Thật sự
tin tưởng, quý vị sẽ thật sự làm; thật
sự tin, thật sự muốn vãng sanh, thật sự niệm
Phật. Thật sự niệm Phật là gì? Hết thảy
duyên đều buông xuống, trong mười hai thời, trong
tâm quả thật chỉ có A Di Đà Phật, trừ A Di
Đà Phật ra, hết thảy những thứ khác đều
buông xuống, kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn
mươi chín năm cũng đều buông xuống. Vì sao?
Từ một câu A Di Đà Phật, quý vị sẽ đắc
Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội là
nhất tâm bất loạn, từ Sự nhất tâm đạt
đến Lý nhất tâm.
Phần 6
Chủ giảng: Lão pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự
đệ tử Như Hòa
Giảo chánh: Đức Phong và Huệ
Trang
Chư vị pháp
sư, chư vị đồng học, xin hãy ngồi xuống.
Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh Giải,
trang thứ mười, hàng thứ năm, chúng ta xem từ
câu thứ hai: “Xưng Tán Tịnh
Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh”, bắt đầu
xem từ chỗ này. Chúng ta hãy đọc kinh văn.
“Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp
Thọ Kinh (tức A Di Đà kinh Đường
dịch bổn) vân” (Xưng Tán
Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ Kinh (tức kinh
A Di Đà, bản dịch đời Đường)
đã nói). Trong kinh văn có một câu như thế này: “Ngã quán như thị lợi ích
an lạc đại sự nhân duyên, thuyết thành đế
ngữ” (ta thấy đại sự an lạc lợi
ích như thế, nói lời đúng thật). Trong câu nói này,
“ta” là Thích Ca Mâu Ni Phật [tự
xưng]. Chúng ta biết bộ kinh Phật Thuyết A
Di Đà Kinh giống như thường lệ, trong một
đời, đức Thế Tôn chỉ giảng một lần,
chẳng giảng lần thứ hai. Hiện thời, trong Đại
Tạng Kinh, kinh này có hai bản dịch, một là do Cưu
Ma La Thập đại sư phiên dịch, dịch theo ý, [tức
là] chẳng phải là trực dịch (dịch theo sát nguyên
văn từng chữ trong nguyên bản), mà hoàn toàn dịch
theo đại ý của kinh; [bản dịch của] Huyền
Trang đại sư là trực dịch, tức là căn cứ
theo văn tự của kinh điển bằng tiếng Phạn
để phiên dịch. Nói như vậy, Huyền Trang
đại sư dịch khá sát, trung thành với nguyên
văn, La Thập đại sư dịch theo ý nghĩa,
không chiếu theo văn tự. Trong cái nhìn của người
Trung Quốc, bản dịch của Cưu Ma La Thập
đại sư giống như văn chương do người
Trung Quốc viết, rất hợp với khẩu vị
của chúng ta, cho nên được lưu truyền rất
rộng; bản của Huyền Trang đại sư tuy là
trực dịch, giữ nguyên diện mạo của nguyên
văn, nhưng chúng ta không ưa thích lắm, nên bản này
chẳng được lưu thông, chỉ được
lưu giữ trong Đại Tạng Kinh.
Đức
Phật nói lời ấy, Ngài thấy “đại sự lợi ích an lạc như thế”,
tức là thế giới Cực Lạc của A Di Đà Phật
phổ độ chúng sanh trọn khắp pháp giới hư
không giới, chẳng giống các cõi Phật thông thường,
cõi của A Di Đà Phật dạy người ta thành Phật
trong một đời; vì thế, [kinh Di Đà và kinh Vô
Lượng Thọ] chẳng khác gì Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Hoa
Nghiêm và Pháp Hoa là Nhất Thừa giáo. Cái gọi là Nhất
Thừa giáo đã được giảng rất rõ ràng
trong phần trước, giáo pháp ấy giảng về lý
luận và phương pháp thành Phật
trong một đời. Phật Thuyết A Di Đà Kinh cũng
dạy người ta thành Phật trong một đời,
đấy là ưu điểm, ở đây bảo là: “Lợi ích an lạc như thế”.
Ưu điểm là phù hợp khắp ba căn, gồm thâu
lợi căn lẫn hạ căn, kẻ hạ hạ
căn cũng có thể thành Phật trong một đời,
chẳng thể nghĩ bàn! Do vậy, kinh này
[được nói ra] vì cùng một đại sự nhân
duyên như Hoa Nghiêm và Pháp Hoa.
Mục tiêu tu học của hết
thảy các kinh Đại Thừa là Bồ Tát, mục tiêu
tu học của kinh Tiểu Thừa là A La Hán. Điều
này giống như trong nhà trường trên thế gian hiện
thời họ mở trường Trung Học, khi [học
sinh] tốt nghiệp sẽ là tốt nghiệp Trung Học;
còn khi tốt nghiệp Đại Học thì là sinh viên Đại
Học, có thể đạt được học vị
Học Sĩ (Cử Nhân), khác hẳn! Mỗi trường
học khác nhau. Nhà trường của A Di Đà Phật rất
lạ lùng! Chúng tôi thường nghĩ đây là một ngôi
trường “trọn gói”[1], quý vị vào trường
ấy học, chỉ có lên lớp, không bị ở lại
lớp, mà cũng không bị đuổi xuống lớp
dưới, tuy thời gian dài hay ngắn khác nhau, nhưng chắc
chắn thành Phật trong một đời, Ngài bảo
đảm cho quý vị. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa giống như nghiên
cứu sở (graduate school), còn trường của A Di
Đà Phật là từ Tiểu Học cho đến nghiên cứu
sở, là một loại trường học như vậy
đó! Điều này giống như Liên Trì đại
sư đã viết trong Di Đà Sớ Sao: “Kim đản nhất tâm trì danh, tức đắc Bất
Thoái” (Nay chỉ nhất tâm trì danh, liền đắc Bất
Thoái). Bất Thoái là Vãng Sanh Kinh của Tịnh Tông. Từ
ngữ Vãng Sanh Kinh nhằm chỉ Tịnh Độ “ngũ kinh nhất luận”
trong hiện tại, những kinh luận này đều nhằm
dạy con người vãng sanh Tây Phương Cực Lạc
thế giới, đều nói “viên
chứng ba món Bất Thoái”, đây là pháp khó tin. Đối
với ba thứ Bất Thoái, Tiểu Thừa chứng
đắc Vị Bất Thoái, Đại Thừa Bồ Tát
chứng đắc Hạnh Bất Thoái, đạt đến
Pháp Thân Bồ Tát mới chứng đắc Niệm Bất
Thoái. Từ bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo trở lên mới
chứng đắc Niệm Bất Thoái, hoặc ba thứ
Bất Thoái, nhưng chưa đạt đến viên mãn, chưa
thể bảo là “viên”. Chứng
đắc viên mãn ba món Bất Thoái là ai? Từ Thất
Địa trở lên, quý vị thấy địa vị rất
cao, A Duy Việt Trí Bồ Tát đấy nhé!
Trong bốn mươi tám nguyện
của A Di Đà Phật, có một nguyện là: “Hễ ai
sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, thảy
đều là A Duy Việt Trí Bồ Tát, viên chứng ba món Bất
Thoái”. Ngài hoàn toàn chẳng nói “ngoại trừ cõi Phàm Thánh
Đồng Cư”, chẳng nói! Ngài chẳng nói câu ấy
thì nói cách khác, hạ hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh
Đồng Cư cũng thành A Duy Việt Trí Bồ Tát. Làm
sao có thể nói cho xuôi? Chúng tôi học đã nhiều năm
như thế, rốt cuộc hiểu rõ ràng, minh bạch:
Người ấy do được bổn nguyện gồm
bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật gia
trì, nên trí huệ và oai thần bằng Thất Địa Bồ
Tát, chẳng khác Thất Địa Bồ Tát; chẳng phải
do năng lực của chính người ấy, mà do A Di Đà
Phật gia hộ, được bốn mươi tám nguyện
gia hộ. Nếu nói đến chuyện chứng đắc
thì trong Tây Phương Cực Lạc thế giới, khi
nào quý vị sẽ chứng đắc? Trong kinh thường
nói: “Hoa khai kiến Phật ngộ
Vô Sanh”, đó là quý vị thật sự chứng đắc.
Khi quý vị chưa ngộ Vô Sanh,
cũng có nghĩa là đang thuộc vào ba bậc chín phẩm
trong bốn cõi trong Tây Phương Cực Lạc thế
giới, quý vị vẫn chưa có năng lực nâng cao [cảnh
giới] lên, thật sự đạt tới cõi Thật
Báo. Khi quý vị tự mình thật sự chứng đắc
cõi Thật Báo, sẽ không cần A Di Đà Phật gia trì; nhưng
khi chưa chứng đắc cõi Thật Báo, hoàn toàn phải
nhờ A Di Đà Phật gia trì. Trí huệ, thần thông, năng
lực, và hưởng thụ giống như trong cõi Thật
Báo, hễ sanh về thế giới Cực Lạc sẽ
đạt được. Giống như đầu thai
luân hồi trong lục đạo, quý vị đầu thai
vào nhà đế vương, vừa sanh ra liền được
hưởng thụ sự phú quý của bậc đế
vương. Do vậy, chúng ta sanh về thế giới Cực
Lạc, liền hưởng thụ thần thông và đức
tướng của A Di Đà Phật, liền được
hưởng thụ ngay! Nếu hiểu rõ và nhận biết
điều này, chúng ta sẽ chẳng hoài nghi sự trang
nghiêm thù thắng khôn sánh như Vãng Sanh Kinh đã giảng,
đó là Phật lực gia trì. Đấy là nói về “chỉ nhất tâm trì danh, liền
đắc Bất Thoái”.
“Thử
nãi trực chỉ phàm phu tự tâm cứu cánh thành Phật”
(Đây là chỉ thẳng: Từ ngay tự tâm của phàm
phu mà rốt ráo thành Phật), ở chỗ này, trước
chữ “thành Phật” đã
thêm chữ “cứu cánh” (rốt
ráo), vì sao? A Duy Việt Trí Bồ Tát mới có thể thêm hai
chữ “rốt ráo”. Nếu chẳng
có hai chữ “rốt ráo”, mà
nói là “thành Phật” thì Sơ
Trụ trong Viên Giáo đã thành Phật. Thêm vào hai chữ “rốt ráo” thì khẳng định
là từ Thất Địa trở lên mới viên chứng
ba món Bất Thoái. Mấu chốt là hai chữ tiếp theo: “Nhược năng đế
tín” (nếu có thể tin chắc thật), hai chữ trọng
yếu là “đế tín”. “Đế” (諦) là thật, quý
vị thật sự tin, một mảy hoài nghi cũng chẳng
có thì mới gọi là “đế tín”. Thật sự
tin tưởng, quý vị sẽ thật sự làm; thật
sự tin, thật sự muốn vãng sanh, thật sự niệm
Phật. Thật sự niệm Phật là gì? Hết thảy
duyên đều buông xuống, trong mười hai thời, trong
tâm quả thật chỉ có A Di Đà Phật, trừ A Di
Đà Phật ra, hết thảy những thứ khác đều
buông xuống, kinh giáo do Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn
mươi chín năm cũng đều buông xuống. Vì sao?
Từ một câu A Di Đà Phật, quý vị sẽ đắc
Niệm Phật tam-muội. Niệm Phật tam-muội là
nhất tâm bất loạn, từ Sự nhất tâm đạt
đến Lý nhất tâm. Đã đạt Lý nhất tâm bất
loạn, trong phần sau, chúng ta sẽ nói về Lý nhất
tâm, là đã kiến tánh, kiến tánh bèn thật sự thành
Phật. Đắc Lý nhất tâm bất loạn, vãng sanh thế
giới Cực Lạc, chẳng thuộc trong cõi Phàm Thánh
Đồng Cư, mà cũng không thuộc cõi Phương Tiện
Hữu Dư. Thưa quý vị, niệm đến Sự
nhất tâm bất loạn sẽ sanh vào cõi Phương Tiện
Hữu Dư, niệm đến Lý nhất tâm bất loạn
liền đạt đến cõi Thật Báo. Thật sự
có thể niệm đến [cõi ấy] ư? Đúng là có
thể niệm đến [cõi ấy], chúng ta hiểu đạo
lý này rất rõ ràng, vì lẽ gì? Người ấy đã
buông toàn bộ vọng tưởng, phân biệt, chấp
trước xuống, đạo lý ở chỗ này. Chúng ta
hãy suy nghĩ: Chúng ta chưa buông xuống, nhưng người
ấy thật sự buông xuống. Buông xuống sẽ kiến
tánh, kiến tánh là viên mãn, trí huệ viên mãn, đức hạnh
viên mãn, tướng hảo viên mãn, đắc đại
viên mãn. Viên mãn thì còn có chướng ngại hay chăng?
Không chỉ đối với hết thảy các kinh do Thích
Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm
không có chướng ngại, mà đối với vô lượng
vô biên kinh luận do mười phương hết thảy
chư Phật Như Lai đã nói, quý vị
chẳng bị chướng ngại chút nào. Vì sao? [Những
kinh luận ấy] đều do tự tánh lưu lộ,
quý vị đã kiến tánh. Trong sự giáo học của Phật
pháp, không có gì khác, chỉ là dạy quý vị hãy bỏ hết
vọng, trở về tự tánh. Trở về tự
tánh, quý vị sẽ chứng đắc Phật quả rốt
ráo, rốt ráo thành Phật.
“Hà
tu biến lịch tam thừa, cửu kinh đa kiếp”
(há cần phải trải khắp ba thừa, trải qua
nhiều kiếp lâu xa), không cần phải trải qua các
địa vị Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, tiến
lên từng bước một, không cần thiết! Trải
qua các địa vị trong tam thừa đúng là phải mất
nhiều kiếp lâu xa, không chỉ là ba đại
A-tăng-kỳ kiếp. Ba đại A-tăng-kỳ kiếp
là nói theo kinh Hoa Nghiêm, từ phàm phu tu đến bậc
Sơ Trụ trong Viên Giáo hoặc Sơ Địa trong Biệt
Giáo phải mất vô lượng kiếp! Sơ Trụ
trong Viên Giáo là minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Học
từ kinh Hoa Nghiêm, chúng ta biết: Tập khí vô thỉ vô
minh chưa đoạn; nhưng vô minh đã thật sự
đoạn hết. Quả thật chẳng động
tâm, chẳng khởi niệm, nhưng tập khí khởi tâm
động niệm vẫn có; vì thế, nó chẳng trở
ngại sự. Muốn đoạn sạch tập khí này, phải
mất thời gian bao lâu? Cần tới ba A-tăng-kỳ
kiếp để đoạn tập khí. Không có thứ gì
khác có thể đoạn trừ tập khí; sau một thời
gian lâu dài, nó sẽ tự nhiên chẳng còn nữa! Đoạn
tập khí trong thế giới Cực Lạc cũng nhanh,
thời gian được rút ngắn trên một mức
độ lớn. Do vậy, các vị Pháp Thân Bồ Tát
trong thế giới Hoa Tạng theo Văn Thù, Phổ Hiền
đến thế giới Cực Lạc để làm gì? Để
rút ngắn thời gian đoạn tập khí, đạo lý
là như vậy đó.
“Bất
việt nhất niệm, đốn chứng Bồ Đề”
(chẳng ngoài một niệm, mau chóng chứng Bồ Đề).
Bồ Đề ở đây là Vô Thượng Bồ Đề,
là nhất niệm, là danh hiệu Di Đà gồm bốn chữ.
“Nam-mô” chẳng phải là danh
hiệu, A Di Đà Phật mới là danh
hiệu. Nam-mô có nghĩa là quy y, quy mạng, hay lễ kính. Do
vậy, lúc Liên Trì đại sư tại thế, trong bộ
Trúc Song Tùy Bút có một câu chuyện như thế này: Có
người thỉnh giáo lão nhân gia: “Lão nhân gia bình thường
niệm Phật như thế nào?” Ngài nói Ngài niệm bốn
chữ A Di Đà Phật. “Ngài dạy người khác thì
sao?” “Ta dạy người khác niệm sáu chữ Nam-mô A Di
Đà Phật”. Vì sao khác nhau? Liên Trì đại sư nói: “Trong
một đời này, ta nhất định muốn sanh về
Tịnh Độ, cho nên kiểu cách khách sáo nào cũng chẳng
cần, những lời lẽ khách sáo đều bỏ sạch”.
Kinh dạy chúng ta chấp trì danh hiệu, danh hiệu là bốn
chữ, Ngài bèn niệm bốn chữ. Vì sao dạy người
khác niệm sáu chữ? Người khác chưa chắc
đã có quyết tâm kiên định muốn sanh về Tịnh
Độ, cho nên thêm chữ Nam-mô, tức là quy y A Di Đà
Phật, quy mạng A Di Đà Phật, cung kính A Di Đà Phật,
không nhất định trong một đời này người
ấy đã có thể vãng sanh. Thêm vào chữ “cung kính”, đó là nói năng cung
kính. Chính mình thật sự muốn vãng sanh, chẳng cần
dùng đến lời lẽ cung kính, không cần thiết!
Những chữ khách sáo đều không cần! A Di Đà Phật
sẽ không trách quý vị, quý vị rất nghe lời! Thích
Ca Mâu Ni Phật dạy quý vị chấp trì danh hiệu,
danh hiệu là A Di Đà Phật, trong danh hiệu không có chữ
Nam-mô. Quý vị thấy lời này rất có ý nghĩa!
Ấn Quang đại sư cả
đời dạy người khác niệm sáu chữ, vì sao?
Ngài thấy chúng sanh đông đảo, nhưng chẳng mấy
ai thật sự muốn vãng sanh, nên [dạy họ] niệm
hồng danh sáu chữ nhằm kết pháp duyên với A Di
Đà Phật. Quý vị hiểu tổ sư dạy người
khác sử dụng tâm gì, quý vị sẽ hiểu rõ! Tín nguyện
kiên định, chẳng có mảy may hoài nghi, trong một
đời này ta quyết định phải vãng sanh, quý vị
thật sự buông xuống vạn duyên. Những trường
hợp như vậy nhiều lắm! Quý vị đọc
Tịnh Độ Thánh Hiền Lục và Vãng Sanh Truyện,
sẽ thấy những tấm gương như vậy hiện
tiền, thật sự cầu vãng sanh, biểu diễn cho
chúng ta xem. Mấy năm trước, ở Thâm Quyến, ông
Hoàng Trung Xương nghe kinh, thường nghe chúng tôi nói
như vậy, ông ta thật sự giác ngộ, đại
triệt đại ngộ! Sự đại triệt
đại ngộ của ông ta chẳng phải là minh tâm kiến
tánh, mà là ngộ “bất việt
nhất niệm, đốn chứng Bồ Đề”
(chẳng ngoài một niệm, mà mau chóng chứng Bồ
Đề), ông ta ngộ điều này. Buông xuống hết
thảy, mỗi ngày niệm một bộ kinh Vô Lượng
Thọ, tiếp đó hoàn toàn niệm Phật hiệu, ước
hẹn kỳ hạn cầu chứng đắc, ước
định thời gian là ba năm, xem thử có thể vãng
sanh thế giới Cực Lạc hay không? Niệm tới
hai năm mười tháng, biết trước lúc mất, ra
đi, chẳng sanh bệnh, còn thiếu hai tháng nữa mới
đủ ba năm, đến thế giới Cực Lạc
là đi làm Phật. Chúng tôi giảng kinh tại nơi
đây là Thị Chuyển và Khuyến Chuyển, cư
sĩ Hoàng Trung Xương làm Chứng Chuyển cho chúng tôi,
tam chuyển pháp luân đã toàn vẹn. Ông ta làm chứng cho
chúng tôi. Do điều này có thể biết: Triệt ngộ
là thật sự buông xuống. Vì sao chúng ta chưa thể
buông xuống? Giác chưa đủ trình độ. Thật
sự giác ngộ sẽ thật sự triệt để
buông xuống, như trong kinh Đại Thừa đã nói: “Pháp thượng ưng xả,
hà huống phi pháp” (pháp còn nên bỏ, huống là phi pháp). “Pháp” [trong câu này] là Phật
pháp. Phật pháp cũng không cần, nắm vững một
câu A Di Đà Phật [là đủ rồi]. “Đốn chứng Bồ Đề, khởi phi
đại sự” (Mau chóng chứng Bồ Đề, há
chẳng phải là đại sự?).
Đi làm Phật! Sau thời gian hai năm mười
tháng bèn đi làm Phật.
“Khả
kiến Tịnh Tông chánh thị trực chỉ đốn
chứng chi pháp” (đủ thấy Tịnh Tông chính là
pháp chỉ thẳng, đốn nhập), đây là một đại
sự nhân duyên, “Dĩ niệm
Phật tâm, nhập Phật tri kiến. Tịnh Tông chi
hưng khởi, chánh do thử đại sự nhân duyên dã”
(dùng cái tâm niệm Phật để nhập tri kiến của
Phật. Tịnh Tông hưng khởi chính vì đại sự
nhân duyên này). “Hạ” là tiếp
theo đó, “tường minh bổn
kinh hưng khởi chi nhân duyên” (giảng rõ nhân duyên
hưng khởi của bản kinh này). Trong phần trên là
nói về nhân duyên chư Phật Như Lai xuất hiện
trên thế gian này. Căn tánh của chúng sanh khác nhau, nhưng
tổng mục tiêu, tổng phương hướng của
chư Phật là nhất trí, ngàn kinh muôn luận tuy khác
đường nhưng về cùng một chỗ, cuối
cùng là trở về Tịnh Độ. Do vậy, trong Phật
pháp, chẳng cần biết quý vị tu hành theo tông nào, phái
nào, hay pháp môn nào, có ba khoa mục chung bắt buộc phải
tu:
1)
Thứ nhất là giới luật. Giới luật là khoa mục
chung, là cơ sở. Quý vị phải vun bồi cội rễ
vững vàng, giống như xây nhà, bất luận quý vị
xây cao đến đâu, bất luận xây theo kiểu nào,
trước hết, phải đắp nền. Giới luật
là nền móng, không có giới luật thì điều gì
cũng chẳng thể thành tựu!
2)
Thứ hai là lý luận, đây là khoa mục chung. Đối
với Pháp Tướng Duy Thức, Hoa Nghiêm là một bộ
kinh điển trọng yếu trong Pháp Tướng Duy Thức.
Pháp Tướng Duy Thức có sáu kinh, mười một bộ
luận; trong sáu kinh có kinh Hoa Nghiêm giảng về căn
nguyên của vũ trụ. Trong Hoàn Nguyên Quán đã giảng
rất hay: “Hiển nhất thể,
khởi nhị dụng” (hiển lộ một thể,
khởi lên hai tác dụng). Nhị Dụng, bất luận
là y báo hay chánh báo, nhỏ như vi trần, lớn như hư
không pháp giới, đều có ba thứ trọn khắp chẳng
thể nghĩ bàn. Thứ nhất là “trọn khắp pháp giới”,
thứ hai là “sanh ra vô tận”, thứ ba là “chứa đựng
không và có”. Lý này chung khắp, mỗi một pháp môn trong tám vạn
bốn ngàn pháp môn cũng chẳng thể vượt ra
ngoài, đó là lý luận để quý vị dựa vào.
3)
Thứ ba là quy túc, [tức là] quý vị tu hành, kết quả
cuối cùng đều là vãng sanh thế giới Cực Lạc.
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều quy vào thế
giới Hoa Tạng, đến cuối cùng đều quy vào
thế giới Hoa Tạng. Sau khi đã đến thế
giới Hoa Tạng, Văn Thù và Phổ Hiền sẽ dẫn
quý vị cùng tới thế giới Cực Lạc. Do vậy,
thế giới Cực Lạc là nơi quy túc chung.
Đó
là ba khoa mục chung. Đối với đoạn này, chúng
ta học tập tới đây.
