hai mặt, vắng lặng và minh sát, nhưng cả hai cùng
hợp chung thành một. Không thể bỏ một trong hai. Nó phải cùng đi
chung.
Cái gì “canh
chừng” những yếu tố khác nhau phát sanh trong lúc hành thiền là sati,
niệm. Xuyên qua pháp hành, niệm này là điều kiện có thể giúp cho
các yếu tố khác phát sanh. Niệm là sự sống. Bất cứ lúc nào không
có niệm, khi ta để tâm buông lung vọng động, thì dường như ta chết.
Nếu không có niệm, lời nói và hành động của ta không có ý nghĩa.
Niệm ở đây chỉ là sự hiện hữu của tâm. Niệm tạo nhân duyên cho trạng
thái tự hay biết và trí tuệ phát sanh. Nếu không có niệm thì bất
cứ đức hạnh nào mà ta trau giồi cũng sẽ không toàn hảo. Niệm là
cái gì canh chừng chúng ta trong khi đi, đứng, nằm, ngồi. Dầu trong
những lúc mà chúng ta không định, phải luôn luôn giữ chú niệm.
Bất luận gì
ta làm, phải thận trọng. Một ý thức hỗ thẹn phát sanh. Ta sẽ cảm
nghe hỗ thẹn vì việc mà ta làm đã tỏ ra là sai lầm. Khi tình trạng
hỗ thẹn tăng trưởng, sự chú tâm của ta cũng tăng trưởng. Khi sự chú
tâm tăng trưởng, trạng thái buông lung sẽ tan biến. Dầu ta không ngồi
thiền những yếu tố ấy sẽ hiện hữu trong tâm.
Điều ấy phát
sanh bởi vì tâm niệm của ta đã được trau giồi. Hãy phát triển chú niệm!
Đó là yếu tố canh chừng, trông nom công việc mà ta đang làm hoặc đã
làm trong quá khứ . Nó thật sự là hữu dụng. Chúng ta phải luôn luôn
tự biết mình. Nếu tự hiểu biết mình như thế ấy, những gì đúng đắn
hay sai lầm sẽ được phân biệt rành mạch, con đường sẽ trở nên tỏ
rạng và nguyên nhân sanh hỗ thẹn sẽ biến tan. Trí tuệ sẽ bừng dậy.
Chúng ta có
thể gom chung pháp hành lại trong ba điều tu học: giới, định và tuệ.
Trầm tĩnh, tự kiểm soát là giới. Kiên cố tâm vững chắc trong khuôn
khổ của sự kiểm soát ấy là định. Thấu hiểu trọn vẹn, tận tường
và đầy đủ trong mọi sinh hoạt là trí tuệ. Tóm tắt, pháp hành chỉ
là giới, định và tuệ, hoặc nói cách khác, là con đường. Không có
đường lối nào khác.
Đức Phật ban
truyền ba pháp tu học : Giới, Định, Tuệ. Đó là con đường dẫn đến an
lạc, là con đường Giác Ngộ. Nhưng thật sự ba pháp ấy không phải là
tinh hoa của Phật Giáo. Nó chỉ là Con Đường. Đức Phật gọi là
“Magga”, có nghĩa là “Con Đường”. Tinh hoa của Phật Giáo là an lạc.
Và trạng thái an lạc này phát sanh từ sự thấu triệt thực tướng của
vạn pháp. Nếu quán chiếu tường tận và phân tách rành mạch ta có
thể thấy rằng an lạc không phải là hạnh phúc, cũng không phải
là đau khổ. Đau khổ và hạnh phúc đều không phải là chân lý.
Tâm của con
người – cái tâm mà Đức Phật kêu gọi chúng ta quán chiếu và thấu hiểu
– là cái gì mà ta chỉ có thể hiểu biết qua sinh hoạt của nó. Không
có gì mà ta có thể dùng để đo lường cái Tâm Nguyên Thủy thật sự,
quả thật không có gì mà ta có thể dùng để hiểu biết nó. Trong
trạng thái thiên nhiên tâm không chao động, không di chuyển. Khi hạnh
phúc phát sanh tâm bị lạc lối trong cảm xúc. Có sự di chuyển, tâm
chao động. Khi tâm xúc động như vậy, tình trạng bám níu vào niềm vui
thích ấy phát sanh.
