"Ân đức cha mẹ cao cả ngần nào, tội báo bất hiếu nặng nề ngần ấy. Cho nên
những kẻ bất hiếu phản bội, tội khổ vô cùng, không chi sánh bằng, không
thể nói hết..."
HT. Thích Trí Quang dịch
và hiệu chỉnh lại bản dịch cổ, 1994
Kinh
này tôi nghe Đức Thế Tôn dạy trong thời gian Ngài cùng với rất nhiều
các vị đại tỷ kheo và đại bồ tát ở nơi tịnh xá Kì hoàn, thuộc nước Xá
vệ.
Lúc
bấy giờ Đức Thế Tôn cùng với đại chúng đi về phía nam tinh xá, thấy một
đống xương khô. Ngài liền lạy sát đất. Tôn giả A nan thấy vậy thì thưa
rằng : "Bạch đức Thế Tôn, Ngài là đại sứ của chúng sinh, là từ phụ của
muôn loài, ai cũng tôn kính, tại sao lại lạy đống xương khô này một cách
cung kính như vậy ?"
Đức
Thế Tôn dạy : "A nan, tôn giả tuy là đệ tử thượng túc của Như Lai,
nhưng kiến thức còn khiếm khuyết. Đống xương khô này hoặc là tổ tông
kiếp trước, hoặc là cha mẹ nhiều đời của Như Lai, nên Như Lai chân thành
kính lạy.
Tôn
giả hãy đem đống xương khô này chia ra hai phần : nếu là nam thì xương
trắng mà nặng, nếu là nữ thì xương đen lại nhẹ". Tôn giả A nan thưa :
"Bạch đức Thế Tôn, nam và nữ khi còn sinh tồn thì nhờ hình dáng mà nhận
biết, nay chết rồi thì chỉ một đống xương khô như nhau, làm sao phân
biệt ?" Đức Thế Tôn dạy : "A nan, người nam khi sống tinh tu phạn hạnh,
đa văn thiền quán, nên xương trắng và nặng. Người nữ sinh sản, huyết sữa
hao tổn, mệt nhọc lao khổ, nên xương đen mà nhẹ".
Tôn
giả Anan nghe Đức Thế Tôn dạy như vậy thì đau lòng rơi lụy, thưa Ngài :
"Bạch đức Thế Tôn, ân đức cha mẹ thế nào ? Làm sao báo đáp ?". Đức Thế
Tôn dạy : "A nan, hãy nghe cho kĩ.. Như Lai sẽ nói cho tôn giả.
A
nan, mười tháng mang thai, mẹ rất khổ sở. Thai mang một tháng mới như
hạt sương rơi trên cỏ, tụ tán mong manh. Hai tháng mới như váng sữa. Ba
tháng mới như huyết đọng. Bốn tháng mới tụ hình người. Năm tháng mới có
đầu, hai tay và hai chân. Sáu tháng các giác quan mới khai tượng. Bảy
tháng gân cốt lông da mới có. Tám tháng mới có lục phủ ngũ tạng. Chín
tháng mới thành thai nhi, hấp thụ nguyên khí của mẹ mà sống. Qua tháng
thứ mười mới khởi sự chuyển sinh. Nếu là hiếu thuận thì hài nhi xuôi tay
mà ra, không thương tổn mẹ. Nếu là ngỗ nghịch thì cào cấu đạp phá thai
bào, làm mẹ đau đớn vạn trạng. Nên thân này sinh được thật là may mắn
phước đức.
A nan, ân Đức cha mẹ có mười điều sau đây:
"MỘT
là thai mang giữ gìn. Vì nghiệp lực nên chúng sinh thác thai mẹ. Mẹ lâu
ngày khổ sở, chín tháng cưu mang, nặng nhọc như đội đá, đi đứng ngại
gió mưa, quần áo không sửa soạn, trang điểm còn kể chi.