Lại xem đoạn kế tiếp:
“Xứng tánh cực đàm,
Như Lai chánh thuyết”. Ở đây, chia thành mấy
đoạn nhỏ; đây là đoạn thứ nhất,
dùng Giáp, Ất, Bính, Đinh[2] để đánh số
theo thứ tự. “Hoa Nghiêm, Pháp
Hoa quân viên đốn xứng tánh
chi giáo, đản kỳ quy thú khước tại bổn
kinh” (Hoa Nghiêm và
Pháp Hoa đều là giáo pháp Viên Ðốn xứng tánh, nhưng
chỗ quy thú của chúng lại thuộc trong kinh này). Hai bộ kinh này từ
xưa tới nay, vào thời đại Tùy - Đường
đã được các vị tổ sư đại
đức nhất trí công nhận, khẳng định là
kinh Nhất Thừa. Trong giáo pháp suốt một đời
của đức Thế Tôn, có tổng cộng ba bộ
kinh Nhất Thừa, ngoài Hoa Nghiêm và Pháp Hoa, còn có một bộ
nữa là Phạm Võng. Kinh Phạm Võng ngoại trừ một
phẩm Phạm Võng Bồ Tát Giới được dịch
sang tiếng Hán, những phẩm khác chưa truyền tới
Trung Quốc. Bộ kinh này cũng là một kinh lớn, phân
lượng rất lớn, nhưng chỉ truyền sang
Trung Hoa một phẩm, tức là Bồ Tát Tâm Địa Giới
Phẩm. Những kinh này đều là Viên Giáo viên mãn, Đốn
Giáo thành tựu nhanh chóng, thành tựu trong một đời,
xứng tánh, trong ấy không có phương tiện quyền
xảo, mà là thẳng chóng, thỏa đáng. Chỗ quy thú của
chúng là ở trong kinh này (kinh Vô Lượng Thọ). Kinh Hoa
Nghiêm đến cuối cùng, Thiện Tài đồng tử
tham học năm mươi ba lần, chúng ta thấy, mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ
Tát dẫn về Cực Lạc, Hoa Nghiêm quy vào Vô Lượng
Thọ, bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân
đại sĩ trong Hoa Nghiêm hải hội quy vào Tây
Phương Cực Lạc thế giới. Đấy là thật,
chẳng giả tí nào, trong kinh đã nói rõ ràng.
“Ngẫu
Ích đại sư tán bổn kinh vân: Tuyệt đãi viên
dung, bất khả tư nghị” (Ngẫu Ích đại
sư khen ngợi kinh này như sau: “Dứt
bặt đối đãi một cách viên dung chẳng thể
nghĩ bàn”). Ngẫu Ích đại sư tán thán kinh
Vô Lượng Thọ viên dung đến tột bực, “Hoa Nghiêm áo tạng, Pháp Hoa bí tủy”,
“áo tạng, bí tủy” (kho
sâu thẳm, cốt lõi kín nhiệm) là những từ ngữ
hình dung sự cao thâm, áo diệu. Đây là nói với ai? Nói với
những người từ Quyền Giáo Bồ Tát trở
xuống, họ không hiểu, chưa đại triệt
đại ngộ, sẽ chẳng thể nhập cảnh
giới này. Cảnh giới Hoa Nghiêm, cảnh giới Pháp
Hoa phải là người triệt ngộ, minh tâm kiến
tánh mới có thể lãnh ngộ; kẻ chưa kiến tánh còn
cách một tầng! Tinh tủy sâu kín của Pháp Hoa (Pháp Hoa
bí tủy) là nói về Lý trong kinh ấy. “Nhất thiết chư Phật chi tâm yếu, Bồ
Tát vạn hạnh chi tư nam, giai bất xuất ư thử
hỹ” (tâm yếu của hết thảy
chư Phật, kim chỉ nam cho muôn hạnh Bồ Tát đều
chẳng ra khỏi kinh này), chữ “thử” chỉ kinh Vô Lượng
Thọ. Bồ Tát vạn hạnh là nguyên tắc chỉ
đạo sự tu hành tối cao của Bồ Tát, [nguyên tắc
ấy] ở trong kinh Vô Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng
Thọ trực tiếp dạy mọi người niệm
Phật sanh về Tịnh Độ, trực tiếp dẫn
dắt người vãng sanh Tịnh Độ trong một thời
gian rất ngắn sẽ đạt tới mục tiêu triệt
ngộ tâm tánh. Trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật,
đức Phật đã nói: Một người niệm Phật
sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, hạ
hạ phẩm vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư, tu
trong thế giới Cực Lạc đến khi minh tâm kiến
tánh, tu đến mức khế nhập cõi Thật Báo Trang
Nghiêm, sẽ cần thời gian bao lâu? Đức Thế
Tôn bảo là mười hai kiếp. Chúng ta thấy mười
hai kiếp rất dài, nhưng tại Tây Phương Cực
Lạc thế giới, mười hai kiếp cũng rất
ngắn, chẳng dài! Tu hành trong thế giới này, muốn
tu chứng đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến
tánh, quý vị thấy kinh thường nói phải mất thời
gian bao lâu? Phải mất vô lượng kiếp, chẳng
phải mười hai kiếp, mà là vô lượng kiếp!
Tu hành trong các cõi Phật khác cần tới vô lượng
kiếp, trong Tây Phương Cực Lạc thế giới
là mười hai kiếp, quý vị thấy thời gian
đã rút ngắn bao nhiêu!
Hơn nữa, vừa đến
nơi ấy, trí huệ, thần thông, và đạo lực
đều giống như Thất Địa Bồ Tát. Lời
này có nghĩa là gì? Ý nghĩa rất sâu, có nghĩa là nói quý vị
vừa đến Tây Phương Cực Lạc thế giới,
sẽ có năng lực giống như Pháp Thân Bồ Tát,
ngàn xứ khẩn cầu, bèn ứng hiện trong ngàn xứ.
Chúng sanh nơi nào có cảm, quý vị bèn có thể tới
đó giáo hóa họ, nên dùng thân gì để độ
được, quý vị liền hiện thân ấy, giống
như ba mươi hai ứng thân của Quán Thế Âm Bồ
Tát, có đại bản lãnh và thần thông to dường ấy!
Quý vị phải hiểu: Những điều đó chẳng
phải do chính quý vị tu được, mà do bổn nguyện
và oai thần của A Di Đà Phật gia trì, khiến cho
quý vị khởi ra tác dụng ấy, chẳng thể
nghĩ bàn! Đây chẳng phải là nói đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới, chờ khi ta tu
thành tựu rồi mới có thể độ chúng sanh, quý
vị cứ tới đó là [sẽ độ chúng sanh] được.
Trong thế giới của thập phương chư Phật
không hề có [chuyện này]. “Thị
cố bổn kinh xưng vi xứng tánh chi cực đàm dã”
(Do vậy, kinh này
được xưng tụng là lời bàn luận xứng
tánh đến mức cùng cực), đây cũng
là nói từ trong tự tánh của chư Phật Như Lai
và A Di Đà Phật viên mãn lưu lộ. Giảng đến
chỗ cùng cực, “cực”
(極) là viên mãn.
Ở đây, cụ Hoàng đã trích
dẫn rất nhiều. “Hựu
Nhật”, “Nhật” là Nhật
Bản. Cao tăng Đạo Ẩn trong tác phẩm Vô
Lượng Thọ Kinh Chân Giải, trong Vạn Tục Tạng
có cuốn này, chúng ta có thể đọc từ Vạn Tục
Tạng; trong đó có một đoạn như sau: “Ngũ Trược chi thế, tạo
ác chi thời, thánh đạo nhất chủng kim thời
nan tu, kỳ nạn phi nhất” (Hiện tại nay là
đời Ngũ Trược, lúc tạo ác; cho nên khó tu một
thứ thánh đạo vì sẽ gặp nhiều chướng
nạn). Quý vị thấy trong hiện thời, đặc
biệt là trong xã hội hiện tiền, đúng là Ngũ Trược
đã ô nhiễm đến mức cùng cực. Ngay cả bầu
trời trong xanh cũng chẳng nhìn thấy nữa! Chúng ta
thấy bầu trời khói đen mù mịt, ô nhiễm
đến tột cùng! Vì sao? Chúng sanh tạo ác. Hãy suy
nghĩ xem có điều nào trong Thập Ác chẳng làm? Sát
sanh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, nói đôi chiều,
ác khẩu, nói thêu dệt, tham, sân, si, chúng ta hãy lắng lòng
suy nghĩ, quan sát cẩn thận một phen, hiện thời
có người nào sống trên địa cầu chẳng tạo?
Khởi tâm động niệm, ngôn ngữ, tạo tác thảy
đều tương ứng [với Thập Ác], ai nấy
đều gây tạo. Quay trở lại suy nghĩ, ta có tạo
hay không? Hữu ý hay vô ý cũng đều tạo, biết
làm sao được nữa? Có cách nào chẳng tạo? Thưa
quý vị, niệm Phật sẽ chẳng tạo nữa! Ta niệm Phật một giờ, trong một
giờ ấy sẽ không tạo; niệm Phật hai giờ,
trong hai giờ ấy sẽ chẳng tạo. Chẳng niệm
Phật, chắc chắn sẽ hữu ý hay vô ý tạo, tập
khí quá nặng mà! Do vậy, chẳng đọc kinh, chẳng
niệm Phật thì làm sao được nữa? Khi đọc
có thể chẳng tạo, phải biết rằng: Thời
thời khắc khắc phải phản tỉnh, thời
thời khắc khắc phải kiểm điểm.
“Thánh
đạo nhất chủng kim thời nan tu” (hiện
thời khó tu một thứ thánh đạo),
thánh đạo là Phật, Bồ Tát đạo. Tám vạn
bốn ngàn pháp môn, tu tập bất luận pháp môn nào trong
hiện tại đều khó lắm, thật là khó! Trì giới
có thể không tạo nghiệp hay chăng? Thời thượng
cổ thì được! Đức Thế Tôn đã nói: “Thời kỳ Chánh Pháp, giới
luật thành tựu”. Người trì giới tâm địa
thanh tịnh sẽ chẳng tạo nghiệp. Nay chúng ta hãy
suy nghĩ: Chúng ta trì giới là tạo hay chẳng tạo
nghiệp? Thưa quý vị, đại khái là chẳng tạo
ác nghiệp, nhưng tạo thiện nghiệp, vẫn là tạo
nghiệp! Nói cách khác, tâm quý vị vẫn chưa thanh tịnh,
không thoát khỏi lục đạo luân hồi; bất quá
quý vị chẳng đọa tam ác đạo, đời
sau sẽ hưởng quả báo trong cõi nhân thiên. Đấy
chẳng phải là ý Phật! Ý Phật là dạy chúng ta
không chỉ vượt thoát lục đạo, mà còn vượt
thoát mười pháp giới; đấy là niềm kỳ vọng
của đức Phật đối với chúng ta. Vãng
sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới là vượt
thoát mười pháp giới, hạ hạ phẩm trong cõi
Phàm Thánh Đồng Cư cũng đã vượt thoát mười
pháp giới. Đấy là niềm kỳ vọng của chư
Phật đối với chúng ta, chẳng thể không biết.
“Kỳ nạn phi nhất”
(chẳng phải chỉ là một nạn), câu này nói rất
hay, đặc biệt là trong thời đại chúng ta,
chúng ta mới hiểu sâu sắc, chướng nạn quá
nhiều!
“Đặc
thử nhất môn, chí viên cực đốn, nhi thả do kỳ
giản dị trực tiệp” (chỉ riêng pháp môn này chí
viên, cực đốn, lại còn đơn giản, dễ
dàng, thẳng chóng). Pháp môn này tốt đẹp;
trong thời đại như vậy, nếu chưa thể
khiến cho cả thiên hạ đều thiện, phải làm
sao cho [ít nhất] bản thân ta là thiện, đóng cửa
niệm Phật tại nhà. Trước đây, tôi từng
dạy người ta, người bình thường mỗi
ngày kiếm tiền không nhiều lắm. Trong quá khứ,
tôi giảng kinh tại Đài Bắc, người thường
xuyên đến nghe kinh, gần như chẳng thiếu buổi
nào, có tới mười mấy người lái taxi. Tôi từng
nói đùa với bọn họ, nhưng cũng là lời
chân thật, tôi nói: Các ông mỗi ngày kiếm tiền, kiếm
một ngày, ăn ba ngày hay năm ngày chẳng có vấn
đề gì, có thể nghỉ ngơi năm ba ngày. Một
ngày kiếm tiền có thể sống đủ năm ba ngày.
Tôi nói: Quý vị hãy gắng kiếm tiền một năm, có
thể nghỉ ba năm, dùng thời gian ba năm để
gắng công niệm Phật. Vì sao? Vấn đề ăn
uống đã được giải quyết rồi! Ba
năm thành công, sang thế giới Cực Lạc; nếu
không thành công, quay về lái taxi tiếp, lái một năm, lại
có thể nghỉ ngơi ba năm. “Đặc thử nhất môn, chí viên, cực đốn”:
Ăn, mặc, đi, ở, càng đơn giản càng hay! Phật,
Bồ Tát chẳng phải cầu cạnh ai trong bất cứ
phương diện nào! Chẳng có! Trong Tăng đoàn nguyên
thủy, Thích Ca Mâu Ni Phật chọn cách sống là khất
thực, ăn Ngọ một bữa, ngủ dưới gốc
cây. Người Trung Quốc thường nói: “Nhân đáo vô cầu, phẩm tự
cao” (người đạt đến mức chẳng
cầu mong gì, phẩm hạnh tự cao trỗi). Ngài thật
sự vô cầu. Chẳng cầu cạnh thế gian, nói toàn
những câu chân thật, chẳng lừa gạt người
khác. Đúng là đơn giản, dễ dàng, thẳng chóng!
“Tắc
xuất thế chi chánh thuyết thiên tại tư kinh, nhất
đại sở thuyết quy thử kinh, như chúng thủy
quy ư đại hải” (Chánh thuyết xuất thế
riêng thuộc trong kinh này. Cả một đời thuyết
pháp quy về kinh này, như các dòng nước xuôi về bể
cả), câu sau là tỷ dụ. Chánh
thuyết xuất thế thuộc riêng trong kinh này,
tôi nghĩ câu nói của Thiện Đạo đại
sư, chắc là đã căn cứ trên câu kinh văn này
để nói. Câu danh ngôn của Thiện Đạo đại
sư là: “Chư Phật sở
dĩ hưng xuất thế, duy thuyết Di Đà bổn
nguyện hải” (sở dĩ chư Phật xuất thế
chỉ là để nói biển bổn nguyện của Phật
Di Đà). Mười phương ba đời
hết thảy chư Phật, dùng thân Phật xuất hiện
trong thế gian, nên dùng thân Phật để độ, bèn
dùng thân Phật giáo hóa. Hết thảy chư Phật thị
hiện thân Phật đến thế gian này để làm
gì? Chỉ để nói biển bổn nguyện của Phật
Di Đà! Có nghĩa là gì? Nói kinh Vô Lượng Thọ. “Nhất đại sở thuyết
quy thử kinh” (Cả một đời thuyết pháp quy về kinh
này), trong một đời, suốt bốn
mươi chín năm, Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói hết
thảy các kinh nhằm nói lên điều gì? Nói kinh Vô Lượng
Thọ, ngàn kinh muôn luận chỗ nào cũng chỉ về.
Có người chẳng ưa thích pháp môn này, không hợp khẩu
vị! Đức Phật bèn tùy thuận khẩu vị của
người ấy mà giảng cho kẻ ấy nghe [pháp môn
thích hợp], giảng đến cuối lại quẹo trở
về, quay về Vô Lượng Thọ, đấy là phương
tiện thiện xảo của đức Phật. Thật
vậy, lời Thiện Đạo đại sư nói chẳng
sai, “chỉ để nói biển
bổn nguyện của Phật Di Đà”, kinh Hoa Nghiêm nói
nhiều ngần ấy, đến cuối cùng mười
đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc.
Tỷ dụ [trong đoạn này] dễ hiểu, “như chúng thủy” (như
các dòng nước), sông ngòi, Trường Giang và Hoàng Hà cuối
cùng đều đổ vào biển cả.
“Do
thử ngôn chi, bách vạn A-tăng-kỳ nhân duyên dĩ khởi
Hoa Nghiêm chi điển, nhất đại sự nhân duyên
dĩ thành Pháp Hoa chi giáo, diệc duy vi thử pháp chi do tự”
(Do vậy, nói: Trăm vạn
A-tăng-kỳ nhân duyên phát khởi kinh Hoa Nghiêm, một
đại sự nhân
duyên để thành kinh Pháp Hoa cũng chỉ là nguồn gốc
của pháp này), nói rất hay! Vào đời
Đường, các quốc gia Nhật Bản, Hàn Quốc,
Việt Nam đều phái nhiều tăng nhân (người
xuất gia) sang Trung Quốc du học. Khi ấy, Thiên Thai Trí
Giả đại sư và Thiện Đạo đại
sư của Tịnh Tông chúng ta đều là những bậc
thầy nổi tiếng. Đối với những nước
nhỏ ấy, rất nhiều người sau khi trở về
nước đã trở thành tổ sư đại đức,
đều là học trò của Thiện Đạo đại
sư hay Trí Giả đại sư. Nay chúng ta sang Nhật
Bản, gần như trong mỗi ngôi chùa, quý vị đến
viếng Tổ Đường, đều thấy họ tạc
tượng thờ Tổ Sư là ngài Thiện Đạo
hay Thiên Thai đại sư, ở Trung Quốc không có. Họ
còn vẽ hình các Ngài, treo trên xà nhà. Quý vị ngẩng đầu
nhìn sẽ thấy tượng vẽ hay tượng đắp
[của các Ngài]. Họ vô cùng tôn trọng tổ sư, đặc
biệt là Thiện Đạo đại sư đã truyền
dạy Tịnh Độ Tông. Chùa miếu Nhật Bản dùng
[tên hiệu của] Thiện Đạo đại sư để
đặt tên chùa, gần như đến nơi nào quý vị
cũng đều thấy Thiện Đạo Tự. Quý vị
thấy [tên chùa] là Thiện Đạo Tự, chắc chắn
là đạo tràng tu Tịnh Độ. Đối với
chuyện này, trong bài tựa của lão cư sĩ Mai Quang Hy,
chúng ta đọc thấy: Những vị đại đức
Tăng thời Tùy - Đường đã rất nghiêm túc
suy tìm trong giáo pháp cả một đời đức Thích
Ca Mâu Ni Phật: Trong một đời Ngài, hết thảy
các kinh do đức Phật đã nói trong bốn
mươi chín năm, bộ kinh nào trọng yếu nhất,
có thể đại diện cho hết thảy các kinh giáo
đã nói trong bốn mươi chín năm? Mọi người
cùng suy cử kinh Hoa Nghiêm, xưng tụng kinh Hoa Nghiêm là
căn bản pháp luân, hết thảy các kinh giáo khác là quyến
thuộc của Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm là một cái cây to, nó là
căn bản, những kinh khác là cành lá trên cây ấy; nhưng
Hoa Nghiêm đến cuối cùng quy vào Tịnh Độ. Do
vậy, kinh Vô Lượng Thọ biến thành căn bản
của căn bản, cuối cùng, kinh ấy (Hoa Nghiêm) quy vào kinh này (Vô Lượng Thọ), căn bản
của căn bản. Vì thế, Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, những
giáo pháp Đại Thừa đều biến thành gì? Biến
thành pháp dẫn khởi của kinh Vô Lượng Thọ. Đối
với cách nói này, tôi bội phục năm vóc sát đất,
vì sao? Vì sao tôi tin tưởng Tịnh Độ? Do kinh Hoa
Nghiêm mà tin tưởng, từ kinh Pháp Hoa, kinh Lăng Nghiêm mà
tin tưởng.
Thầy tôi khuyên tôi nên tin tưởng,
tôi bề ngoài vâng lời, nhưng trong lòng chẳng phục.
Đương nhiên tôi rất tôn kính thầy, nhưng vẫn
ngờ
vực Tịnh Tông. Lúc ấy, tôi có cách nghĩ sai lầm rất
lớn, sự hiểu lầm này rất nhiều người
vướng phải, ngỡ Tịnh Độ là pháp
phương tiện do Thích Ca Mâu Ni Phật dùng để tiếp
dẫn những bà già thiếu hiểu biết, chẳng biết
pháp môn này rốt ráo là như thế nào, không hiểu! Tôi
đã kể với quý vị, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm được
phân nửa, [khi đó là] lần giảng thứ nhất, [giảng]
lần này là lần thứ hai. Giảng lần đầu
tiên cũng giảng không ít năm, mười bảy
năm đã giảng được phân nửa. Có một hôm,
bỗng nhiên nghĩ: “Rốt cuộc Văn Thù, Phổ Hiền
học những gì? Thiện Tài đồng tử là môn sinh
đắc ý của Văn Thù Bồ Tát, là pháp tử của
Văn Thù Bồ Tát, Ngài tu gì vậy?” Lật đến phần
sau của Tứ Thập Hoa Nghiêm, giở đến quyển
thứ ba mươi chín, thấy Văn Thù và Phổ Hiền
đều phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, điều
này khiến tôi bị rúng động rất lớn. Văn
Thù là thầy của bảy vị Phật, Phổ Hiền
được tôn xưng là Nguyện Vương, [các Ngài] thật
sự tu [Tịnh Độ]! Trong các vị Bồ Tát, hạnh
môn triệt để nhất là Phổ Hiền, Ngài đại
diện cho hạnh môn. Tôi nẩy sanh lòng tin đối với
Tịnh Độ là nhờ Hoa Nghiêm. Ở đây, cụ
Hoàng nói: “Hoa Nghiêm, Pháp Hoa lưỡng
kinh chỉ thị bổn kinh chi đạo dẫn, bổn
kinh giả chánh thị nhất Đại Tạng giáo chi chỉ
quy” (Cả hai
kinh Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa chỉ là pháp dẫn đường
cho kinh này. Kinh này đúng là chỗ chỉ quy của cả
Ðại Tạng giáo), tức là Hoa Nghiêm và Pháp Hoa nhằm
dẫn khởi pháp này, pháp này là Vô Lượng Thọ kinh.
Quả thật là tôi đã được [kinh Hoa Nghiêm]
hướng dẫn, nên mới thật sự phát tâm học
tập [pháp môn Tịnh Độ]. Chúng ta thấy một
câu nói của cư sĩ Bành Tế Thanh, trong sách này cũng
được lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ trích dẫn
rất nhiều; ông Bành nói kinh Vô Lượng Thọ là trung
bổn Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm quá dài, tôi giảng lần đầu
tiên, giảng được phân nửa, sau khi liễu giải
vấn đề bèn buông kinh Hoa Nghiêm xuống, chẳng giảng
[Hoa Nghiêm] nữa, mà giảng kinh Vô Lượng Thọ. Tôi
giảng mười lần, trước sau tổng cộng
giảng từng lần một thành mười lượt,
lần này là lần thứ mười một. Kinh này là
trung bổn Hoa Nghiêm, chẳng khác gì Hoa Nghiêm.
“Hoa
Nghiêm kinh mạt, Phổ Hiền đại sĩ thập
đại nguyện vương đạo quy Cực Lạc,
thị kỳ minh chứng” (cuối kinh Hoa Nghiêm, mười
đại nguyện vương của Phổ Hiền
đại sĩ dẫn về Cực Lạc là một chứng
cớ rõ ràng), chẳng giả tí nào! “Thánh giáo như chiên đàn, phiến phiến giai
hương. Pháp pháp viên đốn, bổn vô cao hạ”
(thánh giáo như
chiên đàn, miếng nào cũng thơm. Pháp nào cũng viên
đốn, vốn chẳng cao thấp), là như
kinh Kim Cang đã nói: “Pháp môn bình
đẳng, chẳng có cao thấp”, đúng vậy, chẳng
giả tí nào! Pháp không có cao thấp, nhưng người có
cao thấp, do căn tánh của mỗi người khác nhau.