Đức Phật đã
chỉ vạch Con Đường và giáo truyền đầy đủ pháp hành để chúng ta
tiến bước trên đó, nhưng chúng ta không thực hành, hoặc chỉ thực hành
bằng lời nói. Tâm và lời nói của chúng ta không điều hợp với nhau.
Chúng ta chỉ lợi dưỡng trong cuộc đàm thoại rỗng không. Nhưng nền
tảng của Phật Giáo không phải là cái gì có thể luận bàn suông
hay ước đoán. Nền tảng thật sự của Phật Giáo là thấu hiểu trọn
vẹn chân lý của thực tại. Nếu đã thấu đạt chân lý ấy rồi thì không
cần gì đến giáo huấn. Còn nếu không thấu hiểu chân lý thì dầu có
lắng nghe bao nhiêu lời dạy vẫn không thật sự là nghe. Đó là lý do
tại sao Đức Phật dạy: “ Bậc Toàn Giác chỉ chỉ vạch con Đường ”.
Ngài không thể thực hành cho quý vị bởi vì chân lý là cái gì không
thể diễn đạt bằng lời nói mà làm cũng không thể biếu tặng cho ai.
Những lời
dạy chỉ là những câu chuyện ngụ ngôn và những thí dụ nhằm giúp cho
tâm thấu hiểu chân lý. Nếu không thấy chân lý ắt chúng ta phải đau
khổ. Thí dụ như chúng ta thường nói “sakhara”, pháp hữu vi, khi đề
cập đến cơ thể vật chất. Bất luận ai cũng có thể nói như vậy. Nhưng
trong thực tế chúng ta vẫn bị khó khăn, vì chúng ta không thấu hiểu
chân lý của “các pháp hữu vi”, và do đó, bám níu chặt chẽ vào. Vì
không thấu đạt trọn vẹn chân lý của thân nên chúng ta đau khổ.
Sau đây là
một ví dụ. Buổi sáng nọ, khi quý vị đang rảo bước trên đường để
đến sở làm thì từ lề bên kia có người la to, chưởi mắng quý vị
thậm tệ. Vừa khi nghe tiếng chưởi mình thì tâm quý vị liền biến
đổi, không còn ở tình trạng bình thường. Quý vị cảm nghe không thoải
mái, tự thấy mình bị xúc phạm và nổi giận. Người kia cứ đi quanh
quẩn, đêm ngày chưởi mắng quý vị. Khi nghe tiếng la chưởi thì quý vị
tức giận. Chỉ đến khi về đến nhà rồi quý vị vẫn còn cảm nghe sân
hận, có ý muốn trả đủa, muốn làm một điều gì để trả thù.
Vài ngày sau
đó một người khác đến gặp quý vị và nói, “Ông ơi! Người mà hôm nọ
chưởi mắng ông ngoài đường là một người mất trí, anh ta điên! Đã
nhiều năm rồi anh ta điên như vậy! Cứ đi ngoài đường chưởi mắng mọi
người. Không ai màng để ý đến những gì anh ta nói”. Được nghe giải
thích như vậy thì quý vị cảm thấy nhẹ nhàng. Bao nhiêu phiền giận
và khó chịu mà quý vị mang trong lòng từ mấy ngày qua hoàn toàn tan
biến. Tại sao? Bởi vì giờ đây quý vị đã thấu hiểu chân lý của
vấn đề. Trước kia quý vị không hiểu, nghĩ rằng người kia bình thường
nên giận anh ta. Vì không hiểu nên quý vị nổi giận. Vừa khi tìm ra
chân lý thì mọi việc đều thay đổi, “Ờ, người ấy điên! Điều này giải
thích mọi việc!” Khi đã thấu hiểu vấn đề quý vị cảm nghe thoải mái
dễ chịu trở lại. Quý vị đã tự mình thấu hiểu. Đã thấu hiểu, quý
vị liền buông bỏ, không chấp vào đó nữa. Nếu không hiểu biết ắt quý
vị sẽ bám níu, dính mắc ngay vào đó. Nghĩ rằng anh chàng chưởi
mắng kia là bình thường thì quý vị phát sân lên và có thể sát hại
anh ta. Nhưng khi đã hiểu được chân lý, biết rằng anh ta chỉ là người
điên thì quý vị cảm nghe thoải mái dễ chịu hơn nhiều. Thấu hiểu chân
lý là như vậy.