HAI
là sinh sản khổ sở. Đến tháng thứ mười, gần ngày sản nạn, thì đêm đêm
như bịnh nặng, ngày ngày tợ hoàng hôn. Khiếp hãi lo nghĩ, lệ sầu tuôn
rơi, chỉ sợ tử thần không dung tánh mạng.
BA
là sinh rồi quên lo. Trong khi sinh đẻ, gan ruột từ mẫu tuồng như xé
rách, đau đớn mê man, máu huyết dầm dề. Nhưng nghe con an toàn thì vui
mừng quên hết. Song vui đó lại buồn đó, lo nghĩ xiết ruột gan.
BỐN
là nuốt đắng nhổ ngọt. Tình thương cha mẹ thật sâu nặng, thương mến có
bao giờ lạt phai. Nhổ ngọt không tiếc nuối, nuốt đắng nào phiền hà.
Thương mến càng sâu đậm, bi sầu càng tăng thêm. Miễn sao con no ấm, đói
khát mẹ nào từ.
NĂM
là nhường khô nằm ướt. Mẹ nằm chỗ ướt át, nâng con chỗ ấm khô. Đôi vú
no đói khát, hai tay che gió sương. Yêu thương quên ngủ nghỉ, sủng ái
hết giá lạnh. Chỉ mong con yên ổn, mẹ hiền không cầu an.
SÁU
là bú mớm nuôi nấng. Mẹ hiền ơn hơn đất, cha nghiêm đức quá trời. Che
chở ơn cao dày, cha mẹ nào tính toán. Không hiềm không mắt mũi, không
ghét què chân tay. Con sinh ra từ bụng mẹ, còn đổi dạ thương ai.
BẢY là tắm rửa săn sóc. Không nghĩ thân phận mình, chỉ lo con bệnh tật, cho nên hết lòng tắm rửa săn sóc. Áo quần lo cho con, rách rưới mẹ cam chịu. Thân con được ấm áp là lòng mẹ ấm áp.
TÁM
là xa cách thương nhớ. Chết mà từ biệt, đã đành khó nhẫn ; sống mà biệt
ly, lại càng thương nhớ. Con đi đường xa cách, lòng mẹ bóng theo hình.
Ngày đêm không thư dạ, sớm tối nào tạm quên. Khóc như khóc vượn nhớ con,
thương nhớ nát can trường.
CHÍN
là vì con làm ác. Lao khổ đủ muôn bề, bữa ăn rất khó kiếm. Vì muốn con
no ấm, việc ác mẹ khó từ. Nuôi khôn lớn, lo gầy dựng. Lo cơm áo, sợ cơ
hàn. Kho nấu bao sinh vật, cũng vì ngon miệng con.
MƯỜI
là thương mến trọn đời. Ân đức của cha mẹ cao sâu hơn trời đất. Hi sinh
hết tất cả, vẫn thấy chưa vừa lòng. Mẹ già hơn trăm tuổi còn thương con
tám mươi. Tình thương có ngừng chăng, chỉ hơi thở cuối cùng.
Đức
Thế Tôn lại dạy : "A nan, Như Lai xét thấy chúng sinh tuy làm thân
người, tâm trí vẫn còn tối tăm. Không biết ân đức cha mẹ cao dày. Không
biết kính trọng, vong ân bội nghĩa. Không lòng mến thương, bất hiếu bất
mục. Từ mẫu mang thai trong mười tháng tròn, đứng ngồi không yên, như
gánh gánh nặng, ăn uống không xuống, như bệnh lâu ngày. Khi đủ ngày
tháng, sắp sửa sinh con, thì đủ khổ sở, khiếp sợ tử thần, tánh mạng mong
manh. Như vật bị hại, huyết chảy tràn đất : mẹ khổ đến thế mới sinh ra
ta. Sinh rồi nuớt đắng nhổ ngọt, bồng ẵm nuơi nấng, không kể mệt nhọc,
chịu nắng chịu mưa, không từ cay đắng. Chỗ khô con nằm, chỗ ướt mẹ lăn.