Tiếp theo là: “Duy dĩ chúng
sanh cấu trọng chướng thâm, tâm thô, trí liệt”
(chỉ vì chúng sanh
cấu nặng, chướng sâu, tâm thô, trí hèn), đó
là có cao thấp. Vì vậy, tổ sư đại đức
phán giáo, tuyệt đối chẳng phân chia theo nội dung
kinh, mà phân chia theo căn tánh của con người, căn
tánh nào sẽ thích hợp học tập kinh điển nào!
Nói thật ra, kinh đâu có Đại Thừa hay Tiểu Thừa,
đều là bình đẳng. Do vậy, cổ đức
Trung Quốc đã nói: “Viên nhân
thuyết giáo, vô giáo bất viên” (người viên mãn bàn về
giáo pháp, giáo pháp nào cũng là viên mãn), câu này hay lắm! “Viên nhân” là người khai ngộ,
người kiến tánh, dù là giáo pháp Tiểu Thừa giáo
cũng nói thành cảnh giới Hoa Nghiêm. Kinh A Di Đà là tiểu
bổn, mọi người thường niệm, cũng chẳng
cảm thấy hy hữu, lạ lùng chi hết, nhưng bộ
Sớ Sao của Liên Trì đại sư đã nâng kinh ấy
lên cảnh giới Hoa Nghiêm. Quý vị đọc Sớ Sao,
chính là như cổ đức đã nói “viên nhân thuyết giáo, vô giáo bất viên”. Liên Trì
đại sư dùng “thập môn khai khải” và giáo nghĩa
kinh Hoa Nghiêm để giảng giải kinh A Di Đà, đề
cao địa vị Tịnh Độ Tông. Vào thời ấy,
người ta khinh thường Tịnh Độ, chẳng
muốn học pháp môn này, mà thích học Giáo, hay học Thiền.
Liên Trì đại sư thấy rất rõ ràng: Quý vị học
Giáo chẳng khai ngộ, học Thiền chẳng đắc
Thiền Định. Nói cách khác, quý vị đã phí uổng
tinh lực và thời gian! Do tâm đại từ bi nên Ngài khuyên
quý vị niệm Phật. Quý vị coi thường Tịnh
Tông, nên Ngài dùng kinh Hoa Nghiêm để giải thích. Sau khi
nghe, nhận thấy [cảnh giới trong kinh Di Đà] chẳng
khác cảnh giới Hoa Nghiêm, quý vị mới có thể phát
khởi tín tâm, mới có thể quay đầu. Lòng từ
bi vô tận!
Kế tiếp, Ngẫu Ích đại
sư viết Yếu Giải. Yếu Giải không dài, nhưng
đúng là danh phù hợp thật, lời chú giải của
Ngài đúng là đơn giản, nhưng trọng yếu. Lão
pháp sư Ấn Quang tán thán: “Dù
A Di Đà Phật tái lai, tự viết chú giải kinh Di
Đà, cũng chẳng thể hay hơn được!”
Tán thán đến tột bậc! Xưa kia, tôi ở Tân Gia
Ba, pháp sư Diễn Bồi là bạn già, có lần Sư mời
tôi dùng cơm, có nhắc tới vấn đề này, hỏi
tôi: “Lời tán thán ấy của Ấn Quang đại sư
có phải là hơi quá lố một chút hay không?” Sư hỏi
tôi như vậy. Tôi thưa: “Chẳng quá lố tí nào! Câu
nào cũng là lời thật!” Hơn hai mươi năm
trước, gần như ba mươi năm, tôi ở Mỹ,
có một cư sĩ hỏi tôi, ông ta cũng hết sức
hiếu học. Ông ta nói: “Pháp sư Tịnh Không! Nếu chỉ
cho phép thầy chọn lựa một bộ trong Đại
Tạng Kinh, thầy sẽ chọn bộ nào?” Tôi chẳng
do dự mảy may, bảo ông ta: “Tôi chọn lựa Di
Đà Kinh Yếu Giải của Ngẫu Ích đại
sư”. Quá hay! Tôi tán thành câu nói Ấn Quang đại sư
cả hai tay. Tuy văn tự không nhiều lắm, nhưng
có nhiều ý tưởng trong ấy từ trước
đến nay các vị tổ sư đại đức
chưa hề nói đến, mà Ngài có thể nói ra, nói rõ ràng
dường ấy, nói thấu triệt ngần ấy, quả
thật hết sức khó có! Trong bản chú giải của
cụ Hoàng Niệm Tổ đã trích dẫn [sách Yếu Giải]
rất nhiều, chúng ta có thể đọc thấy điều
này.
Tiếp đó là nêu tỷ dụ:
“Cơ ngộ vương thiện,
nhi bất năng xan” (đói gặp cỗ vua mà chẳng dám ăn),
nói lên điều gì? Đây là nói chúng sanh thiếu phước.
Không chỉ riêng đối với Thích Ca Như Lai, đây
là kinh bậc nhất và pháp môn bậc nhất để hết
thảy chư Phật ứng hóa trong mười pháp giới,
ứng hóa trong lục đạo, phổ độ chúng
sanh, nhưng kẻ ấy chẳng tin, chẳng tiếp nhận,
nghe không hiểu, đúng là nghe chẳng hiểu, chẳng giả!
Tôi hiểu rất rõ đạo lý này, vì sao kẻ ấy nghe không hiểu? Đối với pháp môn
này, kẻ ấy hoài nghi, đó là chướng ngại. Kẻ
ấy ngạo mạn, xem thường bộ kinh nhỏ này,
không thèm quan tâm tới. Thiếu phước báo mà! Đưa
cho hắn kinh bậc nhất của chư Phật Như
Lai, hắn chưa thể tiếp nhận. Đúng là tám chữ
[trong lời nhận định của cụ Hoàng] đã
nói rất hay: “Cấu trọng,
chướng thâm, tâm thô, trí liệt” (cấu nặng,
chướng sâu, tâm thô, trí kém), đúng là giống như gặp
được thức ăn của quốc vương mà
chẳng dám xơi!
“Duy
bổn kinh trì danh nhất pháp, nãi dị hành đạo, nhân
nhân năng tu” (Chỉ
một pháp Trì Danh trong kinh này mới là đạo dễ
hành, ai cũng có thể tu được). Nói đến
kinh Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ và Tiểu
Bổn Di Đà Kinh tương đồng, đề
xướng trì danh, không như Quán Vô Lượng Thọ Phật
Kinh, kinh ấy đề xướng tu Quán, nên còn gọi
là Thập Lục Quán Kinh. Trong mười sáu phép Quán, phép cuối
cùng, tức phép Quán thứ mười sáu, là trì danh. Trì danh được
đặt sau cùng, pháp sau cùng là pháp quan trọng nhất! Quý
vị xem biểu diễn văn nghệ hay diễn tuồng,
màn hay nhất chắc chắn là “áp trục hý” tức màn diễn xuất cuối
cùng. Phật pháp cũng là như vậy, thứ tốt nhất
đặt ở cuối cùng. Quý vị xem phần Hai
Mươi Lăm Pháp Viên Thông trong kinh Lăng Nghiêm, [hai
mươi lăm môn Viên Thông] được xếp theo thứ
tự lục căn, lục trần, lục thức, thất
đại, xếp theo thứ tự ấy. Theo thứ tự
thuận, pháp Nhĩ Căn Viên Thông của Quán Thế Âm phải
thuộc vị trí thứ hai, kết quả là quý vị thấy
các pháp ấy chẳng được xếp theo thứ tự
thuận, pháp của Quán Thế Âm Bồ Tát được
đặt ở cuối cùng, chứng tỏ điều gì?
Pháp môn ấy là pháp môn đặc biệt, chẳng phải
là pháp môn thông thường. Trên thực tế, đây là hai pháp
môn đặc biệt, nhưng rất nhiều người
hiểu lầm, chỉ nói tới Nhĩ Căn Viên Thông, phớt
lờ pháp Niệm Phật Viên Thông của Đại Thế
Chí Bồ Tát. Do Quán Thế Âm Bồ Tát thay đổi vị
trí, từ thứ hai chuyển đến cuối cùng, hết
sức rõ rệt, quý vị vừa nhìn liền biết ngay,
còn Đại Thế Chí Bồ Tát [nếu theo thứ tự
thuận] được xếp vào vị trí thứ hai
mươi ba, Di Lặc Bồ Tát được xếp vào
vị trí hai mươi tư, nhưng lại đổi chỗ
đôi chút: Di Lặc Bồ Tát xếp ở vị trí hai
mươi ba, Đại Thế Chí Bồ Tát xếp xuống
vị trí hai mươi bốn, chỉ thay đổi một
vị trí, cho nên rất nhiều người không chú ý. Trong
chương Hai Mươi Lăm Viên Thông có hai pháp môn đặc
biệt, chẳng phải là một! Hai vị này không được
xếp theo thứ tự thuận, nên [pháp môn của hai Ngài]
là các pháp môn đặc biệt, đặc biệt trọng
yếu! Chúng ta đọc kinh, nghiên cứu giáo pháp, chớ
nên không lưu ý những chỗ như vậy. Trì danh mới
là đạo dễ hành, người nào cũng có thể
tu.
“Đại
Thế Chí Viên Thông Chương viết: ‘Tịnh niệm
tương kế, tự đắc tâm khai’, tức phàm phu tâm, khai Phật tri
kiến” (Chương
Ðại Thế Chí Viên Thông chép: “Tịnh
niệm nối tiếp, tâm tự khai ngộ”, chính là [dùng ngay cái] tâm phàm phu mà khai tri kiến
Phật). Cụ trích dẫn câu này hay lắm, “tịnh niệm tương kế”
là công phu, cũng là nhất tâm trì danh; “tự đắc tâm khai” là khai ngộ, đại
triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, không cần
tới phương pháp nào khác, chỉ là một câu Phật
hiệu. “Tức phàm phu tâm, khai
Phật tri kiến”, khai Phật tri kiến là đại
triệt đại ngộ, là minh tâm kiến
tánh, chẳng cần dùng phương pháp nào khác. Qua các đời,
chúng ta thấy người niệm Phật trong thời
gian ba năm bèn thành công, biết trước lúc mất, tự
tại vãng sanh; chúng ta hãy nghĩ coi những người ấy
tâm có tự được khai ngộ hay chăng? Công phu tịnh
niệm nối tiếp mà chắc chắn có, tâm sẽ
được tự khai. Sau khi tâm đã tự khai, vì
sao chẳng giảng kinh, chẳng hoằng pháp? Giảng
kinh, hoằng pháp phải có pháp duyên; người ấy thiếu
pháp duyên nên ra đi. Người ấy ra đi, có giảng
kinh hay không? Có hoằng pháp hay không? Có! Người ấy
làm như vậy đã nêu gương tốt nhất cho
người đời sau, chẳng dùng ngôn giáo, mà dùng thân
để biểu diễn. Trong Phật pháp, chúng tôi giảng
kinh, dạy học hơn năm mươi năm, ông Hoàng Trung
Xương biểu diễn, trong một thời gian chẳng
dài [vẫn có thể vãng sanh], đã nêu ra một ví dụ tốt
nhất, chứng minh cho chúng tôi giảng kinh, dạy học,
công đức ấy thù thắng lắm! Nếu quý vị không
tin, thấy người ta y giáo phụng hành, niệm hai
năm mười tháng bèn thành công, [liền vỡ lẽ]:
“Là thật! Chẳng giả!” Có bao nhiêu kẻ thiếu lòng
tin, do dự, chần chừ, vừa trông thấy [tấm
gương của ông Hoàng Trung Xương], lòng tin bèn kiên định!
Ông ta thật sự tiếp dẫn đại chúng vãng sanh,
mà cũng là tiếp dẫn kẻ hữu duyên. Người
ta thấy gương ấy, thật sự phát khởi lòng
tin: Nghiêm túc như ông ta, thật sự làm, ai nấy đều
thành tựu!
“Chí
ư căn khí thiển giả, đản năng chí tâm tín
nhạo, nguyện sanh bỉ quốc, nãi chí thập niệm,
lâm mạng chung thời, mông Phật nhiếp thọ, tiện
sanh Cực Lạc, hoa khai kiến Phật, ngộ nhập
Vô Sanh. Kỳ diệu tật tiệp, mạc quá ư thị”
(Còn như kẻ
căn khí cạn cợt, chỉ cần chí tâm tin ưa, nguyện
sanh cõi kia, dẫu chỉ mười niệm, lúc mạng sắp
hết, được Phật nhiếp thọ, liền
sanh về Cực Lạc, hoa nở thấy Phật, ngộ
nhập Vô Sanh, kỳ diệu, nhanh chóng, không chi hơn được).
Kẻ căn khí nông cạn, tham Thiền chưa
thể đắc Định, học Giáo chưa thể
đại khai viên giải; chữ “căn khí thiển” chỉ hạng người ấy.
Chỉ cần người ấy chí tâm tin tưởng,
ưa thích. “Chí tâm” là chân thành
đến tột bậc, quyết định chẳng
hoài nghi mảy may, tin tưởng pháp môn Tịnh Độ,
tin tưởng kinh Vô Lượng Thọ, tin tưởng kinh
A Di Đà, khăng khăng một mực thâm nhập một
môn. “Nhạo” (樂) là yêu thích. Không
cần nhiều, một quyển sách nhỏ mỏng manh là
được rồi! Nguyện sanh về Tịnh Độ,
nguyện này vô cùng trọng yếu. Trong một đời
này, khẳng định một phương hướng, một
mục tiêu như thế, quyết định phải làm
được! Trong Yếu Giải, Ngẫu Ích đại
sư đã nói rất khéo: Hành nhân, tức là người niệm
Phật, có được vãng sanh thế giới Cực Lạc
hay không, [điều ấy] được quyết định
bởi [hành nhân] có tín nguyện hay không? Chỉ cần quý vị
thật sự tin, thật sự nguyện, không ai chẳng
vãng sanh! Sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới,
phẩm vị cao hay thấp, tùy thuộc công phu niệm Phật
của quý vị sâu hay cạn. Câu này hay lắm! Công phu cạn
là cõi Phàm Thánh Đồng Cư, vì sao? Chưa niệm đến
nhất tâm bất loạn. Niệm đến Sự nhất
tâm bất loạn, sẽ sanh trong cõi Phương Tiện Hữu
Dư, niệm đến Lý nhất tâm bất loạn sẽ
sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm. Công phu niệm Phật sâu
hay cạn, trong ba cõi đều có chín phẩm, [tức là] đều
có ba bậc chín phẩm, tùy thuộc công phu cạn hay sâu.
Vãng sanh hay không là do có tín nguyện hay không, câu nói này hay quá! Cổ
nhân chưa có ai nói vậy, nhưng trong sách Yếu Giải,
Ngẫu Ích đại sư đã nói như thế.
Do vậy, trọn đủ Tín,
Nguyện, Hạnh. Hạnh là quý vị thật sự niệm.
“Nãi chí thập niệm” (dẫu
chỉ mười niệm), “mười niệm” là như
nguyện thứ mười tám “mười
niệm ắt sanh” trong bốn mươi tám nguyện đã
nói. Đó là nói khi lâm chung, trong một đời này chưa
có duyên gặp gỡ, đến khi lâm chung mới gặp thiện
hữu nói cho biết phương pháp niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, khuyên kẻ ấy niệm Phật. Điều
kiện là người ấy nghe xong, ngay lập tức tiếp
nhận, có thể tin tưởng, phát nguyện, bèn có thể
vãng sanh, dẫu trong một đời chưa hề gặp
[pháp môn này trước khi lâm chung]! Ở Mỹ, tôi đã
được gặp một người. Tại đặc
khu Hoa Thịnh Đốn (Washington DC), có một đồng
tu cả đời chẳng tín ngưỡng tôn giáo nào, bị
ung thư. Ông ta mở tiệm bán bánh mì, con người hết
sức tốt lành, thật thà. Khi lâm chung, mắc bệnh
ung thư, bệnh viện đã không nhận chữa trị
nữa, bảo đã hết cách cứu. Người nhà lãnh
về, đến khắp nơi cầu thần, bái Phật,
mong có kỳ tích xuất hiện. Chúng tôi ở nơi ấy,
có các đồng học học Phật thành lập một
hội Phật giáo, có tên là Hoa Phủ Phật Giáo Hội (hội
Phật giáo Washington). Có mấy đồng học [thuộc
hội ấy] đến thăm ông ta, thấy tình trạng
như vậy, bèn khuyên: “Nhân gian rất khổ, đừng
cầu lành bệnh, hãy niệm Phật cầu sanh về thế
giới Cực Lạc”. Đem y báo và chánh báo trang nghiêm trong
thế giới Cực Lạc giảng cho ông ta nghe. Nghe
xong, ông ta hết sức hoan hỷ, bảo người nhà
chẳng cần chạy chữa cho ông ta nữa, tất cả
hãy cùng niệm Phật giúp ông ta cầu sanh Tịnh Độ.
Niệm ba ngày, ông ta thật sự vãng sanh. Trước khi
lâm chung ba ngày, ông ta mới chuyển biến ý niệm. Hễ
niệm Phật, ông ta sẽ không đau. Ông ta vốn bị
bệnh ung thư rất đau đớn; [nay do niệm Phật]
không đau nữa. Vì thế, ông ta lòng tin tràn trề, niệm
ba ngày, ra đi rất thuận lợi. “Mười niệm
ắt sanh” là thật, chẳng giả! Khi lâm chung được
Phật nhiếp thọ, Phật đến tiếp dẫn,
liền sanh về Cực Lạc, hoa nở kiến Phật,
ngộ nhập Vô Sanh.
Trong kinh Di Đà, có một câu
kinh văn Huyền Trang đại sư và La Thập đại
sư phiên dịch hoàn toàn khác nhau. Bản dịch của
ngài La Thập có câu “nhất tâm
bất loạn”; bản dịch của Huyền Trang
đại sư không có câu này, Ngài ghi là “nhất tâm hệ niệm”, chẳng phải là nhất
tâm bất loạn. Nhất tâm bất loạn khó, nhất
tâm hệ niệm dễ, chúng ta đều có thể làm
được. Có phải là Cưu Ma La Thập đại
sư dịch sai hay không? Nói thật ra, La Thập đại
sư chẳng dịch sai, mà Huyền Trang đại sư
cũng chẳng dịch sai! Nguyên văn là “nhất tâm hệ niệm”, chẳng dịch sai!
Đó là nguyên văn. La Thập đại sư dịch
theo ý, khi lâm chung, [Tịnh nghiệp hành nhân] thật sự
nhất tâm bất loạn. Khi lâm chung, công phu thành phiến,
chưa đạt đến nhất tâm, nhưng khi Phật
đến tiếp dẫn, trước hết, Phật
quang chiếu tới quý vị, Phật quang vừa chiếu,
khiến cho công phu của quý vị nâng cao gấp bội. Quý
vị đã có công phu thành phiến, Ngài vừa chiếu, ngay
lập tức trở thành nhất tâm bất loạn, chẳng
dịch sai! Đức Phật giúp đỡ chúng ta, bản
thân chúng ta chẳng có công phu gì thì không được rồi!
Đức Phật chẳng có cách nào giúp
đỡ quý vị! Phật giúp quý vị là tương
đối, [nghĩa là] quý vị có một phần công lực,
Ngài sẽ gia trì quý vị một phần. Quý vị có mười
phần công lực, Ngài sẽ gia trì quý vị mười
phần. Chính mình phải thật sự tu. Nếu chính mình
chẳng thật sự tu, chỉ cầu Phật gia trì, đó
là chuyện không thể thực hiện được! Hai
bên phải đối ứng mà! Chính mình nhất định
phải nghiêm túc nỗ lực nâng cao [cảnh giới] của
chính mình, đến khi lâm chung, hiệu quả gia trì sẽ
vô cùng rõ rệt. Vì thế, pháp môn này đúng là kỳ diệu,
nhanh chóng; tốc độ nhanh chóng không chi hơn
được!
“Nhất
thiết chúng sanh do thử đắc độ, thập
phương Như Lai nãi xứng bổn hoài” (Hết thảy chúng
sanh do pháp này đắc độ mới xứng hợp bổn
hoài của mười phương Như Lai). Thật
vậy! Mười phương Như Lai ứng hóa trong thế
gian này chỉ vì một chuyện này: Giúp chúng sanh lìa khổ,
được vui, chẳng vì chính mình. Các Ngài đâu có ý niệm
lo toan cho bản thân, các Ngài chẳng vì mình, mà vì chúng sanh mà
đến [thế gian này]. Chúng sanh khổ sướng bởi
đâu? Do mê hay ngộ mà ra. Vì sao quý vị khổ? Vì quý vị
tạo nghiệp bất thiện. Cớ sao quý vị tạo
nghiệp bất thiện? Do quý vị mê hoặc, nên mới
tạo nghiệp, mới cảm lấy ác báo. Bởi lẽ,
đức Phật biết: Sướng do đâu mà có?
Sướng từ khai ngộ mà có. Sau khi đã ngộ, chắc
chắn chẳng tạo ác nghiệp, đó là tiểu ngộ.
Khi đại ngộ, thiện lẫn ác đều chẳng
tạo, tạo gì? Phật pháp nói là “tịnh nghiệp”, tức
nghiệp thanh tịnh. Thanh tịnh nghiệp là gì? Vẫn
là đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện,
đoạn ác, tu thiện, nhưng trong tâm thanh tịnh, chẳng
có dấu vết gì, bèn gọi là “tịnh nghiệp”; đấy
cũng là thật sự buông vọng tưởng, phân biệt,
chấp trước xuống, đoạn ác, tu thiện thì
gọi là “tịnh nghiệp”.
Phật dùng phương pháp gì
để giúp những chúng sanh khổ nạn và chúng sanh
trong lục đạo? Phật dùng giáo học. Vì thế,
thuở lão nhân gia tại thế đã nêu gương cho
chúng ta: Sau khi khai ngộ bèn bắt đầu dạy học.
Ba mươi tuổi khai ngộ, bảy mươi chín tuổi
viên tịch, suốt bốn mươi chín năm chẳng bỏ
sót ngày nào, hằng ngày dạy dỗ. Phật môn đệ
tử chúng ta bất luận tại gia hay xuất gia, nhất
định phải ghi nhớ: Đức Phật xuất
hiện trong thế gian này để làm gì? Dùng phương
pháp gì? Chúng ta phải học tập điều ấy. Phật
giáo truyền đến Trung Quốc là giáo dục, chẳng
phải là tôn giáo, quý vị chớ nên không biết điều
này! Đạo tràng Phật giáo là cơ sở, thời cổ
gọi là Tự. Tự có nghĩa là gì? Vì sao gọi là Tự?
“Tự” (寺) là cơ quan làm việc của
chính phủ, trực tiếp thuộc quyền cai quản của
hoàng đế. Nếu quý vị đến Bắc Kinh, đến
thăm Cố Cung[3], trong Cố Cung có
chín Tự[4].
Một đơn vị bầy tôi của hoàng đế được
gọi là Tự. Tự, có nghĩa là vĩnh viễn thiết
lập, chẳng thể phế trừ! Do vậy, Tự
được thành lập từ đời Hán cho mãi đến
đời Thanh cũng không thay đổi. Triều đại
thay đổi theo mỗi đời, chỉ riêng chín Tự
không thay đổi danh xưng. Phật giáo truyền đến
Trung Quốc cũng được gọi là Tự, vì thế,
dưới hoàng đế có mười Tự, tức là vốn
đã có chín tự, thêm vào cơ cấu này (nhà chùa) thành
mười Tự. Tự này (nhà chùa Phật giáo) làm chuyện
gì? Lo dạy học. Giáo dục Trung Quốc biến thành
hai cơ cấu: Bản thân nhà vua nắm giữ một cơ
cấu, giáo dục của Phật Đà do chính nhà vua nắm
giữ, nên được phổ cập rất nhanh, phổ
cập toàn quốc, vì mọi người tôn kính hoàng
thượng. Cơ cấu kia là giáo dục Nho gia do Tể
Tướng nắm giữ, nó có một bộ riêng, gọi
là bộ Lễ. Bộ Lễ là bộ giáo dục. Tể Tướng
cai quản bộ giáo dục, hoàng thượng tự mình nắm
giữ nhà chùa, tức bộ giáo dục của Phật
Đà. Hai nền giáo dục tồn tại song song ở
Trung Quốc, Phật giáo chẳng phải là tôn giáo.