Người đã
chứng ngộ Giáo pháp cũng có những kinh nghiệm tương tợ. Khi tham, sân
và si tan biến, nó cũng tan biến cùng thế ấy. Ngày nào còn chưa
hiểu biết tường tận chúng ta nghĩ, “ Ta có thể làm gì được bây giờ?
Tham và sân của ta đã quá nhiều”. Đó là không thấu hiểu rõ ràng.
Cũng như khi ta nghĩ rằng anh chàng điên kia là người tỉnh trí.
Khi cuối cùng, đã thấy rõ anh ta là người điên thì bao nhiêu âu lo đều
tan biến. Không ai có thể chỉ cho quý vị. Chỉ khi nào tự tâm quý vị
nhận thức rõ ràng nó mới có thể bưng tận gốc rễ tham, sân và không
còn bám níu.
Đối với thân
này mà chúng ta gọi là pháp hữu vi (sankhara) cũng vậy. Mặc dầu Đức
Bổn Sư đã giải thích rành mạch rằng không có một thực thể hay một
chúng sanh thật sự có thực chất, chúng ta vẫn còn chưa chấp nhận và
vẫn còn ngoan cố bám chắc vào nó. Nếu thân có thể nói, hằng ngày
nó sẽ thì thầm với ta rằng. Ông không phải là chủ của tôi, ông biết
không? Tôi không thuộc quyền sở hữu của ông đâu. Trong thực tế, nó vẫn
luôn luôn nói với ta như vậy, nhưng đó là ngôn ngữ của Giáo Pháp nên
ta không thể lãnh hội. Thí dụ như mắt, tai, mũi, lưỡi và thân này
luôn luôn biến đổi nhưng nào có xin phép ta bao giờ! Đôi khi chúng ta
đau bụng hay nhức đầu. Có lần nào cơ thể này xin phép ta trước không?
Nó chỉ diễn tiến theo con đường thiên nhiên của nó. Điều này nói lên
rằng thân này không để cho ai làm chủ nó. Nó không có chủ. Đức Phật
mô tả nó như một vật rỗng không.
Chúng ta không
thông hiểu Giáo Pháp và do đó không thông hiểu các pháp hữu vi ấy. Ta
nhận nó là chính ta, là sở hữu của ta, hay của ai khác. Đó là
nguyên nhân tạo nên luyến ái. Ta trìu mến, bám sát, níu chắc vào nó
(Thủ). Khi thủ phát sanh thì Hữu, sự trở thành, liền đi theo. Một khi
Hữu phát sanh ắt có Sanh. Có sanh tức có Lão, có Bệnh, có Tử . . .
và toàn thể khối đau khổ phát sanh. Đó là Paticcasamuppada, chuỗi dài
những vòng khoen của Thập Nhị Nhân Duyên. Chúng ta nói Vô Minh tạo
duyên cho Hành phát sanh, rồi cả hai tạo duyên cho Thức v.v … Tất cả
những điều ấy chỉ đơn giản là những diễn biến trong tâm. Khi xúc
chạm với điều gì mà ta không ưa thích, nếu không có chú niệm thì Vô
Minh ở ngay tại đó. Đau Khổ tức khắc phát sanh. Tuy nhiên, tâm vượt
xuyên qua những biến đổi ấy nhanh chóng đến độ ta không theo dõi kịp.
Cũng giống như khi ta rơi từ ngọn cây xuống đất. Sự thật là từ ngọn
xuống đất ta va chạm bao nhiêu cành to và bao nhiêu các nhánh nhỏ;
nhưng ta không thể đếm, không thể nhớ hết những cành nhánh ấy. Chỉ
hụt tay, rồi từ trên cao rơi xuống, phịt!”.
Pháp Thập
Nhị Nhân Duyên cũng cùng thế ấy. Nếu phân chia như trong kinh điển thì
ta nói rằng Vô Minh tạo duyên cho Hành phát sanh, Hành tạo duyên cho
Thức phát sanh, Thức tạo duyên cho Danh-Sắc phát sanh, Danh-Sắc tạo
duyên cho Lục Căn phát sanh, Lục Căn tạo duyên cho Xúc phát sanh, Xúc tạo
duyên cho Thọ phát sanh, Thọ tạo duyên cho Ái phát sanh, Ái tạo duyên
cho Thủ phát sanh, Thủ tạo duyên cho Hữu phát sanh, Hữu tạo duyên cho
Sanh, Sanh tạo duyên cho Lão, Bệnh, Tử và tất cả những hình thức sầu
muộn. Nhưng trong thực tế khi quý vị xúc chạm với điều gì mình không
ưa thích tức khắc có đau khổ! Cảm giác đau khổ ấy thật sự là hậu
quả của toàn thể những vòng khoen của thập nhị nhân duyên. Đó là
tại sao Đức Bổn Sư kêu gọi hàng môn đệ nên quán chiếu và thấu đạt
trọn vẹn tâm mình.