Suốt trong ba năm, nhờ huyết sữa mẹ mới thành đứa bé. Đến khi khôn lớn,
lo việc giáo dục, lo việc hôn nhân, kinh doanh sản nghiệp, tận tụy lao
khổ. Khổ nhọc suốt đời, không kể công khó. Con cái tật bệnh, cha mẹ bệnh
theo, bịnh con nếu hết, cha mẹ mới lành.
Thế
mà trưởng thành lại bất hiếu. Nói với cha mẹ lời tiếng hỗn hào, trợn
mắt trừng ngươi. Khinh khi chú bác, đánh đập anh em. Phỉ nhục bà con,
không có lễ nghĩa. Thầy dạy không tuân, cha mẹ răn bảo, toàn không y cứ.
Đối xử anh em cố tình gây gổ. Đi ở ra vào không cần cha mẹ. ngôn hạnh
thô bỉ, tự chuyên manh động. Cha mẹ quở trách, chú bác răn đè, thì sinh
sân hận, chống trả phản nghịch. Mặc dầu chính ta do cha mẹ sinh ra, do
cha nuôi lớn. Ruồng bỏ bạn tốt, tríu mến kẻ xấu. Huấn tập thành tánh,
bèn thành cuồng bạo. Thoát ly gia đình, giang hồ mông lung. Hoặc chinh
chiến xâm lược, hoặc biếm truất tù đày, hoặc khốn khổ đói khát, hoặc tai
nạn hiểm nguy. Vì vậy thân chết, thây phơi gió sương, xương trắng bộc
lộ. Để cho cha mẹ nhớ thương sầu khổ, khóc đến loè mắt, bi ai thành
bệnh. Có khi buồn khổ, đến nỗi tử vong.
Hoặc
thấy con cái mê tín dị đoan, không lo học tập, xao lãng nghề nghiệp,
làm cho cha mẹ lại càng u buồn. Thế nhưng con cái lại còn cờ bạc, hoang
đãng phóng túng. Tội lây cha mẹ, họa đến bà con. Trong khi cha mẹ đau
đớn không hay, đói lạnh không biết. Thấy cha như thấy nợ, thấy mẹ như
thấy khách, không hỏi han, chẳng đoái hoài. Cha mẹ buồn tủi, cô đơn lạnh
lùng, ngủ phải ngủ nhờ, ăn phải ăn xin, ngày đêm than thở, bi thảm muôn
vàn, con cái vẫn không hay không biết. Cho dẫu hay biết lại thấy xấu
hổ. Xấu hổ hơn nữa, khi thấy cha mẹ, vì tuổi tác cao vì buồn khổ nhiều,
mà phải thân hình gầy ốm xấu xí, thì sinh ra bực tức mắng nhiếc liên
tục. Cha mẹ cao cả, đáng dâng xương thịt, nhưng cho một bữa lại thấy hổ
ngươi, sợ người chê cười. Còn với vợ con, cù đày phục dịch, trút hết mồ
hôi, đổ hết gia sản mà vẫn cam tâm. Thê thiếp sai bảo, nhất thiết thi
hành, cha mẹ khuyên răn không thèm đếm xỉa. Nếu là con gái thì khi chưa
chồng, có thể hiếu thuận, nhưng khi lấy chồng rồi, lại sinh bất hiếu.
Cha mẹ hơi sân lại sinh oán giận, còn chồng đánh mắng lại cam chịu đựng.
Khác họ khác dòng mà tình nặng nghĩa sâu, xương mình thịt mình lại coi
như nước lã. Mê theo chồng con quên ngày quên tháng, bỏ quên cha mẹ
không tin không hỏi.
Ân đức cha mẹ vô lượng vô biên, tội lỗi bất hiếu vô cùng vô tận. Nói không bao giờ hết, tả không bao giờ cùng.