Hiện thời, Phật giáo biến
thành tôn giáo, tứ chúng đệ tử chúng ta bất xứng
với Thích Ca Mâu Ni Phật, vì sao trở thành nông nỗi này?
Chúng ta thấy chùa chiền thời cổ, mỗi ngày làm
chuyện gì? Giảng kinh, dạy học, giống như một
ngôi trường. Điện đường là phòng học,
Hòa Thượng Thủ Tọa phân tòa giảng kinh, giống
như trong nhà trường hiện thời, lớp học
khác nhau. Giảng đường này giảng Hoa Nghiêm, giảng
đường kia giảng Vô Lượng Thọ, giảng
đường nọ giảng Bát Nhã; họ có thầy, mỗi
ngày lên lớp. Chẳng cho phép học trò lớp nào cũng
đều học, chẳng phải vậy! Học trò chỉ
có thể chuyên dồn công sức nơi một môn; quý vị
học lớp của thầy nào, bèn đến giảng đường
ấy. Một môn thâm nhập, chẳng phải là bảo quý
vị môn gì cũng đều học, chẳng phải vậy!
Thầy cũng chuyên dạy một môn, trò cũng chuyên học
một môn. Học còn chưa xong một môn, chẳng thể
học môn thứ hai. Quý vị có thể học rất nhiều
môn, nhưng chẳng phải là học cùng một lúc. Học
từng môn một thì được phép. Vì thế, nhà chùa
là cơ cấu giáo dục. Nhất là đến thời
đại Tùy - Đường, mười tông phái của
Trung Quốc hình thành, đề xướng chế độ
tùng lâm, đó chính là mở rộng quy mô, chính thức biến
[nhà chùa] thành Đại Học. Chủ tịch tùng lâm là Phương
Trượng, Trụ Trì, Hiệu Trưởng. Quý vị thấy
các vị chấp sự (đảm đương trách nhiệm)
dưới vị ấy: Thủ Tọa là giáo vụ, Duy Na
là huấn đạo, trông nom việc giáo huấn, uốn nắn,
Giám Viện trông nom tổng vụ (quản lý mọi sự
vụ chung), hoàn toàn giống cách phân công trong trường
Đại Học hiện thời. Trong Đại Học hiện
thời, quý vị thấy Giáo Vụ Trưởng (Provost), Huấn
Đạo Trưởng (Proctor), Tổng Vụ Trưởng
(Dean of General Affairs), danh xưng khác nhau, nhưng công việc
hoàn toàn tương đồng. Vì thế, Phật giáo truyền
đến Trung Quốc đã biến hóa mang tánh chất cách
mạng, được tổ chức theo quy củ chính thức,
mang hình thức một trường học chính quy. Phật
giáo vào thời đức Thế Tôn và vào thời mới
truyền sang Trung Quốc mang tánh chất trường
tư, giống như tư thục giáo dục, chưa
được “chế độ hóa” (Institutionalized). Chế
độ hóa là điểm đặc sắc trong Phật
giáo Trung Quốc.
Khi tôi mới
học Phật, thầy tôi đã nói chuyện này rất nhiều
lần, đương nhiên là đặt hy vọng nơi
tôi, nhưng tôi không có đại phước báo như thế.
Thầy đã bảo tôi rất nhiều lần: “Muốn cho Phật giáo hưng
vượng trở lại, nhất định phải
khôi phục chế độ tùng lâm”. Nếu nói theo cách
bây giờ, nhất định phải lập Đại Học
Phật giáo thì Phật pháp mới có thể hưng vượng.
Chuyện này chúng ta chỉ đành trông chờ quốc gia, cá
nhân chẳng có năng lực ấy, nói theo Phật
pháp là chẳng có đại phước báo dường ấy!
Vì thế, đức Thế Tôn đem đại sự Phật
pháp hưng vượng hay suy vi phó thác cho quốc
vương, đại thần, để họ hộ
trì. Trong quá khứ, tại Trung Quốc, lịch đại
đế vương đều hộ trì Phật pháp,
đặc biệt là nhà Thanh là dân tộc thiểu số
vào làm chủ Trung Quốc, thống trị một quốc
gia to như thế, họ dùng phương pháp gì? Dùng giáo dục.
“Kiến quốc, quân dân, giáo học
vi tiên” (xây dựng đất nước, cai trị dân
chúng, lấy giáo dục làm đầu). Họ dùng giáo dục
của Nho, Thích, Đạo, giữ vững nền cai trị
tới hai trăm sáu mươi năm, giữ ổn định
trong một thời gian dài. Cuối cùng, đúng là [thành quả
ấy] bị hủy mất bởi chính Từ Hy Thái Hậu.
Từ Hy Thái Hậu nắm quyền, bèn phế trừ sự
giảng học. Trong quá khứ, trong cung đình luôn lễ
thỉnh những vị cao tăng đại đức Nho,
Thích, Đạo vào dạy học trong cung đình, hoàng
thượng dẫn văn võ bá quan nghe giảng, những ý
nghĩa được giảng đều [được
thâu thập] trong Tứ Khố Toàn Thư. Tôi đọc Tứ
Khố Toàn Thư, thích xem những thứ như Luận Ngữ,
Mạnh Tử, [để tìm hiểu] cách giảng nghĩa
tại cung đình trong quá khứ là như thế nào? Những
nghĩa lý đã giảng giải đều được
thâu thập trong bộ Tứ Khố, bản ấy là bản
tiêu chuẩn. Họ thật sự làm, không giống như
hiện thời, hiện tại không làm! Đến thời
Từ Hy, không làm như vậy nữa. Từ Hy chuộng
quỷ thần, thích cầu cơ, gặp chuyện gì chính
mình chẳng thể giải quyết, bèn chẳng hỏi
han ai khác, mà thưa hỏi trong đàn cầu cơ, cho nên bà
ta làm mất nước! Chương Gia đại sư kể
cho tôi nghe chuyện này. Chương Gia đời trước
là quốc sư của nhà Thanh[5]. Do vậy, Phật
giáo bị biến thành tôn giáo, giáo dục của Phật Đà
chẳng còn nữa, chúng ta phạm lỗi với Thích Ca Mâu
Ni Phật ở chỗ này!
Chẳng liễu giải thì
thôi, chẳng cần phải nhắc tới, nhưng thật
sự liễu giải, nhận biết rồi, chúng ta nhất
định phải đi theo con đường của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Bản thân tôi tiếp nhận sự
giáo huấn của Chương Gia đại sư, Ngài
khuyên tôi xuất gia, lại còn dặn tôi học theo Thích Ca
Mâu Ni Phật. Tôi hiểu ý lão nhân gia, chẳng cô phụ thầy,
suốt đời chúng tôi đi theo con đường này.
Đi theo con đường này rất nhọc nhằn,
nhưng đáng công lắm! Mong các đồng học chúng
ta đều có thể giác ngộ, thật sự phát tâm dạy
học, bất luận là tại gia hay xuất gia đều
có thể [làm công tác giáo hóa]. Thuở đức Thế Tôn tại
thế, cư sĩ tại gia Duy Ma Cật (Vimalakīrti) giống như Thích Ca Mâu Ni Phật,
giảng kinh, dạy học mỗi ngày. Thời đầu
Dân Quốc, tiên sinh Âu Dương Cánh Vô là một vị
đại đức trong Phật môn đã thành lập Chi Na
Nội Học Viện, thâu nhận hàng xuất gia lẫn tại
gia, tổ chức rất thành công; nhưng vì tình hình chiến
tranh, hoạt động được hai năm rồi
phải đóng cửa học viện. Ông ta nói rất hay: “Phật môn là sư đạo”.
Sư đạo có nghĩa là thầy là lớn nhất, tôn
sư, trọng đạo! Chúng ta thấy trong kinh Duy Ma, đệ
tử của Thích Ca Mâu Ni Phật là Mục Kiền Liên, Xá
Lợi Phất, nghe cư sĩ Duy Ma giảng kinh, lễ tiết
hoàn toàn giống như [lễ tiết dành cho] Thích Ca Mâu Ni
Phật. Cư sĩ Duy Ma là kẻ tại gia, khi lên tòa giảng
kinh, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên đảnh lễ
cư sĩ ba lạy, nhiễu quanh ba vòng. Đó là tôn sư
trọng đạo, Ngài là thầy mà! Tuy quý vị xuất
gia, là học trò của Thích Ca Mâu Ni Phật, quý vị vẫn
là học trò, vẫn chưa đạt tới địa vị
như Ngài (Duy Ma Cật). Vì vậy, nói theo Phật pháp, hai vị
Phật đồng thời xuất hiện trong thế
gian thuở ấy, một vị là xuất gia Phật, vị
kia là tại gia Phật, hai vị Phật, quyết định
chẳng thể khinh mạn! Pháp môn bình đẳng, chẳng
có cao thấp, nhất định phải tôn trọng đôi
bên; chẳng thể nói vừa xuất gia bèn ngạo nghễ,
ngã mạn, coi thường người khác. Trong giới cư
sĩ, thật sự có những bậc đại đức,
tu hành rất tốt đẹp, thậm chí có người khai
ngộ, làm sao quý vị có thể khinh mạn họ
được? Nhất định phải hiểu điều
này! Bất luận tại gia hay xuất gia, nếu thật
sự học Phật, phải học theo Thích Ca Mâu Ni Phật
khiêm hư, cung kính hết thảy chúng sanh, phải nêu
gương thật sự đoạn trừ tham, sân, si, mạn.
Kẻ còn có ngạo mạn thì như thế nào? Quý vị
là phàm phu! Bởi lẽ, mười phương Như Lai
xuất hiện trên cõi đời chẳng có chi khác, [chỉ
là] mong giúp cho hết thảy chúng sanh sớm có ngày thành Phật,
sớm có ngày rời khỏi lục đạo, rời khỏi
mười pháp giới, đấy là tâm nguyện của
Phật.
Kế đó là: “Hựu bổn kinh sở tuyên, nãi Như Lai chân thật
thuần nhất chi pháp, vô hữu quyền khúc, cố danh
chánh thuyết” (Kinh
này lại tuyên dương pháp chân thật thuần nhất
của Như Lai, chẳng quyền biến, cong quẹo,
nên gọi là Chánh Thuyết).
Mấy câu này hết sức quan trọng, vì trong hết thảy
kinh giáo, đức Thế Tôn khai thị quả thật có
nói phương tiện, có khi nói uyển chuyển, tùy thuận,
[những cách nói như vậy] rất nhiều, hết sức
phổ biến, vì sao? Chúng sanh căn tánh khác nhau. Do vậy,
giáo học trong Phật môn thường được gọi
là “đại giảng đường” hay “đại giảng
tòa”. “Đại” có nghĩa là gì? Căn tánh của thính chúng
hoàn toàn khác nhau, có kẻ không biết chữ, có người
trình độ Tiểu Học, cũng có người học
lớp Tiến Sĩ, mỗi cá nhân nghe giảng đều
hoan hỷ, mỗi người nghe đều được
lợi ích, đấy chẳng phải là chuyện dễ! Không
giống như lên lớp trong trường học, học
trò có trình độ ngang nhau, dễ giảng, ở đây là
hoàn toàn khác nhau, “Phật dĩ
nhất âm nhi thuyết pháp” (Phật dùng một âm thanh
để thuyết pháp), hết thảy chúng sanh không chỉ
nghe hiểu, mà còn đều được thụ dụng.
Đó gọi là “đại giảng tòa”; những vị
giáo thụ[6]
hay giáo sư bình thường sẽ chẳng thể làm
được. Do vậy, giảng đường trong Phật
môn người đến chẳng cự tuyệt, người
đi không giữ lại. Quý vị thông đạt quyền
biến, hễ giảng sâu, phải quan tâm đến những
kẻ trình độ nông cạn, xét coi họ có hiểu hay
không? Nếu giảng nông cạn, cũng phải quan tâm
đến những kẻ có trình độ cao;
phương diện nào cũng phải xét đến. Vì thế,
đức Phật có Thật và có Quyền, có thẳng, và
có cong (nói phương tiện, vòng vo để từ từ
hướng dẫn đến mục tiêu), dùng phương
pháp dạy học thiên biến vạn hóa, có thể thích hợp
các loại căn khí khác biệt. Nhưng kinh này không như
vậy, nói thẳng thừng, thỏa đáng, chẳng nói phương
tiện, chẳng nói loanh quanh, câu nào cũng giảng pháp chân
thật, trực tiếp hướng dẫn quý vị trở
về tự tánh. Quý vị phải biết: Vãng sanh Cực
Lạc là trở về tự tánh. Trở về tự tánh
là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, phương pháp
hết sức đơn giản, ổn thỏa, thích
đáng, nhanh chóng, đạt đến rốt ráo viên mãn.
“Hựu
nãi Thế Tôn xứng kỳ bổn tánh, hòa bàn thác xuất, hào
vô bảo lưu, cố danh xứng tánh” (Lại nữa, Thế
Tôn xứng hợp bổn tánh trao bày hết cả ra, chẳng
có chút mảy may giấu diếm, nên gọi là Xứng
Tánh). Mấy câu này nói rất
hay, kinh Vô Lượng Thọ từ bản tánh của Thích
Ca Như Lai tự nhiên lưu lộ, lại còn là viên mãn
lưu lộ. Giống chúng ta tặng quà, dọn hết cả
mâm ra, chẳng giữ lại mảy may nào, tuyên
dương toàn bộ tự tánh. Những kinh điển
đàm luận xứng tánh như vậy, giãi bày trọn hết
như thế không nhiều lắm! Vì thế, kinh này cực
viên, cực đốn, nên gọi là xứng tánh. “Nhất thiết hàm linh giai nhân
thử nhi đắc độ thoát, nãi xứng tánh trung
đăng phong tạo cực chi đàm, cố vi Xứng Tánh
Cực Đàm” (Hết
thảy hàm linh đều do đây mà được độ
thoát, thật là bàn luận xứng tánh đến cùng tột,
nên gọi là Xứng Tánh Cực Ðàm). “Cực”
(極) là đạt tới
đỉnh điểm. Bởi lẽ, kinh Vô Lượng
Thọ là chỗ quy túc cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm. Kinh Hoa
Nghiêm đàm luận xứng tánh, nhưng so với kinh Vô
Lượng Thọ thì kinh Vô Lượng Thọ là “xứng tánh cực đàm”,
đăng phong tạo cực (đạt tới tột đỉnh).
Đây cũng là nói rõ: Kinh Hoa Nghiêm bước vào Tịnh
Độ mới thật sự viên mãn. Nếu chẳng do
mười đại nguyện vương dẫn về
Cực Lạc, kinh Hoa Nghiêm chẳng viên mãn. Vì sao? Hoa Nghiêm chỉ
có thể độ bậc thượng thượng
căn, đối với căn tánh thượng trung hạ
sẽ chẳng khế cơ. Hễ dẫn về Cực Lạc,
từ thượng thượng căn cho đến
thượng trung hạ toàn bộ đều độ được,
Hoa Nghiêm bèn viên mãn! Thượng trung hạ căn đến
Tây Phương Cực Lạc thế giới toàn bộ
đều biến thành thượng thượng căn, chẳng
thể nghĩ bàn! Chúng ta học pháp môn Tịnh Độ chớ
nên không biết điều này! Quý vị biết những đạo
lý và chân tướng sự thật này, mới có thể chết
sạch so đo, khăng khăng tu một môn này, chắc
chắn thành tựu trong một đời này. Đối với
thế giới này, đối với thiên đường,
hay đối với mười pháp giới, chẳng còn
có ý niệm tham luyến nữa! Hôm nay đã hết thời
gian rồi, chúng ta học tập tới đây.
Tập 12
Chư
vị pháp sư, chư vị đồng học, xin ngồi
xuống. Xin xem Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh
Giải, trang mười hai, dòng thứ nhất. “Ất, tam căn phổ bị,
thánh phàm tề thâu” (tiểu đoạn thứ hai là
thích hợp khắp ba căn, thâu gồm thánh lẫn phàm).
Chúng ta xem đoạn này, đây là đoạn thứ hai của
phần Giáo Khởi Nhân Duyên.
“Phù
chúng sanh căn khí thiên sai vạn biệt, Thế Tôn cố thuyết
bát vạn tứ thiên pháp môn quảng ứng quần cơ”
(Chúng sanh căn khí ngàn muôn sai khác; do vậy, đức Thế
Tôn nói tám vạn bốn ngàn pháp môn để thích ứng rộng
rãi các căn cơ). Vừa mở đầu đã bảo chúng
ta: Đức Phật thuyết pháp chẳng lìa Nhị
Đế: Chân Đế là cảnh giới đức Phật
đích thân chứng đắc, Tục Đế là do
căn tánh của chúng sanh trong mười pháp giới khác
nhau. Do vậy, Chân Đế là Nhất Phật thừa, Tục
Đế có tám vạn bốn ngàn pháp môn. “Tám vạn bốn ngàn” cũng chẳng phải là một
con số cố định, mà để hình dung rất nhiều,
vô lượng vô biên pháp môn nhằm thích ứng các thứ
căn cơ sai khác trong thế gian. “Hoa Nghiêm Viên Giáo, chuyên tiếp thượng thượng
căn nhân” (Hoa Nghiêm là Viên Giáo, chuyên tiếp độ bậc
thượng thượng căn): Bộ kinh Hoa Nghiêm giảng
thật nhiều, thích ứng với căn cơ của
chúng sanh, chứ không phải là chẳng hề thích ứng.
Tuy ứng theo căn cơ để thuyết pháp, nhưng
[kinh ấy] vẫn quy về tự tánh y như cũ. Vì thế,
đối tượng giáo học của kinh ấy là bậc
thượng thượng căn. Chúng ta cũng biết bộ
kinh ấy do Thích Ca Mâu Ni Phật đã giảng đầu
tiên sau khi kiến tánh, giảng trong Định; vì thế,
người Tiểu Thừa chẳng thừa nhận.
Người Tiểu Thừa chỉ thừa nhận Tứ
A Hàm[7] giảng ở Lộc
Dã Uyển (Mrigadava, Sārnātha), chứ [đức Phật
giảng trong] Định đâu có ai thấy! Trong Định
giảng cho ai? Cho bốn mươi mốt địa vị
Pháp Thân đại sĩ, các vị ấy là thính chúng,
cũng là từ Sơ Trụ trở lên như trong kinh Hoa
Nghiêm đã nói: Thập Trụ Bồ Tát, Thập Hạnh, Thập
Hồi Hướng, Thập Địa, Đẳng Giác, giảng
cho bốn mươi mốt địa vị, họ đều
là Phật, minh tâm kiến tánh, kiến tánh thành Phật. Do vậy,
đức Thế Tôn và chư Phật Như Lai đã nêu ra
báo cáo. Giống như vào đời Đường, Lục
Tổ Huệ Năng sau khi khai ngộ, đã hướng về
hòa thượng Ngũ Tổ Nhẫn thưa bày, Ngài
thưa trình rất đơn giản, chỉ có năm câu,
còn Thích Ca Mâu Ni Phật báo cáo rất tỉ mỉ, nhưng cảnh
giới hoàn toàn bình đẳng, chẳng có cao thấp.
Cảnh giới khai ngộ của
Thích Ca và cảnh giới khai ngộ của Lục Tổ
như nhau, sau khi khai ngộ, thật sự thích ứng rộng
rãi mọi căn cơ, nên dùng thân gì để độ
bèn hiện thân ấy. Phật Thích Ca ở Ấn Độ,
căn tánh nơi ấy là căn tánh Phật, cho nên phải
dùng thân Phật hòng [làm cho kẻ hữu duyên] đắc
độ, Thích Ca Mâu Ni Phật bèn hiện thân Phật. Huệ
Năng đại sư tại Trung Quốc, đối
tượng thuyết pháp tại Trung Quốc thuở ấy
là tỳ-kheo, đáng nên dùng thân tỳ-kheo để độ,
liền hiện thân tỳ-kheo mà thuyết pháp. Nói theo ba
mươi hai ứng thân[8] của Quán Thế
Âm Bồ Tát, bất luận hiện thân gì cũng đều
bình đẳng. Ngài là một vị Phật thật sự,
chẳng phải là Phật giả. Đối tượng
tiếp dẫn [của Lục Tổ] là bậc thượng
thượng căn, [thính chúng nếu] chẳng phải là bậc
thượng thượng căn sẽ chẳng có phần.
Từ Đàn Kinh chúng ta thấy: Huệ Năng đại
sư trong một đời độ được bao
nhiêu người? Bốn mươi ba người. Cũng
có nghĩa là trong hội của Ngài, bốn mươi ba người
đại triệt đại ngộ, có cảnh giới
bình đẳng với Ngài. Đây là chuyện không tiền tuyệt
hậu trong lịch sử Trung Quốc, trước Lục
Tổ không có tình huống hưng thịnh như thế, mà
sau Lục Tổ cũng chẳng thấy tình huống
hưng thịnh ấy. Từ nay về sau, pháp vận của
Thích Ca Mâu Ni Phật hãy còn chín ngàn năm nữa, có chuyện
như vậy trong thời kỳ Mạt Pháp hay không? Không có!
Trước kia, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ bảo
tôi: Từ nay về sau, trong Thiền Tông chẳng còn bậc
đại triệt đại ngộ, không còn có người
căn tánh như thế! Trong Mật Tông, “tam mật tương ứng, tức thân thành Phật”
cũng không có, chỉ có niệm Phật vãng sanh, thân cận
A Di Đà Phật là hạng người đắc độ.
Chỉ có pháp môn này thích hợp khắp ba căn, gồm
thâu phàm lẫn thánh, mãi cho đến khi Phật pháp trong thế
gian này bị tiêu diệt, cũng có nghĩa là nói [cho tới]
khi pháp vận một vạn hai ngàn năm của đức
Thế Tôn chấm dứt, pháp môn này luôn luôn hữu hiệu.
Nói cách khác, từ nay về sau, chúng ta có thể đắc
độ chỉ do một môn này; trừ một môn này ra,
đúng là khó lắm, thật sự chẳng dễ dàng!
Trong hội Hoa Nghiêm, “trí huệ như Xá Lợi Phất,
thần thông như Mục Kiền Liên, ư Phật Thanh
Văn đệ tử trung quân xưng đệ nhất”
(trí huệ như Xá Lợi Phất, thần thông như Mục
Kiền Liên, trong các đệ tử Thanh Văn của
đức Phật, các Ngài đều được gọi
là bậc nhất). Ngài Xá Lợi Phất là trí huệ đệ
nhất, ngài Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất.
“Đản tại Hoa Nghiêm hội
thượng, như manh, như lung, huống thị hạ
ư thử giả, cố vân hạ căn tuyệt phần”
(nhưng trong hội Hoa Nghiêm, các Ngài đều như mù,
như điếc, huống hồ những kẻ kém
hơn các Ngài. Vì thế, nói: “Kẻ hạ căn trọn chẳng
có phần”). Như hai vị này, trí huệ, thần thông
đều là đệ nhất, nhưng trong hội Hoa
Nghiêm, các Ngài nghe không hiểu, mà cũng chẳng thấy.