Khi bước chân
vào đời con người không có danh tánh – sanh ra rồi mới được đặt tên.
Đó là quy ước. Chúng ta đặt tên, cho mỗi người một danh tánh, để
tiện việc kêu gọi nhau. Kinh điển cũng vậy. Chúng ta phân chia sự vật
và dán nhãn hiệu lên để tiện việc nghiên cứu sự vật. Tất cả
mọi sự vật chỉ giản dị là những pháp hữu vi, sankhara. ( Lời
người dịch: Danh từ sankhara, pháp hữu vi, là cái gì được sanh ra do
điều kiện và tồn tại do điều kiện. Phải có gì trước đó tạo duyên
mới hiện hữu, rồi có gì tạo duyên mới tồn tại. Khi hết nhân duyên
thì hoại diệt. Trong thực tế tất cả sự vật trên thế gian, dầu
tinh thần hay vật chất, đều là pháp hữu vi). Bản chất cơ bản của
vạn pháp chỉ là những sự vật phát sanh và hiện hữu do nhân duyên.
Đức Phật dạy rằng nó là Vô Thường, Khổ và Vô Ngã. Nó không ổn
định, thường còn. Chúng ta không hiểu biết như vậy một cách chắc
chắn. Kiến thức của ta không vững vàng. Do đó chúng ta mang nặng Tà
Kiến. Tà Kiến đây là chấp rằng pháp hữu vi là chính ta, ta là pháp
hữu vi, hoặc chấp hạnh phúc và đau khổ là chính ta, ta là hạnh phúc
và đau khổ. Nhận thức như vậy là không hiểu biết trọn vẹn và rõ
ràng bản chất thật sự của vạn pháp. Chân lý là chúng ta không thể
cưỡng bách các sự vật ấy theo đúng ý muốn của mình. Nó chỉ theo
con đường của Thiên Nhiên.
Sau đây là
một thí dụ đơn giản. Như quý vị ra giữa một xa lộ nhộn nhịp xe cộ
và ngồi ngay tại đó trong khi những chiếc xe lớn, xe nhỏ chạy trờ
tới đâm thẳng vào quý vị. Quý vị không thể tức giận xe cộ và quát
to, “Chớ có chạy đến đây! Đừng chạy lại đây!”. Đó là một xa lộ. Quý
vị không thể nói vậy với họ! Vậy thì quý vị phải làm gì? Phải
vào lề đường để tránh xe. Xa lộ là nơi để cho xe cộ chạy, nếu muốn
không có xe trên đường ắt quý vị phải đau khổ.
Với các pháp
hữu vi, cũng cùng thế ấy. Chúng ta nói rằng nó quấy rầy. Như lúc
mình ngồi thiền mà có tiếng động, ta nghĩ rằng, “Ồ, tiếng động này
quấy rầy ta quá!” Nếu hiểu rằng tiếng động quấy rầy ta thì ta sẽ
đau khổ vì nó. Quán chiếu vào sâu hơn nữa ta sẽ thấy rằng chính ta
đi ra ngoài và quấy rầy tiếng động! Tiếng động chỉ giản dị là
tiếng động. Thông hiểu như vậy thì không có gì hơn nữa. Hãy để nó
là vậy. Hãy nhận thức rằng âm thanh là một việc, ta là một việc
khác. Người mà thấy rằng âm thanh đến để khuấy nhiễu mình là người
không tự thấy mình. Người ấy thật sự không tự thấy mình! Một khi đã
tự thấy mình ắt quý vị sẽ thoải mái dễ chịu. Âm thanh chỉ là âm
thanh, tại sao quý vị phải chạy đi đâu để nắm bắt nó lại? Quý vị
thấy rằng trong thực tế chính quý vị đã đi ra ngoài để khuấy rầy âm
thanh. Đó là thật sự hiểu biết chân lý. Quý vị thấy được cả hai
phía, và nhờ thấy hai bề quý vị an lạc. Nếu chỉ thấy một bề ắt
có đau khổ. Khi thấy hai phía quý vị theo con đường ở khoảng giữa,
Trung Đạo. Đó là pháp hành chân chánh, là chánh pháp. Điều đó được
gọi là làm cho sự hiểu biết của mình được ngay thẳng.