Toàn
thể đại chúng nghe Đức Thế Tôn kể ra ân đức vô lượng như vậy, thì toàn
thân rúng động, hơi thở ngừng lại, mồ hôi toát ra, lặng đi một lát, mới
cao tiếng mà than, rằng chúng ta kẻ khốn nạn đáng trách. Hồi nào đến giờ
mù mờ như kẻ đi đêm, ngày nay mới biết việc mình làm sai lầm tội lỗi.
Lòng dạ đau thương, tâm can thống liệt, cùng nhau mà thưa "Bạch Đức Thế
Tôn, ân Đức cha mẹ cao sâu như vậy, đệ tử chúng con làm sao báo đáp ?"
Bấy giờ Đức Thế Tôn dùng tiếng Phạn âm như tiếng hải triều, nói với đại chúng :
"Giả
như có người vai trái cõng cha, vai phải mang mẹ, cắt da đến xương,
nghiền xương thấu tủy, máu đổ thịt rơi vẫn không thể báo đáp ân sâu của
cha mẹ. Giả như có ai, gặp lúc đói khát, hủy thân thể, cung phụng cha
mẹ, cũng không báo được ân đức cha mẹ. Trăm kiếp ngàn đời thích tròng
con mắt, cắt đến tim gan, dao sắt xuất nhập khắp cả châu thân, cũng
không trả nổi ân đức cha mẹ. Và dẫu cuối cùng, vì cha vì mẹ, lấy thân
làm đèn, hiến cúng Như Lai, cũng không báo được hồng ân cha mẹ"
Đại chúng nghe nói lòng càng đau đớn, đồng thanh mà thưa :"Bạch Đức Thế Tôn, như vậy làm sao mới báo được ân đức cha mẹ ?"
Đức
Thế Tôn dạy : "Chư vị Phật tử ! Các người muốn báo ân cha nghĩa mẹ thì
phải thân hành sao chép trì tụng, thực hành kinh này. Phải biết sám hối
tội lỗi cha mẹ, bằng cách khuyến khích cha mẹ thực hành chánh pháp tối
thượng. Phải vì cha mẹ mà giữ tịnh giới, mà làm bố thí, làm hạnh lợi
tha. Làm được như vậy mới là hiếu tử. Không là hiếu tử là người địa
ngục.
Ân đức cha mẹ cao cả ngần nào, tội báo bất hiếu nặng nề ngần ấy. Cho nên
những kẻ bất hiếu phản bội, tội khổ vô cùng, không chi sánh bằng, không
thể nói hết"
Những
ai quảng bá, thực hành kinh này, mới là chân chính báo đáp thâm ân của
cha của mẹ. Vì muốn báo đáp thâm ân của cha mẹ mà ấn hành kinh này, thì
cứ mỗi cuốn là như gặp được một Đức Như Lai. Và do uy lực của chư Như
Lai, hợp với phước đức của người trì tụng, thực hành kinh này, làm cho
cha mẹ người ấy phước lạc vô biên, cho đến dần dần thực hiện giải thoát.
Bấy
giờ đại chúng nghe Đức Thế Tôn dạy bảo như vậy, đều phát thệ nguyện,
nguyện rằng : "Từ nay cho đến tận cùng thờì gian vị lai, dù cho sắt nóng
lăn quay trên đầu, chúng con cũng nguyện không trái huấn dụ của Đức Thế
Tôn"
Tôn
giả A nan thưa ngài : "Bạch Đức Thế Tôn, kinh này nên gọi là gì ? Chúng
con làm sao phụng trì kinh này ?" Đức Thế Tôn dạy : "Anan, kinh này tên
là kinh Báo Ân Cha Mẹ. Các người cứ phụng trì đúng như danh hiệu ấy."
Khi Đức Thế Tôn dạy xong kinh này, tất cả đại chúng hoan hỉ phụng hành.
0 Kommentare:
Post a Comment