Phàm là người tham gia pháp hội Hoa Nghiêm, từ kinh
điển chúng ta thấy, ngoài hàng Bồ Tát ra, có Thanh
Văn hay không? Có chứ! Cũng có Duyên Giác, còn có thiên thần,
thậm chí còn có nhiều vị thần trong thế gian này đều
tham gia. Họ là lục đạo phàm phu, vì sao có thể
tham gia? Ở đây, kinh đã ban cho chúng ta một khải
thị rất lớn, nói rõ nơi này (thế giới Sa Bà)
là cõi Phàm Thánh Đồng Cư; có nhiều phàm phu trên thực
tế là Pháp Thân đại sĩ ứng hóa trong lục
đạo, chẳng phải là phàm phu thật sự. Thần
cây, thần núi, thần sông, địa thần, địa
thần là thổ địa thần, cũng hiện diện
trong hội Hoa Nghiêm, đó là gì? Những vị thần ấy
toàn là Pháp Thân đại sĩ, Pháp Thân Bồ Tát, là bậc thượng
thượng căn thị hiện trong ấy. Do vậy,
có thể biết: Chúng sanh càng có khổ nạn, chư Phật,
Bồ Tát thị hiện trong thế gian này càng nhiều, nhưng
lũ phàm phu mắt thịt chúng ta chẳng nhận biết!
Nếu trong nhân gian không có Phật, Bồ Tát nhiều như
thế, đại địa đã sớm chìm lỉm mất
rồi. Chúng ta nương nhờ phước của các
Ngài, các Ngài đang âm thầm giúp đỡ chúng ta, nhưng
chúng ta không biết. Nếu chúng ta có thể hồi tâm
hướng thiện, y giáo phụng hành, không chỉ chính mình
đắc độ, mà còn có thể giúp đỡ địa
cầu, và cũng có thể giúp hóa giải tai nạn trong xã
hội này. Tuy chưa thể hóa giải hoàn toàn, nhưng tai
nạn giảm khinh, rút ngắn thời gian [tai nạn], khẳng
định sẽ có thể thu được hiệu quả.
Sau khi chúng ta thâm nhập kinh tạng, quý vị sẽ thấy
rõ ràng, minh bạch chuyện này. Ở đây, cụ Niệm
Tổ cho chúng ta biết: Nếu chẳng giống như Mục
Kiền Liên hay Xá Lợi Phất, đương nhiên trọn
chẳng có phần nơi pháp môn [Hoa Nghiêm] này.
“Chí
ư Tiểu Thỉ chư giáo, nãi tiếp quyền tiểu
chi cơ” (Còn như các giáo pháp Tiểu Giáo và Thỉ Giáo
nhằm tiếp dẫn căn cơ quyền tiểu). Tiểu,
Thỉ, Chung, Đốn, Viên là Hoa Nghiêm ngũ giáo. So với
cách tổ chức nhà trường thì Tiểu Giáo như Tiểu
Học, Thỉ Giáo là Trung Học. Tiểu Giáo thật sự
là Tiểu Thừa, Thỉ Giáo là khởi đầu của
Đại Thừa, Chung Giáo là Đại Thừa viên mãn. Trong
đây cũng có rất nhiều tầng lớp: Năm
mươi mốt tầng cấp Bồ Tát. Chung Giáo là kết
cục của Đại Thừa, là tầng cao nhất.
Cao hơn nữa là căn tánh đặc biệt, chẳng
phải căn tánh bình thường, mà là đốn căn
hay viên căn. Tiểu, Thỉ, Chung là [các giáo pháp theo
đường lối] thông thường; chúng ta nói là “thượng,
trung, hạ ba thừa”. Vì thế, các giáo pháp Tiểu Giáo và
Thỉ Giáo nhằm tiếp dẫn các căn cơ quyền
tiểu. “Đối ư thượng căn, tắc hữu giáo thiển
cơ thâm chi thất, diệc bất ứng cơ” (đối với thượng căn, sẽ
phạm lỗi giáo pháp nông cạn mà căn cơ sâu xa,
cũng chẳng phù hợp căn cơ): So với thượng
căn, Tiểu Giáo và Thỉ Giáo quá nông cạn, căn khí của
bậc thượng thượng căn quả thật
là căn sâu, tâm lớn, lượng lớn; vì thế, [Tiểu
Giáo và Thỉ Giáo] cũng không ứng hợp căn cơ. Đấy
là nói về kinh Hoa Nghiêm. “Duy bổn
kinh chi trì danh niệm Phật pháp môn, thánh phàm tề thâu, lợi
độn tất bị” (chỉ có pháp môn trì danh Niệm
Phật trong kinh này gồm thâu thánh lẫn phàm, lợi
căn lẫn độn căn đều thích hợp). Đó
là so sánh giữa kinh Vô Lượng Thọ và kinh Hoa Nghiêm, kinh
Vô Lượng Thọ dùng phương pháp trì danh niệm Phật,
dễ hơn!
Kinh
Hoa Nghiêm tu gì? Tu Chỉ Quán. Trước đây, chúng ta từng
học Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng Tận Hoàn Nguyên Quán, cách
tu trong ấy như thế nào? Ngũ Chỉ Lục Quán[9], Tiểu Giáo và Thỉ
Giáo chẳng thể tiếp nhận! Nói cách khác, những pháp
đó dành cho người thượng thượng căn
học. Họ học Hoa Nghiêm mới thụ dụng
được. Chẳng phải là người có căn
tánh như vậy mà học kinh Hoa Nghiêm thì chỉ là học
văn tự, không thể thụ dụng. Học kinh Hoa
Nghiêm mà thật sự thụ dụng, niệm Phật cầu
sanh Tịnh Độ, sanh về Tây Phương Cực Lạc
thế giới sẽ chẳng thuộc vào cõi Phàm Thánh,
cũng chẳng thuộc cõi Hữu Dư, trực tiếp
sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm, khác hẳn! Đối với
phương pháp trì danh niệm Phật, bậc thánh nhân
như Văn Thù, Phổ Hiền là thánh nhân, Quán Âm, Thế
Chí là thánh nhân, đại thánh; phàm phu như bà già, ông lão chẳng
biết chữ, nhưng tin tưởng, thật sự hành,
khi lâm chung cũng có thể vãng sanh, [đó là] gồm thâu cả
thánh lẫn phàm. “Lợi căn”
là thượng thượng căn, “độn căn” là trung hạ căn; [đối
với căn cơ nào], pháp môn này cũng đều thích hợp.
Vì thế, trong chín ngàn năm của thời Mạt Pháp, hết
thảy chúng sanh đắc độ phải trông cậy
vào bộ kinh này, nương theo pháp môn này. Thật sự chết
sạch so đo, khăng khăng tu pháp môn này, không một
ai chẳng thành tựu, Thiện Đạo đại
sư bảo: “Vạn người
tu, vạn người về”.
“Triệt
thượng” là nêu ví dụ để nói thì trên là “tắc như Phổ Hiền,
Văn Thù” (như Phổ Hiền, Văn Thù), đây là hai
vị đại Bồ Tát trong hội Hoa Nghiêm. Phông nền
sau lưng chúng tôi là hình Hoa Nghiêm Tam Thánh, chính giữa là Tỳ
Lô Giá Na Như Lai, hai bên là Văn Thù và Phổ Hiền Bồ
Tát. Các đồng học học Phật đều biết:
Văn Thù trí huệ đệ nhất trong hàng Bồ Tát, Phổ
Hiền Bồ Tát là vị tu hành đệ nhất giữa
các Bồ Tát. Một vị là giải môn đệ nhất,
một vị là hạnh môn đệ nhất. Nếu nói
theo cách hiện thời, Phổ Hiền Bồ Tát thật sự
làm, làm thật sự triệt để, thật sự
viên mãn. Vì thế, hễ nói tới tu hành, hết thảy các
vị Bồ Tát đều tôn Phổ Hiền đứng
đầu, không ai chẳng tán thán. Hai vị này “thượng phát nguyện cầu
sanh Cực Lạc” (còn phát nguyện cầu sanh Cực Lạc);
ở đây, sách đã dẫn bài kệ phát nguyện của
các Ngài. Trong quyển thứ ba mươi chín của bộ
Tứ Thập Hoa Nghiêm, “Phổ
Hiền kệ vân: Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời,
tận trừ nhất thiết chư chướng ngại,
diện kiến bỉ Phật A Di Đà, tức đắc
vãng sanh An Lạc sát” (ngài Phổ Hiền có bài kệ rằng:
“Nguyện khi tôi sắp mạng chung, trừ sạch hết
thảy các chướng ngại, gặp mặt đức
Phật A Di Đà, liền được vãng sanh cõi An Lạc”).
“An Lạc sát” là Tây
Phương Tịnh Độ. Bài kệ của ngài Văn
Thù có ý nghĩa hoàn toàn tương đồng. Bài kệ do Văn
Thù Bồ Tát nói [mỗi câu] gồm năm chữ: “Nguyện ngã mạng chung thời,
diệt trừ chư chướng ngại, diện kiến
A Di Đà, vãng sanh An Lạc sát” (Nguyện khi tôi mạng
chung, diệt trừ các chướng ngại, gặp mặt
A Di Đà, vãng sanh cõi An Lạc). Trong phần trước,
tôi đã từng thưa bày cùng quý vị, tôi tiếp nhận
pháp môn Tịnh Độ, chết sạch so đo, một mực
niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Độ là do
đọc hai bài kệ này!
Chuyện này đã xưa lắm
rồi. Thuở trước, tôi giảng kinh Hoa Nghiêm, có lúc
nọ, nghĩ Văn Thù và Phổ Hiền tu pháp môn gì? Thiện
Tài đồng tử tu pháp môn gì? Bèn tra duyệt kinh về
chuyện này, mới biết Văn Thù và Phổ Hiền niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ. Thiện Tài là môn sinh
đắc ý, là đệ tử truyền pháp của Văn
Thù, làm sao có thể khác thầy cho được? Chẳng
thể nào có chuyện ấy! Xem kỹ năm mươi ba
lần tham học, khi ấy năm mươi ba lần
tham học đã giảng được phân nửa, một
mực giảng theo kiểu nuốt trộng quả táo,
người ta hỏi tôi Thiện Tài đồng tử học
gì, tôi đáp không được. Tôi nghĩ dường như
môn nào Ngài cũng đều học. Ngài là một bậc
đại thông gia, học rộng nghe nhiều, thật ra,
chẳng phải vậy! Quay trở lại, đọc cẩn
thận lần nữa, [mới biết] Thiện Tài đồng
tử tu trì danh niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
giống như thầy Ngài. Nói như bây giờ, Ngài đã
tốt nghiệp từ giảng tòa của thầy, tốt
nghiệp là gì? Đắc Căn Bản Trí sẽ gọi là
tốt nghiệp. Căn Bản Trí là gì? Thiền Tông gọi
nó là “đại triệt đại
ngộ, minh tâm kiến tánh”. Khi ấy, địa vị
của Ngài là Sơ Trụ Bồ Tát của Viên Giáo [như
trong] kinh Hoa Nghiêm [đã dạy], Ngài chứng đến
địa vị này. Thầy nói: “Được rồi, ngươi
chẳng cần phải trụ tại đây nữa, hãy
đi ra ngoài tham học”. Cũng có nghĩa là trong hội
Văn Thù, Ngài đã làm được chuyện này. Hai nguyện
đầu trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ” là đại Bồ Đề tâm, Ngài đã
phát, đó là Đại Thừa, đã phát đại Bồ
Đề tâm. “Phiền não vô tận
thệ nguyện đoạn”, Ngài đã đoạn, đoạn
hết Kiến Tư phiền não, đã đoạn Trần
Sa phiền não, đã đoạn Vô Minh phiền não, đã thực
hiện viên mãn hai điều này. Sau khi viên mãn, bèn làm như
thế nào? Nguyện thứ ba: “Pháp
môn vô lượng thệ nguyện học”. Năm
mươi ba lần tham học chính là “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”.
Bản thân Ngài học pháp môn gì?
Chính Ngài học Tịnh Độ. Thông tin này do đâu mà có?
Nhìn vào năm mươi ba lần tham học của Ngài,
quý vị thấy vị thiện tri thức thứ nhất
là Sơ Trụ Bồ Tát. Nếu chính Ngài chưa chứng
đắc Sơ Trụ, sẽ chẳng thể tham học
với bậc Sơ Trụ. Thầy Ngài giới thiệu:
“Ngươi hãy đến tham học với tỳ-kheo Cát
Tường Vân, ngươi hướng về Ngài thỉnh
giáo”. Tỳ-kheo Cát Tường Vân tu Ban Châu tam-muội, còn gọi
là Phật Lập tam-muội, cũng là pháp tu hành thù thắng
bậc nhất trong Tịnh Độ. Mỗi kỳ tu học
trong pháp môn này là chín mươi ngày, trong chín mươi ngày
chớ nên ngủ nghỉ, chẳng được ngồi,
chỉ được phép đứng hay đi, cho nên gọi
là Phật Lập tam-muội, chuyên niệm A Di Đà Phật
cầu sanh thế giới Cực Lạc. Mỗi kỳ là
chín mươi ngày, thân chẳng khỏe mạnh sẽ không
thể tu được. Tuổi tác đã cao sẽ chẳng
có cách nào tu pháp môn này; nói chung phải là người tuổi
trẻ, có thể lực. Khá ư là khó khăn! Ngài thân cận
tỳ-kheo Cát Tường Vân; tỳ-kheo Cát Tường Vân khai
thị, giảng giải hai mươi mốt pháp môn Niệm
Phật. “Hai mươi mốt”
chẳng phải là con số, mà là viên mãn, đại viên
mãn, Mật Tông nói như vậy. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm, Hiển
lẫn Mật thảy đều có; Hiển, Mật, Tông, Giáo thảy đều
được gộp trong ấy. Hai mươi mốt loại
pháp môn Niệm Phật ấy nếu triển khai sẽ là
vô lượng pháp môn do mười phương ba đời
hết thảy chư Phật Như Lai đã nói. Có pháp môn
nào chẳng phải là Niệm Phật? Môn nào cũng đều
là! Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Nhất
tức nhất thiết, nhất thiết tức nhất”
(một chính là hết thảy, hết thảy chính là một),
mới biết pháp môn Niệm Phật thù thắng. Quý vị
thấy vừa mở đầu đã nói với quý vị
điều này. Trung Quốc lẫn Ấn Độ đều
có khái niệm giống như thế, gọi là “tiên nhập vi chủ” (môn gì
được tiếp xúc đầu tiên sẽ là chủ yếu).
Đầu tiên là học pháp môn Niệm Phật. Chúng ta lại
nhìn tới vị cuối cùng, tức vị thứ năm
mươi ba, vị thiện tri thức thứ năm
mươi ba là Phổ Hiền Bồ Tát, càng nói rõ rệt
hơn: Mười đại nguyện vương dẫn
về Cực Lạc. Quý vị thấy Thiện Tài [tham học
với các thiện tri thức], một vị đầu
tiên, một vị cuối cùng, từ đầu đến
cuối là một môn, thâm nhập một môn. Vì sao phải
đi tham học? Tham học nhằm thành tựu Hậu
Đắc Trí. Vì sao? Nếu quý vị hành Bồ Tát đạo,
phải rộng độ chúng sanh. Căn tánh của
chúng sanh thiên sai vạn biệt, pháp môn gì quý vị đều
biết, chẳng thể không biết, thì quý vị mới có
thể độ hết thảy chúng sanh. Vì thế, tham học
nhằm để tiếp dẫn chúng sanh có căn tánh bất
đồng, chẳng phải vì chính mình! Vì chính mình thì một
câu A Di Đà Phật bèn minh tâm kiến tánh, đã thành Phật
rồi. Biểu diễn cho chúng ta xem mà!
Do vậy, trong quá khứ, khi giảng
học, tôi thường khuyên lơn, khích lệ các đồng
học, đối với Tứ Hoằng Thệ Nguyện,
trong thế gian này chúng ta chỉ học hai nguyện đầu,
hai nguyện sau chúng ta chưa làm được. Chúng ta chỉ
học hai nguyện trước, hai nguyện sau đến
thế giới Cực Lạc mới viên mãn, đến thế
giới Cực Lạc học rộng nghe nhiều. Chưa
tới thế giới Cực Lạc, ta cứ thâm nhập
một môn. Ta nhờ vào một môn để ổn thỏa,
thích đáng giữ lấy thế giới Cực Lạc; sau
khi thân cận A Di Đà Phật mới bèn học rộng
nghe nhiều. Hiện thời đừng nên làm [như vậy];
nếu trong hiện tại mà học rộng nghe nhiều, quý
vị sẽ tự khiến chính mình bị lỡ làng! Nếu
quý vị phân tâm, tinh thần, tinh lực, và thời gian sẽ
chẳng đủ dùng. Điều thứ hai là quý vị
đã bị phân tâm, chẳng thể tập trung tinh thần,
ý chí; nói cách khác, một môn vẫn chưa học tốt
đẹp, đáng tiếc lắm! Chẳng thà trong một
đời này, chúng ta thâm nhập một môn, trường
thời huân tu, chính mình quyết định có thành tựu,
đến thế giới Cực Lạc rồi mới học
rộng nghe nhiều, ổn thỏa, thích đáng,
phương pháp này tốt đẹp lắm! Hãy học
theo Liên Trì đại sư, Ngài đã nói hai câu rất tuyệt
diệu: “Tam Tạng thập nhị
bộ, nhượng cấp biệt nhân ngộ” (Tam Tạng
mười hai bộ loại, nhường cho người
khác ngộ). Ta không làm, nhường cho người khác làm.
“Bát vạn tứ thiên môn, diệc
nhượng cấp biệt nhân hành” (tám vạn bốn
ngàn pháp môn cũng dành cho người khác hành), chính chúng ta chỉ
đi theo một con đường. Trong một đời
này, chỉ theo một con đường, một
phương hướng, một mục tiêu, chết sạch
so đo, khăng khăng chấp trì danh hiệu, cầu
sanh Tịnh Độ; đấy là đúng, sẽ thành
công. Cần gì phải chuốc lấy lắm nỗi phiền
phức như thế? Khiến cho cái tâm được
định, tự tư, tự lợi, tiếng tăm, lợi
dưỡng, ngũ dục, lục trần, tham, sân, si, mạn
thảy đều buông xuống. Phải biết những
thứ ấy chướng đạo; không chỉ chướng
ngại quý vị chứng quả, mà còn chướng ngại
quý vị khai ngộ, cũng như chướng ngại
quý vị vãng sanh. Không buông những thứ ấy xuống,
quý vị sẽ bị thiệt thòi to lớn. Chúng ta học
Phật, nếu muốn thành tựu trong một đời
này, quyết định phải biết điều này. Phải
học theo Văn Thù, học theo Phổ Hiền, quý vị thấy
những vị Bồ Tát này: Văn Thù Bồ Tát là thầy
của bảy vị Phật, học trò đều thành Phật
cả rồi. Học trò của Địa Tạng Bồ
Tát lão nhân gia thành Phật chẳng thể đếm xiết.
Trong pháp hội tại Đao Lợi thiên cung, chúng ta thấy:
Chư Phật đến từ mười phương đều
là học trò của Ngài. Điều này đã tạo lòng tin
cho chúng ta.
“Hựu
như bổn kinh vân” (lại như kinh này nói), tức
là trong phẩm cuối cùng, trong đoạn kinh văn cuối
cùng của kinh Vô Lượng Thọ đã chép: “Phật cáo Di Lặc, ư thử
thế giới” (đức Phật
bảo ngài Di Lặc: Trong thế giới này), “thế giới này” là thế
giới Sa Bà, chẳng phải là địa cầu, mà là thế
giới Sa Bà, “hữu thất
bách nhị thập ức Bồ Tát, dĩ tằng cúng
dường vô số chư Phật, thực chúng đức
bổn, đương sanh bỉ quốc” (có bảy
trăm hai mươi ức Bồ Tát đã từng cúng
dường vô số chư Phật, gieo các cội đức,
sẽ sanh về nước ấy). Đây là nói về thế
giới Sa Bà, là khu vực giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật
trong hiện tại. Hiện thời, trên địa cầu
mới có sáu mươi bảy ức, chưa đến bảy
mươi ức, [chỉ là] sáu mươi bảy ức.
Quý vị thấy [kinh chép] “bảy
trăm hai mươi ức Bồ Tát” thuộc thế
giới Sa Bà, đấy cũng là nói tới lục đạo
và mười pháp giới thuộc khu vực giáo hóa của
Thích Ca Mâu Ni Phật. Trong khu vực giáo hóa này, trong giai
đoạn pháp vận của Thích Ca Mâu Ni Phật, trong
tương lai có bảy trăm hai mươi ức người
niệm Phật vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới. Chúng ta có thuộc trong số đó hay không? Tùy thuộc
chính mình. Nếu chính mình thật sự tin tưởng, nguyện
thiết tha, sẽ thành công trong một đời này, chẳng
cần đợi đến đời sau, mà thành tựu
ngay trong một đời này. Bồ Tát cúng dường Phật
thành tựu thiện căn, chúng ta phải học theo, chớ
nên phớt lờ lời giáo huấn của đức Thế
Tôn. Các đồng học học Tịnh Độ dùng gì
để cúng dường chư Phật? Chữ “chư Phật” chỉ những
ai? Trong kinh Hoa Nghiêm, đức Thế Tôn đã bảo chúng
ta: “Hết thảy chúng sanh vốn
là Phật”. Quá khứ Phật là những người
đã thành Phật, chẳng có cách nào tính toán con số ấy;
hiện tại Phật là mười phương thế
giới chư Phật, mỗi thế giới có một vị
Phật, thế giới vô lượng vô biên vô tận vô số.
Chúng ta đọc phẩm Thế Giới Thành Tựu và phẩm
Hoa Tạng Thế Giới của kinh Hoa Nghiêm, thấy kinh
nói rất nhiều, rất rõ ràng, đó là hiện tại
Phật; còn vị lai Phật thì sao? Vị lai Phật là hết
thảy chúng sanh. Hết thảy chúng sanh trong tương
lai sẽ đều thành Phật, những loài bay, bò, ngọ
nguậy, ruồi nhặng, kiến đều có thể thành
Phật, chớ nên khinh dễ chúng! Chúng rất thông minh, có
linh tánh, người học Phật phải
xem chúng như Bồ Tát (đều tôn trọng chúng), chúng sẽ
vô cùng hợp tác với chúng ta. Trong mười mấy
năm gần đây nhất, chúng tôi có thể trò chuyện,
trao đổi với các tiểu động vật: Chúng
ta cùng chung sống, chẳng tổn hại lẫn nhau, thật
sự có thể đối xử hòa thuận với nhau, đối
đãi bình đẳng, đấy là cúng dường.
Trong cúng dường, quan trọng
nhất là cúng dường bằng cách y giáo phụng hành,
chúng ta thật sự tu tập, nêu gương cho chúng sanh,
họ thấy, họ cũng nghe, hiểu, chúng ta tu tập,
chúng sanh cũng cùng tu với chúng ta. Ngay cả những loài
tiểu động vật bay, bò, ngọ nguậy cũng
không phải là ngoại lệ, chúng đều có linh tri.
Đứng trên phương diện tâm thức của chúng
ta để nói, chúng nó cũng Thọ, Tưởng, Hành, Thức,
phải đối xử tốt đẹp với chúng.
Chúng ta gọi chúng nó là Bồ Tát, gọi chúng nó là Bồ Tát
kiến, kiến sẽ rất vui vẻ, bảo: “Con người
rất tôn trọng chúng ta, gọi chúng ta là Bồ Tát”. Chúng
nó có thể hiểu, chứ chẳng phải không hiểu.
Chúng ta làm việc ở nơi đây, chúng nó nhiễu loạn
chúng ta, chúng ta mời chúng nó rời khỏi, đừng trở
ngại chúng ta làm việc, chúng nó bèn bỏ đi, rất
nghe lời. Kiến đều bỏ đi hết, còn có
hai ba con. Cớ sao hai ba con bò tới bò lui trên bàn Phật, vì
sao chúng không đi? Ban đêm có một pháp sư nhỏ tuổi
nằm mộng, được kiến nói cho biết: Chúng
nó đang tuần tra, xem còn có con nào chẳng đi. Kiến
nói chúng nó có nhiệm vụ, hình như bốn con kiến tuần
tra. Vì thế, chúng ta chớ nên trách lầm chúng. Về sau,
chúng tôi đều biết, kiến thảy đều
đi hết, còn có mấy con [ở lại để] tuần tra. Như vậy là các tiểu
động vật có tánh thông linh. Không chỉ động vật,
mà thực vật cũng chẳng phải là ngoại lệ.