Cùng một thế
ấy, bản chất của tất cả các pháp hữu vi là vô thường và phải biến
đổi. Nhưng chúng ta khát khao bám níu, cố nắm cho được. Chúng ta mang
nó đi đầu này đầu nọ và luôn luôn thèm muốn. Chúng ta muốn nó là
thật. Chúng ta muốn tìm sự thật trong những sự vật không thật! Bất
luận khi nào có ai nhận thức như vậy và bám níu vào các pháp hữu
vi, tự đồng hóa với nó, chấp rằng nó là mình, mình là nó, người
ấy tất nhiên phải đau khổ. Đức Phật dạy ta hãy quán tưởng vào sự
việc này.
Muốn thực
hành Giáo Pháp không cần phải là tỳ khưu, sa di hoặc một cư sĩ tại
gia mà cần làm cho sự hiểu biết của mình được chân chánh, ngay
thẳng. Hiểu biết chân chánh, chúng ta sẽ thành đạt an lạc thanh
bình. Dầu xuất gia hay không, mọi người đều có cơ may để thực hành
Giáo Pháp, để quán niệm Giáo Pháp. Tất cả chúng ta đều quán niệm
như nhau. Nếu chúng ta thành đạt an lạc, tất cả đều là một thứ an
lạc. Tất cả cùng đi trên một Con Đường, cùng theo một pháp hành.
Đức Phật
không có sự phân chia nào giữa hàng cư sĩ và các bậc xuất gia. Ngài
dạy tất cả mọi người pháp hành để thấu triệt chân lý của các pháp
hữu vi, sankhara. Đã thông hiểu chân lý ấy ta sẽ buông bỏ, để cho tất
cả trôi qua như nước lăn trôi trên lá sen. Đã thông hiểu chân lý ấy ắt
không còn “Hữu” và “Sanh”. Vì sao không còn sanh nữa? Hiện tượng sanh
không còn cách nào để xảy diễn vì ta đã thấu triệt đầy đủ chân lý
của các pháp hữu vi. Đã thông hiểu chân lý ấy một cách toàn vẹn ắt
có an lạc. Có hay không cũng vậy. Lợi lạc và mất mát là một. Đức
Phật dạy ta nên hiểu như vậy. Đó là an lạc. An lạc vượt ra khỏi hạnh
phúc, đau khổ, vui thích và sầu muộn.
Chúng ta phải
thấy rằng không có lý do gì để được sanh. Sanh ra cách nào? Sanh ra
trong niềm vui! Khi đạt được điều ưa thích thì ta vui mừng. Nếu không
luyến ái, không bám níu vào niềm vui ấy ắt không còn tái sanh. Chính
sự bám níu được gọi là sanh. Không có “Thủ” ắt không có “Sanh”. Như
vậy, nếu đạt được gì, ta không sanh (vào trạng thái thỏa thích vui
mừng). Nếu mất gì, ta không sanh (vào phiền muộn). Đó là vô sanh và
bất diệt. Cả hai sanh và tử đều bắt nguồn và đặt nền tảng trên
“Ái” và “Thủ”, lòng khát khao ham muốn và luyến ái cố bám vào các
pháp hữu vi.
Do đó Đức
Phật dạy, “ Như Lai không còn trở thành (Hữu) nữa, đời sống thánh
thiện đã chấm dứt, đây là kiếp sống cuối cùng của Như Lai ”. Đó!
Ngài đã thông hiểu trạng thái vô sanh và bất diệt! Đó là điều mà
Đức Bổn Sư không ngớt kêu gọi hàng môn đệ nên thấu hiểu. Đó là pháp
hành chân chánh. Nếu quý vị không đạt đến đó, nếu quý vị không đạt
đến Trung Đạo, ắt quý vị chưa vượt qua khỏi đau khổ.
WP: Kim Sa
Nguyễn
(Nguồn: thuvienhoasen.com)
0 Kommentare:
Post a Comment