Cây cối, hoa, cỏ, chúng ta trồng nhiều rau trong
vườn, chúng đều thông suốt, thông hiểu
tình cảm của con người.
Do vậy, phạm vi của bảy
trăm hai mươi ức Bồ Tát rất rộng,
đó là những kẻ có duyên với Phật, thiện
căn sâu dầy. Thiện căn sâu dầy ấy do đâu
mà có? Do rộng tu cúng dường. Phổ Hiền Bồ
Tát chỉ dạy chúng ta: “Lễ
kính chư Phật, khen ngợi Như Lai, rộng tu cúng
dường, sám trừ nghiệp chướng”, quý vị
thực hiện tốt đẹp bốn khoa này, nghiêm túc
thực hiện, sẽ thành tựu thiện căn, “thực chúng đức bổn”
(gieo trồng các cội đức). Lễ tiết rất
trọng yếu, không thể phớt lờ. Lễ phép với
người khác, người ta sẽ vui vẻ. Người
khác lễ phép đối với ta, ta cũng rất vui vẻ.
Bởi lẽ, con người có cùng một tâm này, tâm cùng một
Lý này. Đầu tiên là “lễ
kính chư Phật”, từ nội tâm phát sanh tâm cung kính,
quan trọng nhất là [cung kính] đối với ai? Đối
với vị lai Phật, tức là đối với hết
thảy chúng sanh, phải có tâm cung kính, chớ nên coi rẻ,
quý vị khinh mạn là trật rồi! Chẳng tôn trọng
người khác là chuyện nhỏ, tổn hại đức
hạnh của chính mình [là chuyện lớn], Tánh Đức
của chính mình chưa thể hiện tiền, sanh ra chướng
ngại. Đó là ngạo mạn, cuồng vọng, tự
đại, gây chướng ngại cho Tánh Đức và thiện
căn của chính mình. Do vậy, đầu tiên, đức
Phật phải dạy chúng ta chuyện này. Nho gia cũng giống
như vậy. Quý vị đọc Lễ Ký, vừa mở
sách ra, mở đầu là: “Khúc
Lễ[10] viết: Vô bất
kính” (Khúc Lễ chép: “Không gì chẳng kính”), có cùng một
ý nghĩa với “lễ kính
chư Phật”. Kinh Mân Côi[11] của đạo
Thiên Chúa là khóa tụng sớm tối của họ, tôi
đã từng giảng [kinh này], đĩa CD/DVD [ghi lời
giảng] của tôi được lưu thông trong đạo
Thiên Chúa. Đoạn thứ nhất [của kinh ấy] nói
về sự khiêm tốn, nhún nhường, Thánh Mẫu Maria
khiêm nhường. Mẹ chúa Jesus đối với hết
thảy mọi người đều khiêm hạ, nhún
nhường, cung kính, Đức Bà đã nêu gương tốt.
Tấm gương của Đức Bà chính là “lễ kính chư Phật, khen ngợi
Như Lai” như trong Phật pháp đã nói, chúng ta phải
học theo Ngài. Cổ thánh tiên hiền của Trung Quốc
dạy chúng ta hãy “ẩn ác,
dương thiện” (ẩn giấu điều ác,
đề cao điều lành). Người khác có chuyện
gì tốt đẹp chúng ta phải tán dương, phải
ca ngợi. Người khác phạm lỗi lầm gì, trọn
chẳng nói tới, quyết định chớ nên ghim trong
lòng; đó gọi là “tu hành, học Phật”. Vì sao? Chúng ta học
Phật rốt cuộc là học gì? Tịnh Độ tu gì
vậy? Tựa đề của kinh đã nêu ra cương
lãnh tu học cho chúng ta: Tu tâm thanh tịnh. Trong tựa đề
của kinh có “thanh tịnh bình
đẳng giác”, đấy là tổng cương lãnh tu
học của Tịnh Tông. Chúng ta thường muốn ghim
khuyết điểm của người khác trong lòng, biến
cái tâm của chính mình thành thùng rác cho người khác, làm sao
quý vị có thể đạt được thanh tịnh?
Nếu quý vị đạt được tâm thanh tịnh
thì tâm thanh tịnh là Sự nhất tâm bất loạn, sanh về
Tây Phương Cực Lạc thế giới chẳng thuộc
cõi Đồng Cư, mà sanh vào cõi Phương Tiện Hữu
Dư, phẩm vị được nâng cao với một
mức độ to lớn. Nếu quý vị hiểu rõ đạo
lý này, thông hiểu chân tướng sự thật này, có còn
ghim những sai quấy của người khác trong tâm mình nữa
chăng? [Ghi nhớ lỗi lầm của người khác
sẽ] bị thiệt thòi to lớn, tạo thành lỗi lầm
to lớn. Thường nghĩ tới khuyết điểm
của người khác, dẫu quý vị có thể vãng sanh,
chỉ sanh vào cõi Phàm Thánh Đồng Cư, phẩm vị chẳng
cao!
Vì thế, các Tịnh Tông đồng
học chúng ta hiểu rõ rồi, quyết định chẳng
làm chuyện ngốc nghếch. Ai nấy đều biết
ẩn ác dương thiện, kẻ làm ác có lương tri
sẽ nghĩ: “Ta làm ác, người khác đều tha thứ,
cũng không đả động tới ta! Ta làm một tí
chuyện tốt, họ đều tán dương”, từ
từ đánh thức lương tâm của kẻ ấy, hắn
bèn sửa đổi, quý vị đã giúp cho một người
“quay đầu là bờ”. Chúng ta hãy cẩn thận quan sát dụng
tâm của chư Phật, Bồ Tát, sẽ dần dần
hiểu rõ, muốn học tập Phật. Thật ra, đối
với những kẻ làm nhiều chuyện lầm lỗi,
chúng ta gặp họ, dùng tâm thái gì để đối đãi
họ? Nếu dùng tâm thái của Phật, cảnh giới của
chúng ta sẽ được nâng cao. Bởi lẽ, những
người ấy làm lành hay làm ác cũng đều là thiện
tri thức của chúng ta, đều có thể giúp cho chúng
ta tiến bộ hơn. Nho gia nói: “Tam nhân hành, tất hữu ngã sư” (Ba người
cùng đi, ắt có người là thầy ta). Ba người
ấy là ai vậy? Chính mình là một, còn một người
lành, một kẻ ác, hai người ấy đều là thầy
của ta. Ta trông thấy người lành, nghĩ ngợi:
Người ta có thiện hạnh, ta có hay không? Nếu ta
không có, hãy học tập theo người ấy; nếu
đã có thì phải gìn giữ. Kẻ làm ác cũng là thầy
của ta, ta trông thấy, hãy suy nghĩ ta có phạm lỗi
lầm ấy hay chăng. Hễ có, bèn sửa đổi; nếu
không, hãy càng thêm gắng sức. Kẻ làm ác còn có ích cho chúng
ta hơn người làm lành, vì sao? Trong khi tu sám hối,
chư vị sẽ thấy: Ta tìm không được khuyết
điểm của chính mình, dường như chính mình chẳng
có khuyết điểm nào, thấy người khác toàn là
khuyết điểm, chẳng thấy mình có một khuyết
điểm nào hết!
Quý vị có thể phát hiện khuyết
điểm của chính mình như thế nào? Thấy khuyết
điểm của người khác, hãy hồi quang phản
chiếu xem ta có [khuyết điểm ấy] hay không, sẽ
tìm ra. Đó là đại ân nhân, chân thiện tri thức của
chính mình. Người ấy giúp quý vị sửa đổi,
quý vị có thể nào chẳng cảm ơn người ấy
hay chăng? Quý vị còn nói những điều sai quấy
của kẻ ấy, đó là vong ân phụ nghĩa! Hãy cảm
kích, tri ân, báo ân người ấy, thường hồi
hướng công đức tu học của chính mình cho
người ấy. Nếu không có người ấy, làm
sao ta có thể tiến cao hơn? Nếu không do người
ấy, làm sao biết chính mình còn có khuyết điểm? Do
vậy, trong Đàn Kinh, Lục Tổ đã nói rất hay: “Nếu người thật sự
tu đạo, chẳng thấy lỗi người khác”.
Không có lỗi! Giống như diễn tuồng, người
ấy đóng vai phản diện, nhằm nhắc nhở
ta, đâu phải là người ấy thật sự có
khuyết điểm! Chúng ta đối đãi với
người ấy như Bồ Tát, người ấy không
có khuyết điểm. Hành vi của người ấy
đã giúp đỡ ta, khiến cho ta phát hiện lỗi lầm
của chính mình. Chúng ta dùng tâm thái này, đó là Bồ Tát tâm,
là Bồ Đề tâm. Tổ sư đại đức bảo
kẻ quên mất Bồ Đề tâm, dẫu tu hết thảy
thiện pháp vẫn gọi là ma, chẳng phải là Phật.
Chắc chắn Phật chẳng thể rời khỏi Bồ
Đề tâm, chúng ta phải học tập điều này,
thời thời khắc khắc đừng quên gieo trồng
các cội đức.
“Triệt
hạ, tắc Quán Kinh trung, Ngũ Nghịch, Thập Ác, lâm
chung đắc ngộ thiện hữu giáo dĩ niệm Phật,
thập niệm thành công, diệc sanh bỉ quốc” (Thấu
dưới là như trong Quán Kinh, kẻ Ngũ Nghịch, Thập
Ác, lúc lâm chung gặp được bạn lành dạy niệm
Phật, mười niệm thành công, cũng sanh về cõi ấy).
Chuyện này là thật! Trong Tịnh Độ Thánh Hiền
Lục, Vãng Sanh Truyện đã ghi chép [những sự tích của]
cổ nhân. Nếu chúng ta hơi lưu ý, [sẽ thấy] trong
hiện tại cũng có! Chính chúng tôi mắt thấy, tai
nghe. Trước kia, tôi ở Hoa Phủ của nước
Mỹ, tức Washington DC, có một Hoa kiều, tức là
người Trung Quốc, đó là ông Châu Quảng Đại.
Người này chẳng phải là Ngũ Nghịch, Thập
Ác, mà là người tốt, thiện nhân, nhưng cả
đời chẳng tin tôn giáo, tôn giáo nào cũng không tin. Người
này tâm địa thiện lương, rất tốt bụng.
Ông ta bị ung thư, khi sắp mất, nhà thương
đã ngừng trị liệu, bảo thân nhân đưa về
nhà. Khi ấy, người nhà đi khắp nơi cầu
thần, bái Phật, xem có kỳ tích nào xuất hiện hay
không. Đó gọi là “gặp chuyện bèn ôm chân Phật”, tìm
được hội Phật giáo của chúng tôi. Khi ấy,
ở Hoa Phủ có hội Phật giáo mang tên là Hoa Phủ Phật Giáo Hội, thành lập chưa
được bao lâu, do mấy đồng học Tịnh
Độ thành lập một hội như vậy, mời
tôi làm hội trưởng. Tôi quen biết với lão cư
sĩ Hoàng Niệm Tổ ở nơi ấy. Có mấy
đồng tu đến trợ niệm cho ông ta, nhìn bộ
dạng của ông ta đúng là bó tay, bèn khuyên nhủ,
hướng dẫn, nói đời người khổ sở,
cần gì phải lưu luyến, hãy buông xuống vạn
duyên, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ,
giảng giải và giới thiệu thế giới Cực
Lạc cho ông ta nghe. Người này có thiện căn, thiện
căn ấy chính là thiện căn trong đời quá khứ,
nhưng trong một đời này, ông ta chưa gặp thiện
duyên, đến lúc ấy mới gặp gỡ. Ông ta nghe
xong bèn vui vẻ, tiếp nhận, bảo người nhà:
Đừng đến khắp nơi tìm cách trị liệu
cho ông ta nữa, không cần! Cả nhà hãy giúp ông ta niệm
Phật cầu vãng sanh. Căn bệnh của ông ta đau
đớn lắm, nhưng ý niệm vừa chuyển, chẳng
còn đau đớn nữa, chẳng còn đau khổ nữa,
vui vẻ cùng niệm Phật với mọi người, ba
ngày bèn ra đi. Đúng như kinh đã dạy: “Nhược nhất nhật,
nhược nhị nhật, nhược tam nhật” (Hoặc
một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày). Chẳng sai! Niệm
ba ngày ba đêm ông ta bèn ra đi. Khi mất có tướng
lành, toàn thân mềm mại. Khi hỏa táng có xá-lợi. Đây
là một người chẳng tin tưởng tôn giáo, lâm
chung gặp thiện hữu bèn thành công. Dẫu đã tạo
tội Ngũ Nghịch, Thập Ác, có thể cứu
được hay không? Có thể cứu được!
Trong phần sau của bốn mươi tám nguyện, có một
câu: Nếu kẻ ấy chẳng tin, sẽ không thể cứu!
Kẻ tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác, khi lâm chung có tín
tâm và nguyện tâm kiên định, vẫn có thể cứu được!
Như Ngẫu Ích đại sư đã nói: “Điều kiện
quan trọng nhất để có thể vãng sanh Tây
Phương Cực Lạc thế giới hay không là do có
tín nguyện hay không. Thật sự có tín nguyện, chắc
chắn được vãng sanh, phẩm vị cao hay
thấp là do công phu niệm Phật của quý vị sâu hay
cạn”. Lời ấy rất có lý! Niệm đến mức
tâm thanh tịnh, nếu chúng ta dùng tựa đề kinh
để nói thì niệm đến mức tâm thanh tịnh
bèn sanh vào cõi Phương Tiện Hữu Dư, niệm
đến bình đẳng giác sẽ sanh vào cõi Thật Báo
Trang Nghiêm. “Bình đẳng giác” là Lý nhất tâm bất loạn,
thanh tịnh tâm là Sự nhất tâm bất loạn, chúng ta phải
nỗ lực hướng đến mục tiêu này. Bình
đẳng là gì? Chẳng có tâm phân biệt, thật sự
giác ngộ. Tâm phân biệt đã chẳng có, lại nâng [cảnh
giới] lên cao hơn thành “nhập pháp môn Bất Nhị”, Tánh
Tướng bất nhị, Sự Lý bất nhị, sanh Phật
bất nhị (chúng sanh và Phật ), người ấy sẽ
sanh vào cõi Thật Báo, đến thế giới Cực Lạc,
hoa nở thấy Phật. Có thể thấy pháp môn này thù thắng
khôn sánh.
Tiếp đó, sách viết: “Khả kiến bổn kinh nãi quảng
thâu vạn loại, phổ bị tam căn chi A Già Đà
dược, năng dũ vạn bệnh” (Có thể thấy
kinh này rộng thâu muôn loài, là thuốc A Già Đà thích hợp
khắp ba căn có thể trị lành muôn bệnh). A Già
Đà (Agada) là tiếng Ấn Độ, giống như
người Trung Quốc nói tới “vạn ứng đan”; thuốc này bệnh gì
cũng đều trị được, chắc chắn
có lợi, chứ không có hại gì. Đây là nói bộ kinh
này căn cơ nào cũng đều phù hợp, bậc thượng
thượng căn như Văn Thù, Phổ Hiền, hạ
hạ căn là kẻ tạo Ngũ Nghịch, Thập Ác,
chỉ cần quý vị có thể tin tưởng, chịu
phát nguyện, chắc chắn được vãng sanh, chẳng
thể nghĩ bàn! Khi lâm chung có thể tin, có thể nguyện,
tôi nghĩ đấy cũng chẳng phải là ngẫu
nhiên, mà do người ấy có túc thế nhân duyên. Người
ấy có đời quá khứ, tuy trong một đời
này không có duyên gặp gỡ, nhưng trong đời quá khứ,
chắc chắn đã từng học Phật, chắc chắn
đã tu pháp môn này. Do vậy, khi lâm chung gặp thiện hữu
nhắc nhở, chủng tử trong A Lại Da của người
ấy bèn lập tức khởi hiện hành, chẳng phải
là ngẫu nhiên! Vì thế, nay chúng ta hãy giúp những kẻ không
tin gieo chủng tử. Giúp kẻ không tin gieo chủng tử
bằng cách nào? Trong hết thảy thời, hết thảy
chỗ, tay cầm tràng hạt (xâu chuỗi), miệng niệm
A Di Đà Phật, đó là gieo chủng tử cho chúng sanh. Trên
đường đi, quý vị vừa đi vừa niệm
Phật, người bên cạnh hữu ý hay vô tình nghe, thấy,
đã gieo chủng tử vào A Lại Da Thức, kết
duyên với Tịnh Độ Tông. Chủng tử ấy gọi
là “chủng tử kim cang”, vĩnh viễn bất hoại. Trong
đời kế tiếp hoặc đời sau, gặp
duyên, chủng tử ấy sẽ khởi hiện hành, khởi
tác dụng. Do vậy nói người xuất gia dẫu bất
hảo, nói trắng ra là người xuất gia ấy phá
giới, công đức vẫn to hơn quý vị, vì sao? Người
ấy mặc y phục [biểu thị cho] hình tượng
[Phật giáo], vừa đi ra ngoài, người ta trông thấy,
đã gieo chủng tử về ấn tượng nơi
Phật, quý vị chẳng có năng lực ấy! Tuyệt
diệu lắm! Quý vị nói xem: Trong một đời này,
người ấy đã gieo thiện căn cho bao nhiêu
người? Hãy nên tôn kính [người xuất gia, dẫu
người ấy có phá giới đi nữa] là do đạo
lý này! Xưa kia, tôi dạy học trong nhà trường, dạy
tại đại học mấy năm, dạy khoảng năm
năm, tôi bảo các đồng học, khi ấy, các đồng
học trong nhà trường dường như cảm thấy
học Phật sẽ bị kẻ khác chê là mê tín, khó chịu
lắm, nên lén lút học Phật. Tôi bảo họ: “Các vị
phải chánh đại quang minh mà học, phải phổ
độ chúng sanh. Tay đeo xâu chuỗi, đừng sợ
kẻ khác cười. Dẫu người ta có cười
nhạo quý vị: ‘Anh xem gã bạn học đó mê tín quá chừng!’
Tuy nói các vị mê tín, chủng tử Phật của người
ấy đã được gieo xuống rồi, đó là
chuyện tốt, đâu phải chuyện xấu”. Trên bìa
sách học dùng trong nhà trường đều có đề
tên, tôi nói: Quý vị đừng viết tên họ của
mình, mà hãy ghi A Di Đà Phật, người ta trông thấy
cuốn sách ấy bèn niệm A Di Đà Phật. Quý vị
thấy đó, chẳng phải là lại độ
được một người hay chăng? Rất nhiều
đồng học thật sự sử dụng
phương pháp này của tôi; về sau, dần dần trở
thành một phong cách. Vì thế, phương tiện thiện
xảo rộng độ hữu tình. Nếu chúng ta hiểu
đại đạo lý, đại nhân duyên ở đây, sẽ
đối với người xuất gia, đối với
người niệm Phật khởi tâm cung kính, hình tượng
họ đã biểu lộ cũng nhằm biểu thị
pháp, công đức thù thắng khôn sánh!
Cuối cùng, “cố bổn kinh vân: Trị tư kinh giả, tùy ý sở
nguyện, giai khả đắc độ” (vì thế,
kinh này nói: “Người gặp được kinh này, tùy
theo sở nguyện đều có thể đắc độ”).
Cụ Hoàng dùng câu nói này để tổng kết đoạn
này. Gặp bộ kinh này, “trị”
(值) là gặp. Gặp
gỡ bộ kinh này, tùy theo ý nguyện của quý vị, đều
có thể đắc độ. Ý nghĩa của “tùy ý” vô cùng rộng, đấy
là như trong Phật môn đã nói: “Phật thị môn trung, hữu cầu tất ứng”
(trong nhà Phật, có cầu ắt ứng), “tùy ý sở nguyện” là có cầu ắt ứng.
Quý vị cầu gì được nấy! Cầu thế
giới Cực Lạc, quý vị được thế giới
Cực Lạc. Cầu thấy A Di Đà Phật, quý vị
sẽ có thể thấy A Di Đà Phật. Cầu thành Phật,
được thành Phật. Cầu thành Bồ Tát, quý vị
thành Bồ Tát. Tiếng tăm, lợi dưỡng trong thế
gian này cũng giống như thế, nhưng đó là những
chuyện lông gà vỏ tỏi nhỏ nhặt, quý vị cầu
điều gì đều có thể cầu được, chẳng
hề có chuyện cầu không được! Nhưng quý vị
nhất định phải giác ngộ: Chẳng thoát khỏi
lục đạo, sẽ vĩnh viễn chẳng thể lìa
khổ, lục đạo khổ lắm! Nhân thiên là thiện
đạo, thiện đạo mà còn khổ dường ấy,
huống chi ác đạo! Quý vị phải chú tâm quan sát, hiện
thời súc sanh có khổ hay không? Đặc biệt là gia
súc. Hiện thời, nếu quý vị đầu thai trong
đường súc sanh, biến thành một con lợn hay một
con gà, hoặc một con vịt, quý vị thấy hiện
thời lợn, gà, vịt, thậm chí bò, loại bò chuyên
nuôi để lấy thịt, nhìn vào tình trạng sống của
chúng, từ lúc đẻ ra cho đến khi xuất chuồng,
được nuôi lớn trong chuồng, một chuồng
nhốt quá nhiều, xoay mình cũng chẳng thể xoay được!
Cuộc sống trước khi bị giết của chúng
là như thế này: Suốt đời bị nhốt chặt,
đến khi bị giết, quý vị nói thử xem tâm tình
của chúng ra sao? Chúng nó có oán hận hay chăng? Con người
có cùng cái tâm này, tâm có cùng Lý này. Người và súc sanh chẳng
khác, chúng nó oán hận, bất bình. Oán hận nên thịt của
chúng có chất độc, mang rất nhiều nguồn bệnh.
Đó là lý do vì sao hiện thời ăn thịt bị bệnh
nhiều như vậy. Cổ nhân Trung Quốc đã nói: “Bệnh tùng khẩu nhập, họa
tùng khẩu xuất” (Bệnh từ miệng vào, họa
từ miệng ra), đó là chân lý. Hiện thời, không chỉ
thịt chẳng thể ăn, đó là thứ độc
địa, mà ngay cả đồ chay trong hiện tại cũng
biến thành chất độc! Rau dưa có phân hóa học
và thuốc sát trùng!
Người
thế gian khổ quá, đừng nên lưu luyến thế
gian nữa, vãng sanh sớm một ngày là sớm được
giải thoát một ngày, lưu luyến thế gian là sai lầm!
Chúng ta niệm Phật, Phật còn chưa đến tiếp
dẫn chúng ta, chứng tỏ nghiệp báo của chúng ta chưa
tiêu hết, nghiệp chướng chưa tiêu trừ. Để
tiêu trừ nghiệp chướng, phải cậy vào ai
để tiêu trừ nghiệp chướng? Dựa vào
chính mình, chẳng có người nào khác giúp đỡ
được! Tiêu bằng cách nào? Ta có thọ mạng, trong
mạng ta còn có phước báo, chẳng cần nữa, hãy
bỏ sạch, chướng ngại sẽ chẳng còn nữa,
Phật sẽ đến tiếp dẫn quý vị. Nếu
quý vị phát tâm Đại Thừa, hết thảy đều
từ bỏ, hiện thời vẫn còn thân thể, hãy lợi
dụng cái thân này để giúp đỡ các chúng sanh khổ
nạn nhiều hơn, khuyên dạy họ, giúp đỡ họ,
dẫn theo những người ấy vãng sanh, đó là chuyện
tốt, chẳng có vị Phật, Bồ Tát nào chẳng tán
thành. Sanh tử tự tại, muốn đi lúc nào bèn đi
lúc đó, chẳng vướng mắc tí ti nào, càng tốt
đẹp hơn! Chúng ta thấy con người trong thế
gian đáng thương quá, tai nạn nhiều như thế
đó! Chúng ta biết có tai nạn, do đâu mà biết? Từ
kinh điển nhà Phật, trong kinh điển, đức
Phật thường nói: “Hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng”, đó là chân lý.
Người trên thế giới suy tưởng gì? Phim “2012”
đã được chiếu trên toàn cầu. Sau khi phim ấy
được phát hành, ai nấy đều nghĩ đến
tai nạn; dẫu không có tai nạn, tai nạn vẫn xảy
tới, do tâm tưởng mà! Vì vậy, tôi xem bộ phim ấy
xong, nói: “Đó là ý trời, có hai tác dụng: Một là dạy
con người hãy đề cao cảnh giác, đoạn ác
tu thiện, đừng tạo tội nữa. Đó là giúp
chính mình, thành tựu chính mình. Mặt khác, sanh lòng sợ hãi,
hằng ngày nghĩ đến tai nạn, không có tai nạn
mà do ta suy niệm nên tai nạn sẽ xảy tới, hết
thảy các pháp sanh từ tâm tưởng mà!” Tôi xem bộ
phim ấy xong, đã bảo rất nhiều đồng học:
“Đó là ý trời”. Đại khái, con người hiện
thời tạo tội nghiệp nhưng không có cách nào trị
được, pháp luật cũng chẳng trị
được, quốc gia cũng chẳng trị
được! Tổng thống, hoàng đế cũng chẳng
trị được, làm sao đây? Chỉ có ông trời ra
tay. “Ông trời ra tay trừng trị” là “tai họa thiên
nhiên” như chúng ta thường nói trong hiện thời, quả
thật rất đáng sợ!
Vậy thì phải hỏi: Có thể
hóa giải tai nạn hay không? Nói theo Phật pháp, câu trả
lời là khẳng định, chỉ cần hồi tâm
hướng thiện. Đức Phật dạy chúng ta hai
câu, đó là câu Khẩu Đầu Thiền trong Phật môn: “Cần tu Giới,
Định, Huệ, tức diệt tham, sân, si” (siêng tu
Giới, Định, Huệ, dứt diệt tham, sân,
si), tai nạn sẽ hóa giải. Nếu quý vị thật sự
làm, sẽ thật sự hữu hiệu! Sẽ thấy hiệu
quả ở chỗ nào? Từ chính mình! Chính mình có tai nạn,
có bệnh khổ, nếu quý vị tuân theo phương pháp
này để tu, bệnh khổ được lành, nghiệp
chướng cá nhân sẽ tiêu! Nghiệp chướng đã
tiêu rồi, thân thể khôi phục sức khỏe. Đó gọi
là “tướng do tâm sanh, cảnh
tùy tâm chuyển”, trong kinh đức Phật thường
nói như vậy. Tướng mạo của quý vị thuận
theo ý niệm mà chuyển biến, sức khỏe cũng giống
như thế. Tâm địa của quý vị là thiện niệm,
sẽ khỏe mạnh, trường thọ. Nếu trong
tâm là tịnh niệm, càng khỏe mạnh, trường thọ.
Tâm lẫn hạnh đều thiện, hoàn cảnh cư trụ
của ta sẽ chẳng có tai nạn. Dẫu ở nơi ấy
người tạo tác ác nghiệp rất nhiều, nhưng
có một ít người đang tu thiện, tuy nơi ấy
có tai nạn thì cũng nhẹ nhàng, chẳng nghiêm trọng.
Cổ đức từng nói: “Giữa
một trăm người, có một người tu thiện,
chín mươi chín người kia đều hưởng
lây”, một phần trăm đấy nhé! Lời này là
thật đấy, chẳng giả đâu! Chúng ta lại
xem tiếp đoạn kế: “Thượng
minh bổn kinh, quảng ứng quần cơ, nhi kỳ ân
đức vưu thâm ư ngã sài phàm phu” (Trên đây
đã nói rõ kinh này thích ứng rộng rãi các căn cơ, nhất
là đối với lũ phàm phu chúng ta, càng có ân đức
sâu đậm), nói theo hiện thời, “sài” (儕) là “đẳng” (等: ngang hàng), [“ngã sài”] là những kẻ cùng
hàng với chúng ta. Trong phần trước đã nói về
sự ứng cơ (thích ứng với các căn cơ),
trong đoạn này, luận về công đức. “Đương kim Mạt Pháp,
chúng sanh phước huệ thiển bạc, cấu chướng
thâm trọng, duy lại thử phương tiện pháp môn.
Đản bằng tín nguyện trì danh, tiện năng công
siêu lũy kiếp, vãng sanh Cực Lạc, kính đăng Bất
Thoái” (Nay đang thời Mạt Pháp, chúng sanh phước
huệ cạn mỏng, cấu chướng sâu nặng, chỉ
cậy vào pháp môn phương tiện này, chỉ nhờ vào
tín nguyện trì danh, công liền có thể vượt trỗi
bao kiếp, vãng sanh Cực Lạc, nhanh chóng chứng lên Bất
Thoái). Chúng ta đọc đến chỗ này, tiểu đoạn
này nói đến chúng ta trong hiện tại. Cụ Hoàng Niệm
Tổ là người đương đại, đã vãng
sanh chưa lâu. Khi trước, mỗi năm, tối thiểu
tôi sang Bắc Kinh một hai lần, chẳng vì chuyện gì
khác, mà chỉ nhằm đến gặp cụ. Sau khi cụ
đã mất, tôi còn đến thăm một lần, gặp
con gái và học trò cụ. Đoạn văn này nói về chúng
ta trong hiện thời, người hiện thời thật
sự phước mỏng, huệ cạn, chẳng có trí
huệ, mà cũng không có phước báo; nói cách khác, chúng ta phiền
não tập khí sâu nặng! “Cấu”
(垢) là nhiễm ô, “chướng” (障) là nghiệp
chướng, chúng ta tạo tác nghiệp chướng bất
thiện. Vì sao sanh ra chuyện này? Đối với tiêu chuẩn
thiện ác, chúng ta không biết; nói chung cứ tưởng
chính mình luôn làm đúng, không biết chính mình đã lầm lỗi,
làm ác. Vì thế, chúng ta quan sát cẩn thận sẽ thấu
hiểu, đừng xét nét người khác, hãy xét nét chính
mình!
Thuở trước, khi còn trẻ,
tôi giảng kinh, thường nhắc tới khóa tụng buổi
sáng. Mục đích của khóa tụng buổi sáng là gì? Nhắc
nhở chính mình, ngày hôm nay ta đừng quên mất giáo huấn
của đức Phật, hãy thường đề cao cảnh
giác, y giáo phụng hành, đó là quý vị thật sự tụng
niệm khóa sáng. Chúng tôi đã từng biên tập lại
nghi thức tụng niệm của cổ nhân. Nghi thức
do cổ nhân biên soạn có quá nhiều chú ngữ, hiện
thời [người tụng] chẳng hiểu rõ ý nghĩa
của chú ngữ, cho nên không đạt được hiệu
quả. Do vậy, chúng tôi tuyển chọn, ấn định
kinh văn bản mới dành cho các đồng học Tịnh
Tông chúng ta. Các đồng học Tịnh Tông có Triêu Mộ
Khóa Tụng Bản (nghi thức tụng niệm sớm tối)
do tôi biên tập. Kinh văn để niệm cho buổi
sáng là phần bốn mươi tám nguyện trong kinh Vô
Lượng Thọ. Trong khóa sáng, hãy suy nghĩ: A Di Đà Phật
đã phát bốn mươi tám nguyện, ta có phát hay không?
Đối chiếu với chính mình, mong muốn biến bốn
mươi tám nguyện ấy thành bổn nguyện của
chính mình, tâm nguyện của chúng ta và A Di Đà Phật
tương đồng. Với khóa tối, chúng tôi chọn
phần kinh văn từ phẩm ba mươi hai đến
phẩm ba mươi bảy, đoạn kinh văn ấy
giảng điều gì? Dạy chúng ta trì giới, phản tỉnh,
sửa đổi, sám hối, dùng phần này để làm
khóa tối. Trong khóa tối, phải thật sự phản
tỉnh, kiểm điểm, sửa lỗi, khóa tụng
đối với chúng ta mới có lợi ích. Luôn chọn lựa
kinh Vô Lượng Thọ là pháp phương tiện. Chuyên
tu, khóa sáng niệm kinh Vô Lượng Thọ, khóa tối cũng
niệm kinh Vô Lượng Thọ, chuyên tu mà! Bọn chúng ta
không có nhiều thời gian như thế, bèn trích lục những
phần kinh văn trọng yếu trong kinh Vô Lượng
Thọ để sớm tối nhắc nhở chính mình, mục
đích không gì chẳng nhằm tiêu nghiệp chướng, xa
lìa phiền não, tập khí, chúng ta học Phật mới có
thể công phu đắc lực. Nếu quý vị chẳng
nhớ kinh văn, chưa thể lý giải, quý vị tu tập
bằng cách nào?
Hóa giải tai nạn hiện tiền.
Hiện thời tai nạn rất nặng, trên khắp thế
giới có ai chẳng tạo nghiệp? Tạo nghiệp gì
vậy? Vừa mở kinh Thập Thiện Nghiệp Đạo
ra, quý vị sẽ biết ngay: Hoàn toàn trái phạm, đúng
là Ngũ Nghịch, Thập Ác. Thập Ác là gì? Sát sanh, trộm
cắp, tà dâm, nói dối, nói đôi chiều, ác khẩu, nói
thêu dệt, tham lam, sân khuể, ngu si. Quý vị nói thử
xem: Trong thế gian hiện thời, ai chẳng tạo?
[Ngay cả] trẻ nhỏ cũng tạo! Trẻ nhỏ tạo
bằng cách nào? Trẻ nhỏ học từ
TV, mỗi ngày xem TV, TV sẽ dạy chúng nó. Đi học, tại
Trung Quốc tôi không biết, chứ ở ngoại quốc,
lớp Một Tiểu Học đã cho dùng computer. Thông tin từ
computer rất nhiều, điều gì chúng nó cũng đều
học. Xong luôn, tạo Thập Ác! Tạo Thập Ác sẽ
có hành vi Ngũ Nghịch xuất hiện, giết cha, giết
mẹ, giết thầy, giết A La Hán cũng giống
như giết thầy! Đây là xã hội hiện tiền của
chúng ta, càng nghĩ, càng đáng sợ, càng nhìn, càng đáng sợ.
Trong đời chúng ta đây, còn có thể duy trì tình trạng
trước mắt, chứ hai mươi năm sau sẽ
làm như thế nào đây? Ai có năng lực duy trì trật
tự xã hội? Chẳng có ai hết! Tổ tiên chúng ta thường
nói, đến khi con người trị không được,
cha mẹ không quản được con cái, pháp luật không
quản được dân, thượng thiên sẽ ra tay.
Khi thượng thiên can thiệp sẽ là tai nạn, cả
đống tai nạn thảy đều xuất hiện. Vì
vậy, cứu vớt thế giới, nói thật sự là
kinh Vô Lượng Thọ, trong Đại Thừa Phật
pháp, kinh này hữu hiệu nhất! Pháp môn này đúng là pháp
môn phương tiện, “đản
bằng tín nguyện trì danh” (chỉ cậy vào tín nguyện
trì danh), ba điều kiện này, thật sự tin, mảy
may hoài nghi cũng chẳng có, thật sự nguyện vãng
sanh, trì danh là niệm Phật, thật sự làm, trong mười
hai thời, một câu A Di Đà Phật chẳng gián đoạn.
Vài ngày trước, cư sĩ
Lưu Tố Vân từ miền Đông Bắc đến chỗ
này báo cáo, nói suốt mười mấy giờ. Người
này là như thế nào? Là người thật sự làm! Lúc
năm mươi chín tuổi, bà ta bị bệnh nặng,
người phương Bắc đều biết [căn
bệnh nghiêm trọng này], hồng ban lang sang (Lupus Erythematosus)[12]. Bị bệnh này
thì hầu như chẳng thể nào trị lành, y học Trung
Quốc lẫn Tây Phương đều chẳng có cách
nào chữa trị, bà ta có nhiều bạn bè mắc bệnh
này, họ đều mất cả rồi. Bà ta bị bệnh
này, tín nguyện trì danh, đối với A Di Đà Phật,
đối với thế giới Cực Lạc chẳng
có mảy may hoài nghi nào, coi nhẹ sanh tử, nhất tâm nhất
ý muốn cầu sanh Tịnh Độ. Bác sĩ cho bà ta biết,
cũng là nói thật: “Bệnh của bà chẳng có hy vọng
gì, bà phải chuẩn bị tâm lý, vì có thể chết bất
cứ lúc nào!” Bà ta cười hì hì: “Nếu tôi chết, A Di
Đà Phật sẽ đến đón tôi, tôi về thế
giới Cực Lạc. Thế giới Cực Lạc là quê
nhà của tôi, tôi chẳng sợ hãi tí nào!” Bà ta lành bệnh,
bác sĩ cảm thấy lạ quá, làm sao lành bệnh
được? Bà ta nói: Do Niệm Phật mà lành bệnh! Cả
ngày từ sáng đến tối là một bộ kinh Vô
Lượng Thọ, toàn là A Di Đà Phật. Bà ta còn nghe kinh,
nghe kinh Vô Lượng Thọ, nghe CD/DVD rất dụng công.
Trong bài báo cáo, bà ta nói mỗi ngày nghe một đĩa.
Đó là bài giảng của tôi trong thuở trước, mỗi
đĩa dài một giờ, mỗi ngày nghe mười tiếng,
mỗi đĩa nghe mười lượt, nghe rất
thuần thục. Niệm kinh Vô Lượng Thọ, nghe kinh
Vô Lượng Thọ, niệm A Di Đà Phật, lành bệnh!
Bác sĩ tin lời bà ta, bà ta có ưu điểm lớn nhất
mà lũ chúng ta chưa làm được là cả đời
chẳng nói dối, con người vô cùng trung hậu, thật
thà, chẳng dối gạt người khác, câu nào cũng
đều nói thật. Năm nay, bà ta sáu
mươi sáu tuổi, do tôi xem đĩa CD/DVD phỏng vấn
được thâu vào ngày Bốn tháng Năm năm 2003, dài
nửa tiếng, do đài truyền hình phỏng vấn, nên
tôi nghĩ: Bà ta đã nhiều tuổi như thế,
người này có còn sống hay không? Tôi bảo các đồng
học bên Hương Cảng hỏi thăm, biết
người này còn sống, họ còn tìm được số
điện thoại của bà ta nữa. Tôi liền gọi
điện thoại cho bà ta, khi ấy, tôi đang chữa
răng tại Đài Loan, đã nghe tin tức như thế.
Nói chuyện điện thoại, bà ta rất căng thẳng,
mà cũng rất kinh ngạc. Tôi hỏi bà khỏe không, thân
thể như thế nào? Tốt lắm! Mỗi năm một
khỏe hơn! Tôi liền mời bà ta sang Hương Cảng
gặp mặt, đúng là khỏe lắm, quý vị thấy:
Giảng mười mấy tiếng ở chỗ
chúng ta, sau khi giảng xong, Hướng Tiểu Lỵ mời
bà ta sang Thâm Quyến. Ở Thâm Quyến, bà ta rất cực
nhọc, mỗi ngày giảng gần như sáu tiếng, lại
còn phải trả lời thắc mắc của người
khác, mỗi ngày giảng tám tiếng, giảng hai ngày, phải
quay về. Do bốn chữ “tín nguyện trì danh”, bà ta hết
bệnh, sống khỏe mạnh và hạnh phúc dường
ấy! Tôi giảng kinh đã nhắc tới [chuyện này]
vài lần, nay bà ta đã trở thành người nổi tiếng
rồi, rất nhiều nơi mời bà ta đến giảng
diễn. Bà ta là người hết sức hướng nội
(introvert), tôi bảo bà ta: “Hiện nay, bà chưa thể tốt
lành cho riêng mình được! Hiện thời, phải làm
cho cả thiên hạ cùng tốt lành, phải đến khắp
nơi hoằng pháp, phải đi giúp đỡ người
khác”. Bà ta cũng rất khó có: “Phật, Bồ Tát dạy ta
làm như thế nào, ta bèn làm như thế ấy”. Bốn
chữ ấy (tín nguyện trì danh) trọng yếu lắm!
Chúng ta nắm chắc bốn chữ này, sẽ giải quyết
vấn đề trong một đời này, chắc chắn
sanh về Tịnh Độ.
“Tiện
năng công siêu lũy kiếp” (liền có thể công
vượt trỗi bao kiếp), lời này là thật đấy!
Nếu chẳng tu pháp môn này thì trong tám vạn bốn ngàn
pháp môn, bất luận quý vị muốn tu hành pháp môn nào, tu
đến mức thoát khỏi mười pháp giới phải
mất bao lâu? Phải khá nhiều kiếp quý vị mới
có thể thoát khỏi mười pháp giới. Quý vị vượt
thoát lục đạo, chứng A La Hán quả. A La Hán lại
phải tu hành hòng thoát lìa mười pháp giới, đây chẳng
phải là chuyện dễ, trong Phật pháp thường nói
là “vô lượng kiếp”. Nhưng dùng pháp môn Tịnh Độ
thì Tịnh Độ được gọi là “hoành siêu”. Tám vạn bốn
ngàn pháp môn là tiến lên theo từng giai đoạn một,
nên gọi là “thụ xuất”
(thoát ra theo chiều dọc). Pháp môn Tịnh Độ chẳng
dùng phương pháp ấy, từ trong nhân đạo (loài người),
trực tiếp tiến sang thế giới Cực Lạc
nên gọi là “hoành siêu” (siêu
thoát theo chiều ngang). “Vãng sanh
Cực Lạc, kính đăng Bất Thoái” (vãng sanh Cực
Lạc, nhanh chóng đạt Bất Thoái), “kính” (徑) là nhanh chóng, “tiệp kính” (捷徑: con đường tắt),
quý vị bèn chứng đắc Bất Thoái Chuyển, trong
kinh văn luôn nói như thế. Trong kinh Vô Lượng Thọ,
chính A Di Đà Phật nói, phẩm thứ sáu tức phần
bốn mươi tám nguyện do chính A Di Đà Phật nói:
Sanh sang Tây Phương Cực Lạc thế giới, “giai tác A Duy Việt Trí Bồ Tát”
(đều là Bất Thoái Chuyển Bồ Tát), nói câu ấy.
A Duy Việt Trí (Avaivartika) là tiếng Ấn Độ, dịch
nghĩa sang tiếng Hán, có nghĩa là Bất Thoái Chuyển.
Trong Bất Thoái Chuyển bao gồm ba thứ Bất Thoái Chuyển:
Vị Bất Thoái, Hạnh Bất Thoái và Niệm Bất
Thoái. Ba thứ Bất Thoái Chuyển đều chứng
đắc, là quả vị gì vậy? Nói thông thường,
[địa vị ấy phải là] Sơ Trụ trong Viên
Giáo hay Sơ Địa trong Biệt Giáo; cũng có nghĩa
là người ấy đã vượt thoát mười pháp
giới, đã vãng sanh vào cõi Thật Báo Trang Nghiêm của chư
Phật thì mới chứng ba thứ Bất Thoái. A La Hán chỉ
chứng Vị Bất Thoái, Bồ Tát chứng được
Hạnh Bất Thoái, chứ Niệm Bất Thoái vẫn
chưa đạt được, đều chưa ra khỏi
mười pháp giới. Chứng đắc Niệm Bất
Thoái, vượt thoát mười pháp giới, thật sự
thành Phật!
Đến Tây Phương Cực
Lạc thế giới, một phẩm phiền não tập
khí chúng ta vẫn chưa đoạn, hoàn toàn cậy vào tín
nguyện trì danh, phải dựa vào đó, nương cậy
Phật lực gia trì! Chính chúng ta chỉ cần thực hiện
được bốn chữ “tín nguyện trì danh”, Phật
lực sẽ gia trì, chúng ta bèn có thể vãng sanh, sanh vào cõi
Phàm Thánh Đồng Cư của Tây Phương Cực Lạc
thế giới. Nói cách khác, mang theo phiền não, tập khí, nên
gọi là “đới nghiệp
vãng sanh”. Tu pháp môn khác sẽ chẳng thể [làm như vậy
được], quý vị không thoát khỏi lục đạo
luân hồi! Tu pháp môn này rất may mắn, không chỉ ra khỏi
lục đạo, mà còn thoát khỏi mười pháp giới,
quý vị nói xem: Khó có dường ấy! Đúng là công
vượt trỗi bao nhiêu kiếp! Sanh sang Tây Phương
Cực Lạc thế giới, cho dù hạ hạ phẩm
vãng sanh trong cõi Phàm Thánh Đồng Cư cũng chứng ba
món Bất Thoái. Chứng ba món Bất Thoái mà trước
đó còn có thêm một chữ, [tức là Viên], viên chứng
ba món Bất Thoái! Điều này cũng không đơn giản!
“Viên” (圓) là viên mãn, [“viên chứng” là] chứng đắc viên mãn ba món Bất
Thoái, đó là ai? Từ Thất Địa Bồ Tát của
Viên Giáo trở lên như kinh Hoa Nghiêm đã nói. Chứng ba
món Bất Thoái thì Sơ Trụ đã chứng đắc, nhưng
nếu thêm chữ Viên thì phải là đã đạt đến
Thất Địa! Không ai tin tưởng [chuyện này]; vì
thế, pháp môn này được gọi “nan tín chi pháp” (pháp khó tin). Chúng ta có thể tin
tưởng là nhờ vào đâu mà tin tưởng? Cậy
vào bổn nguyện và oai thần của A Di Đà Phật
gia trì. Chẳng nhờ bổn nguyện và oai thần của
A Di Đà Phật gia trì, làm sao có thể [tin được
pháp môn này]? Đối với phàm phu, nói thật ra, [viên chứng
ba thứ Bất Thoái] chẳng phải do chính quý vị chứng
đắc. Trí huệ, đạo hạnh, thần thông, và phước
báo của quý vị bình đẳng với Thất Địa
Bồ Tát là nhờ vào phước báo của A Di Đà Phật.
Sang bên đó, hưởng phước của Ngài, chẳng
phải là phước của chính mình, mà là hưởng
phước của Phật. Nếu chính mình chứng đắc
Thất Địa, [tức là] trong thế giới Cực
Lạc, chính mình tu hành đã chứng đắc Thất
Địa, đấy mới là phước báo của
chính mình. Nếu chính mình chưa chứng đắc tới
cấp bậc ấy, bèn hưởng thụ phước
báo của A Di Đà Phật, cho nên tin tưởng, chẳng
có nghi vấn gì. Đối với chúng ta, A Di Đà Phật
ân đức to quá! Do vậy, chúng ta hãy nên tin tưởng
những lời này, đó là lời thành thật, chân xác của
Phật, của Tổ. Nói theo Lý, trong kinh đức Phật
thường dạy: “Hết
thảy pháp sanh từ tâm tưởng”.
Niệm niệm chẳng bỏ
pháp môn này; pháp môn này là pháp môn bậc nhất, còn thù thắng
hơn Hoa Nghiêm. Khi tôi giảng kinh này, mới thật sự
biết cư sĩ Bành Tế Thanh đã nói [kinh Vô Lượng
Thọ] là trung bổn Hoa Nghiêm. Kinh Hoa Nghiêm quá dài, tôi
cũng không nghĩ sẽ giảng. Lúc ấy, tôi phát nguyện
trong một đời chuyên giảng bộ kinh này, giảng
lần lượt từng lần, đã giảng được mười lần rồi. Về
sau lại giảng kinh Hoa Nghiêm, duyên ấy do lâm trưởng
Tân Gia Ba Cư Sĩ Lâm là Lý Mộc Nguyên khải thỉnh.
Ông ta thay mặt lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ và Hàn Quán
Trưởng, vì trong quá khứ, họ đã khải thỉnh,
nhưng tôi chẳng phát tâm. Đến Tân Gia Ba, nhắc
tới chuyện này, ông ta hết sức nhiệt tâm, trọn
đủ oai nghi khải thỉnh, rất long trọng, rất
trang nghiêm, tôi liền nhận lời, [điều này] cũng
khiến cho chúng tôi hết sức cảm niệm: Trong quá
khứ, Hàn Quán Trưởng của Hoa Tạng Đồ Thư
Quán khi bệnh tình nguy kịch, trước khi vãng sanh hai
ngày, đã thỉnh cầu lần nữa, mong muốn lưu
lại một bộ CD/DVD giảng kinh Hoa Nghiêm cho người
đời sau tham khảo. Do bà ta bệnh nặng, nhằm
an ủi bà ta, nên tôi đáp ứng, tôi nói: “Được rồi!
Chờ đến khi bà lành bệnh, chúng tôi sẽ khai giảng
lần nữa”, duyên phận như thế đó! Bộ
kinh này (kinh Vô Lượng Thọ) quả thật là cương
yếu của kinh Hoa Nghiêm, vấn đề gì cũng đều
giải quyết. Trưa ngày hôm nay, mấy đồng tu Mã
Lai đặc biệt đến Hương Cảng
thăm viếng, có bàn tới một vấn đề, “thực
hiện giáo học bằng kinh điển của tôn giáo nhằm
cứu nguy địa cầu”. Đoàn kết tôn giáo vẫn
chưa đủ. Kinh điển của mỗi tôn giáo
đều hay, quý vị lật ra xem, trong ấy đều
là giảng về luân lý, đạo đức, nhân quả.
Mỗi tôn giáo đều phải thật sự chú ý, coi trọng
thực hiện giảng kinh, giáo học, cảm hóa lòng người,
khuyên dạy mọi người quay đầu là bờ, thế
giới này sẽ được cứu! Đó gọi là “cảnh tùy tâm chuyển”, ai nấy
đều có thể hướng thiện, người
người đều có thể buông sai lầm xuống, buông
ác niệm xuống, buông ác hạnh xuống, thế giới
sẽ thật sự được cứu. Chúng ta bàn
đến vấn đề này, vấn đề là sẽ
thực hiện cụ thể như thế nào?
Tiếp theo, sách viết: “Nhược vô như thị vi
diệu pháp môn, phàm phu hà năng độ thử sanh tử
nghiệp hải, nhi đăng bỉ ngạn” (Nếu
không có pháp môn vi diệu như thế này, phàm phu làm sao có thể
vượt khỏi biển nghiệp sanh tử này, vượt
sang bờ kia). Trong thời Mạt Pháp, từ nay về sau
hãy còn chín ngàn năm nữa, trừ pháp môn này ra, chẳng có
bất cứ một pháp môn nào mà hòng thành tựu, vì sao? Mỗi
pháp môn đều phải đoạn phiền não, quý vị
có thể đoạn Kiến Tư phiền não hay chăng?
Chẳng nói chi khác, không tính tới Tư Hoặc, chỉ
nói tới Kiến Hoặc, quý vị có thể đoạn hay
chăng? Kiến Hoặc đoạn xong, mới chứng
Sơ Quả trong Tiểu Thừa. Còn theo kinh Hoa Nghiêm của
Đại Thừa, đó là địa vị Sơ Tín Bồ
Tát; nói cách khác, [lúc ấy] quý vị mới nhập môn! Kiến
Hoặc là gì? Nói chi tiết sẽ gồm tám mươi tám
phẩm, nói đại lược, đức Phật quy nạp
Kiến Hoặc thành năm loại lớn. Thứ nhất
Thân Kiến, thứ hai là Biên Kiến, thứ ba là Kiến Thủ
Kiến, thứ tư là Giới Thủ Kiến, thứ
năm là Tà Kiến. Năm loại lớn này, quý vị có
thể đoạn trừ hay chăng? Thật sự đoạn
trừ, quý vị làm được bốn câu trong kinh Kim
Cang: “Vô ngã tướng, vô nhân
tướng, vô chúng sanh tướng, vô thọ giả
tướng” thì mới đoạn được. Chúng
ta hãy tự hỏi chính mình có thể làm được hay
không? Làm không được! Đúng là khó! Từ vô thỉ
kiếp tới nay đã chấp trước thân này là ta. Nay
đức Phật bảo “thân này chẳng phải là ta”,
quý vị đừng vì cái thân mà bận tâm. Bận tâm vì cái
thân chính là tạo oan nghiệt. Thân chẳng phải là ta, mà
là gì? Thân là cái ta có, giống như y phục. Y phục chẳng
phải là ta, y phục là cái ta có, thân thể là cái ta có. Do vậy,
quý vị nhất định phải biết, ta bất
sanh, bất diệt, ta vĩnh viễn chẳng chết. Thân
thể có sanh diệt, giống như y phục, mặc rách
một bộ quần áo bèn đổi bộ khác. Thân chúng ta
dùng vài chục năm chẳng còn thuận tiện sử dụng
nữa, bèn thay đổi, rất tự tại, rất vui
vẻ, đổi lấy quần áo mới. Nhưng khi “thay
quần áo” sẽ liên quan đến nghiệp lực của
quý vị, quý vị suốt đời tâm lành, hạnh lành,
sẽ càng thay đổi càng tốt đẹp. Nếu quý
vị tâm hạnh bất thiện, càng thay đổi càng tệ:
Đời này mang thân người, đời sau đổi
thành thân súc sanh, đổi thành thân quỷ đói, càng thay
đổi càng tệ! Nhưng bất luận thay đổi
thân nào, thân luôn chẳng phải là chính mình, phải hiểu
chuyện này! Thế tục thường nói chính mình là gì?
Linh hồn là chính mình. Linh hồn chẳng sanh tử, nó
đến kiếm thân xác trong lục đạo, đi tìm
một cái thân. Tìm một cái thân cũng chẳng phải là
tùy theo ý nghĩ của chính mình! Nếu tùy thuộc ý
nghĩ của chính mình, chúng ta sẽ tìm lấy thân trời
tốt đẹp hơn để hưởng phước
trời. Việc tìm lấy cái thân mới bị chi phối
bởi nghiệp lực. Vẫn là hết thảy các pháp sanh
từ tâm tưởng! Tâm quý vị lành, sẽ tìm được
[cái thân mới] toàn là tốt lành; tâm quý vị bất thiện,
cái thân [và hoàn cảnh sống mới] mà quý vị tìm
được cũng bất thiện. Do vậy, biết:
Thiện tâm và thiện niệm trọng yếu lắm!
Hiện thời, hoàn cảnh bên
ngoài luôn dẫn dụ chúng ta khởi tham, sân, si, mạn. Tham,
sân, si, mạn là tâm niệm bất hảo nhất. Nếu thật
sự hiểu nhân quả báo ứng, quý vị sẽ có thể
kềm chế chính mình. Theo lý luận nhân quả: “Nhất ẩm nhất trác, mạc
phi tiền định” (một miếng ăn, một hớp
uống, không gì chẳng được định sẵn).
Trong mạng mà có, quý vị sẽ nhất định đạt
được. Nếu trong mạng không có, dùng thủ
đoạn như thế nào cũng đều chẳng chiếm
được, tội tình gì mà quý vị phải tạo
ác, chẳng đáng! Phát tài như thế nào? Trong mạng
quý vị có, bất luận quý vị buôn bán gì cũng đều
phát tài. Trong mạng không có, quý vị nghĩ hết mọi
cách vẫn chẳng phát tài. Quý vị cầm súng cướp
bóc người khác cũng chẳng thể phát tài! Mới sờ
đến súng đã bị cảnh sát thộp cổ! Quý vị
chẳng có thì cần chi nữa! Ông Hồ Tiểu Lâm hiểu
rõ đạo lý này, trước đây đã dùng thủ
đoạn bất chánh để kinh doanh, buôn bán, trật
rồi! Nay đã hoàn toàn sửa đổi sai lầm ấy,
thật thà kiếm tiền, doanh số hằng năm đều
tăng lên. Ông ta mới hoảng nhiên đại ngộ, vốn
chẳng phải là dùng bất thiện thủ đoạn mà
hòng kiếm được, chẳng phải vậy! Do thủ
đoạn bất thiện mà đạt được
thì vẫn là do trong mạng của chính quý vị đã có. Nếu
trong mạng quý vị không có, [vận dụng] thủ
đoạn gì cũng chẳng đoạt được!
Do vậy, chúng tôi suy ngẫm: Người Nhật Bản
xâm lược Trung Quốc, toan chiếm lãnh Trung Quốc, nhưng
họ thiếu phước báo, Trung Quốc chẳng phải
của họ, đánh nhau tám năm rồi vẫn phải đầu
hàng, chẳng phải là của họ mà! Chính phủ Mãn Thanh
ở ngoài biên ải[13] vào Trung Quốc thống
trị hai trăm sáu mươi năm, họ làm được
là vì trong mạng họ có, đất đai ấy là của
họ. Nếu chẳng phải là của họ, dùng chiến
tranh hay chiếm đóng đều chẳng được.
Đúng là “nhất ẩm nhất
trác, mạc phi tiền định”. Dùng thủ đoạn
chiến tranh để đoạt được vẫn là
do trong mạng của chính mình có, nhưng thủ đoạn
chiến tranh là thủ đoạn hết sức tồi tệ!
Quý vị giết bao nhiêu người, gây tổn thất
tài sản cho bao nhiêu người dân, đó là điều ác
cực lớn, đều có báo ứng, quý vị hưởng
hết phước sẽ mắc quả báo. Làm vua mà làm
không tốt, sau khi mất nước, còn phải trả nợ,
còn phải thường mạng, đâu có chuyện tiện
nghi như vậy! Vì thế, người thật sự hiểu
rõ chân tướng sự thật, vọng niệm hoàn toàn
đoạn dứt. Gì là tốt? Vẫn là niệm Phật tốt
đẹp, vẫn là vượt thoát lục đạo
luân hồi, vượt thoát mười pháp giới là tốt
đẹp! Người ấy làm chuyện này, chẳng làm
gì khác! Hôm nay đã hết thời gian rồi, chúng ta học
tới đây!
Tịnh
Độ Đại Kinh Giải Diễn Nghĩa
phần 6 hết
[1]“ Trọn
gói”: Tạm dịch chữ “nhất điều long”, một
ngôi trường gọi là “nhất điều long” khi nó có
toàn bộ các cấp lớp, chẳng sót một lớp nào.
[2] Giáp, Ất,
Bính, Đinh v.v... là cách đánh số thứ tự theo lối
truyền thống trong cổ văn, giống như chúng ta
dùng số La Mã hoặc các con số 1,2,3... để
đánh số từng đoạn.
[3] Cố
Cung, còn gọi là Tử Cấm Thành là cung điện hoàng
đế của hai triều đại Minh và Thanh tại
Bắc Kinh. Cố Cung do hoàng đế Minh Thành Tổ (Châu
Lệ) bắt đầu xây dựng vào năm 1406 khi dời
kinh đô từ Nam Kinh lên Bắc Kinh, mãi đến niên hiệu
Vĩnh Lạc thứ tư (1420) mới hoàn thành. Tổng
công trình sư (kiến trúc sư trưởng) là Khoái Tường,
một trong những thiết kế sư (kiến trúc
sư) nổi tiếng của công trình này là thái giám Nguyễn
An (vốn bị nhà Minh bắt về nước khi chiếm
Việt Nam
dưới đời Hồ Quý Ly).
[4] Quy chế “cửu
tự” đã có từ thời Tiền Hán. Đây chính là
chín cơ cấu quản lý sự vụ trực thuộc
chánh quyền trung ương. Chín cơ cấu này do cửu
khanh (chín vị đại thần quyền hạn nhỏ
hơn Tam Công) đứng đầu, tâu trình trực tiếp
với hoàng đế, không qua sự quản lý của Tể
Tướng (hay Thủ Phụ). Dinh thự của cửu
khanh gọi là Tự. Do đó, chín cơ quan này cũng được
gọi là Tự. Cửu Tự gồm:
1. Thái Thường Tự: Chưởng quản nghi lễ, phụ trách các điển
lễ của quốc gia (thường gọi chung là Quốc
Tế) như lễ tế trời, tế xã tắc v.v...,
đồng thời quản lý âm nhạc cung đình,
cũng như quản lý các thuật sĩ và y sĩ. Cơ
quan này về sau trực thuộc bộ Lễ.
2. Quang Lộc Tự: Chưởng quản
những sự vụ thường ngày trong cung, phụ
trách yến tiệc, chuẩn bị các nhu cầu ăn mặc
trong cung.
3. Vệ Úy Tự: Chưởng quản
vũ khí và canh gác, phòng bị trong cung, nhất là chịu
trách nhiệm bảo vệ kho vũ khí, sắp đặt
các thứ nghi trượng và ngự lâm quân bảo vệ
khi vua xuất du.
4. Tông Chánh Tự: Chưởng quản sự
vụ trong hoàng tộc, tông thất, cũng như gia phả
của ngoại thích (họ hàng của các hoàng hậu, phi tần),
bảo vệ, tu bổ lăng miếu của hoàng gia, kiêm
nhiệm chưởng quản tăng nhân, đạo sĩ.
5. Thái Bộc Tự: Chưởng quản
xe ngựa của hoàng gia, kho dự trữ, các bãi chăn
nuôi, cung cấp quân lương.
6. Đại Lý Tự: Chưởng quản
pháp luật. Đây là cơ quan tư pháp tối cao, gần
như Tối Cao Pháp Viện hiện thời. Các vụ trọng
án do các quan Án Sát (Niết Ty) các tỉnh phải đệ
đạt hồ sơ lên Đại Lý Tự trước
khi phán án chung thẩm. Nếu cần, Tam Pháp Ty đồng
thời tham gia thẩm tra vụ án. Thời Minh, Đại
Lý Tự kiêm nhiệm vai trò mật vụ, có thể bắt
giữ bất cứ ai, kể cả hoàng thân, quốc
thích. Đại Lý Tự cùng với Ngự Sử Đài và
bộ Hình được gọi là Tam Pháp Ty.
7. Hồng Lô Tự: Chưởng quản
chuyện tiếp đón sứ thần ngoại quốc, tiếp
nhận lễ vật, chuẩn bị tặng phẩm của
hoàng đế đối với các phái bộ ngoại quốc,
cũng như hướng dẫn nghi lễ cho các sứ thần
ngoại quốc triều kiến hoàng đế.
8. Tư Nông Tự: Chưởng quản
lương thực, hàng hóa, vải vóc trong toàn quốc, gần
như tương đương với bộ Tài Chánh hiện
thời. Về sau, vai trò của Tư Nông Tự bị bộ
Hộ thay thế, hầu như chỉ còn giới hạn
vai trò trong kinh thành. Vai trò của Tự này đôi khi xen lẫn
với Thái Phủ Tự.
9. Thái Phủ Tự: Chưởng quản
sự giao dịch mua bán hàng hóa, tiền tệ, dự trữ,
trả lương, phát bổng cho các quan, cũng như khống
chế vật giá.
[5] Nói “đời trước” vì người
Mông Cổ tin ngài Chương Gia là một vị hoạt Phật
(tức tu sĩ được coi là hóa thân của các tổ
sư, Phật, Bồ Tát) chuyển thế nhiều lần.
Chương Gia đại sư (Lobsang Pelden Tenpe Dronme,
1891-1957), thầy của hòa thượng Tịnh Không, là
đời thứ mười chín. Vị “Chương Gia
đời trước” được nhắc đến
ở đây là Chương Gia đời thứ mười
bảy (1849-1875) được vua Hàm Phong (chồng Từ
Hy Thái Hậu) mời vào kinh để coi sóc việc nhập
tạng kinh điển, chưởng quản Lạt Ma Giáo
toàn quốc, và vị kế tiếp là Chương Gia đời
thứ mười tám (1878-1888) đều là quốc sư
nhà Thanh. Tuy nói Chương Gia có đến mười tám
đời, nhưng trên thực tế chỉ có bảy
đời, vì vị Chương Gia thứ nhất (Dragpa
Oser, 1607-1641) được tăng sĩ Mông Cổ coi là
hóa thân lần thứ mười ba của tôn giả Channa
(người Hoa thường phiên âm là Tôn Đạt, còn ghi
là Chandaka, tức ngài Xa Nặc, người đánh ngựa
của đức Phật Thích Ca). Ngài Xa Nặc là một
trong sáu vị tỳ-kheo thường được gọi
là Lục Quần Tỳ Kheo chuyên gây rối trong Tăng
đoàn để đức Thế Tôn có cơ hội chế
giới.
[6] Giáo Thụ là cách người Hoa dịch
chữ Professor, tức là các giáo sư trong trường
Đại Học, và được chia thành nhiều cấp
như Giảng Tòa Giáo Thụ (Chair Professor), Giáo Thụ
(Professor), Phó Giáo Thụ (Associate Professor), Trợ Lý Giáo Thụ
(Assistant Professor), Giảng Sư (Instructor). Còn chữ Giáo
Sư chỉ chung các thầy giáo, nhất là trong các trường
Tiểu Học, Trung Học, nhưng hầu như rất
ít khi dùng chữ Giáo Sư mà thường gọi là Lão
Sư.
[7] Tứ
A Hàm (Āgama), còn phiên âm là A Hàm Mộ, hay A Cấp Ma,
tương ứng với Nikāya trong
hệ thống Phật giáo Nam Truyền. Tứ A Hàm trong
Đại Tạng Kinh được dịch từ tiếng
Bắc Phạn (Sankrit), trong khi Nikāya chép bằng tiếng
Nam Phạn (Pali). A Hàm có nghĩa là lần lượt
lưu truyền. Du Già Sư Địa Luận quyển tám
mươi lăm giảng: “Bốn
loại như thế, do thầy trò lần lượt truyền
cho nhau đến nay; do đạo lý này, nên gọi là A Cấp
Ma”. Tứ A Hàm gồm bốn bộ Trường A Hàm
Kinh (Dīrgha Āgama, hai mươi hai quyển, do ngài Trúc
Phật Niệm dịch vào thời Diêu Tần, tương
ứng với bộ Dīgha Nikāya của Nam Tông), Trung
A Hàm Kinh (Madhyama Āgama, sáu mươi quyển, do ngài
Đàm Ma Nan Đề dịch vào thời Phù Tần,
tương ứng với bộ Majjhima Nikāya của Nam
Tông), Tạp A Hàm Kinh (Samyukta Āgama, năm mươi quyển,
do ngài Cầu Na Bạt Đà La và Bảo Vân dịch vào
đời Lưu Tống, tương ứng với
Samyutta Nikāya của Nam Tông), Tăng Nhất A Hàm (Ekottara
Āgama, năm mươi mốt quyển, do ngài Trúc Phật
Niệm dịch, tương ứng với Anguttara
Nikāya của Nam Tông).
[8] Thông thường nói là ba mươi ba ứng
thân, ở đây, chỉ nói ba mươi hai tức là không
kể thân Bồ Tát.
[9] Ngũ
Chỉ là chiếu pháp thanh hư ly duyên chỉ, quán nhân tịch
phạ tuyệt dục chỉ, tánh khởi phồn hưng
nhĩ chỉ, định quang hiển hiện vô niệm
chỉ, Sự Lý huyền thông phi tướng chỉ.
Lục Quán là: Nhiếp cảnh quy tâm chân
không quán, tùng tâm hiện cảnh diệu hữu quán, tâm cảnh
bí mật viên dung quán, trí thân ảnh hiện chúng duyên quán,
đa thân nhập nhất cảnh tượng quán, và chủ
bạn hỗ hiện đế võng quán.
Nếu muốn biết chi tiết các
phép Chỉ và Quán này, xin xem bộ Tu Hoa Nghiêm Áo Chỉ Vọng
Tận Hoàn Nguyên Quán do hòa thượng đã giảng.
[10] Khúc Lễ là một bộ phận của
sách Lễ Ký, chuyên giảng về những lễ tiết
nhỏ nhặt nhưng quan trọng trong cuộc sống.
[11] Đúng ra
phải đọc là Mai Côi (玫瑰: hoa hồng), nhưng thường bị
đọc trại thành Mân Côi, Văn Côi, Môi Côi, Mai Khôi, hay
Môi Khôi trong tiếng Việt. Bản kinh này vốn có tên bằng
tiếng Latin là Rosarium, có nghĩa là “vườn hồng”
hay “tràng hoa hồng” nhằm vinh danh Đức Mẹ Maria.
Thuật ngữ này cũng dùng để chỉ chuỗi hạt
thường được dùng trong khi cầu kinh của
Công Giáo. Thông thường, người Công Giáo tin bản
kinh này và chuỗi Mân Côi do chính Đức Mẹ truyền
cho thánh Dominic (Domingo, thánh Đa Minh) vào năm 1214. Khi thực
hành, tín hữu Công Giáo đọc kinh này ra tiếng hay đọc
thầm theo trình tự: Một kinh Lạy Cha (Pater
Noster), sau đó là mười kinh Kính Mừng (Ave
Maria), và kết thúc bằng một kinh Sáng Danh (Gloria
Patri), mỗi trình tự như thế gọi là một “mầu
nhiệm” (Mysteria, hay còn dịch là suy niệm), được
hiểu là một bộ mười kinh. Một “mầu
nhiệm” còn được gọi là một “sự”,
tương ứng với một sự kiện về cuộc
đời chúa Jesus và Đức Mẹ theo kinh Tân Ước.
Đến thế kỷ 16, kinh Mân Côi đã bao gồm
mười lăm “mầu nhiệm”, được chia làm
ba nhóm: Mầu nhiệm năm sự vui (Mysteria Gaudiosa), mầu
nhiệm năm sự thương (Mysteria Dolorosa), mầu
nhiệm năm sự mừng (Mysteria Gloriosa). Tất cả
hầu như không có gì thay đổi cho đến
năm 2002, Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ đệ nhị (John
Paul II) công bố thêm năm “mầu nhiệm” mới, đó
là “mầu nhiệm năm sự sáng” (Mysteria Luminosa). Do vậy,
kinh Mân Côi hiện thời có hai mươi “mầu nhiệm”.
[12] Đây là một chứng bệnh rối
loạn hệ thống miễn nhiễm (Immune system) của
con người, gây tổn hại nghiêm trọng đến
phổi, da, thận, tế bào máu, và tim. Trong căn bệnh
này, hệ thống miễn nhiễm của người bệnh
tự tấn công các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể,
khiến bệnh nhân bị viêm nhiễm lâu dài. Y giới vẫn
chưa biết rõ nguyên nhân của căn bệnh này. Bệnh
kéo dài dai dẳng, có lúc tiềm ẩn, rồi bùng phát, khiến
cho các tế bào bị tấn công, thân thể bệnh nhân
sưng phồng, lở loét, các khớp đau cứng, khó
thở, mệt mỏi, sốt cao, rụng tóc, lở miệng,
ngứa ngáy, sợ ánh sáng, sưng các hạch lâm-ba (lympho
nodes), nhức đầu, đau bụng, ói mửa, tim loạn
nhịp, ho ra máu, da mọc vảy nến, bong tróc, đầu
ngón tay tím tái. Trong trường hợp nghiêm trọng,
người bệnh không thể cử động, thậm
chí mặt sưng phù nề biến dạng trông hao hao
như mặt con sói nên mới gọi là Lupus. Chữ “hồng ban lang sang” (lở loét
nổi mẩn đỏ, mặt giống con sói) nhằm
hình dung tình trạng phù nề và biến chứng trên da của
người bệnh. Không rõ danh từ y khoa tiếng Việt
dịch căn bệnh này chính xác như thế nào, chứ
thuật ngữ y tế của Hà Nội dịch là “bệnh
lupus viêm ban đỏ” nghe không ổn lắm!
0 Kommentare:
Post a Comment