"Việc tu hành để ngộ đạo, tuy dễ mà khó và tuy khó mà dễ. Ví như mở
đèn điện, nếu biết cách, chỉ dùng một ngón tay, thì ánh sáng đèn sẽ
chiếu sáng, khiến ngàn năm u minh tăm tối liền mất. Nếu không biết cách
thì sẽ làm hư hoại dây điện bóng đèn, rồi phiền não ngày càng tăng
trưởng. Ví như có vài người tham thiền quán thoại đầu, khi gặp ma cảnh
thì phát điên phát cuồng, ho ra máu, bị bệnh tật, khiến lửa vô minh càng
cháy sáng, sự trước chấp về mình và người ngày càng nặng nề..."
Hòa Thượng Hư Vân
Tham thiền cùng niệm Phật
Người niệm Phật, ai ai cũng hủy báng tham thiền. Người tham thiền, ai
ai cũng hủy báng niệm Phật. Ví như khi đối đầu với cái chết, chúng ta
lại muốn đối phương sớm chết theo mình. Đây là hiện tướng xấu xa trong
nhà Phật, thật rất đau lòng ! Thế tục có câu: "Gia đình hòa hợp thì muôn
sự đều hưng thịnh. Gia đình ai oán thì miệng chẳng ngon."
Huynh đệ chửi mắng lẫn nhau, chẳng lẽ không bị người đời cười chê
cùng khinh khi hay sao ! Tham thiền, niệm Phật cùng các pháp môn khác
đều do kim khẩu của Phật Thích Ca thuyết ra. Đạo vốn không hai, chỉ do
căn khí nghiệp duyên của chúng sanh không đồng, nên Phật tùy theo bịnh
mà cho thuốc. Vì phương tiện nên đức Phật thuyết ra nhiều pháp môn để
nhiếp thọ giáo hóa quần sanh. Sau này, chư đại đức y theo giáo lý mà
phân tông phái; bất quá chỉ do tùy căn cơ mà thuyết pháp. Nếu người muốn
tu trì để trở về tự tánh thì chỉ cần bước vào một cửa là có thể nhập
đạo diệu môn, vì bổn gốc vốn không phân biệt cao thấp. Các pháp xưa nay
vốn hỗ tương lẫn nhau và viên dung không ngại.
Nếu như niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thì có khác gì với tham thiền ! Tham thiền đến độ cả hai năng và sở đều mất thì có khác gì với thật tướng niệm Phật ! Thiền tức là Thiền trong Tịnh Độ. Tịnh Độ tức là Tịnh trong Thiền. Thiền và Tịnh Độ vốn tương trợ lẫn nhau. Sao người đời khởi tâm chấp trước một bên, thấy cửa này nhà nọ, tự tán thán mà hủy báng kẻ khác, giống như nước với lửa chẳng bao giờ tương dung, khiến phản lại thâm ý phân tông khác giáo của Phật Tổ ! Lại nữa, có thể vô ý phạm trọng tội hủy báng Phật pháp. Thật có đáng thương lắm không ! Hy vọng quý vị đồng nhân, không luận tu trì pháp môn nào, đều phải thể hội thâm sâu yếu chỉ vô tranh của Phật Tổ, chớ múa gậy đánh nhau trong nhà. Mọi người phải hợp lực đồng tâm, cứu độ con thuyền Bát Nhã trên sóng ba đào.
Nếu như niệm Phật đến nhất tâm bất loạn, thì có khác gì với tham thiền ! Tham thiền đến độ cả hai năng và sở đều mất thì có khác gì với thật tướng niệm Phật ! Thiền tức là Thiền trong Tịnh Độ. Tịnh Độ tức là Tịnh trong Thiền. Thiền và Tịnh Độ vốn tương trợ lẫn nhau. Sao người đời khởi tâm chấp trước một bên, thấy cửa này nhà nọ, tự tán thán mà hủy báng kẻ khác, giống như nước với lửa chẳng bao giờ tương dung, khiến phản lại thâm ý phân tông khác giáo của Phật Tổ ! Lại nữa, có thể vô ý phạm trọng tội hủy báng Phật pháp. Thật có đáng thương lắm không ! Hy vọng quý vị đồng nhân, không luận tu trì pháp môn nào, đều phải thể hội thâm sâu yếu chỉ vô tranh của Phật Tổ, chớ múa gậy đánh nhau trong nhà. Mọi người phải hợp lực đồng tâm, cứu độ con thuyền Bát Nhã trên sóng ba đào.
Những điều kiện tiên quyết khi tham thiền
Mục đích của tham thiền là minh tâm kiến tánh, tức quét trừ tự tâm ô
nhiễm, để chân thật thấy rõ bổn lai diện mục của tự tánh. Ô nhiễm tức là
vọng tưởng chấp trước. Tự tánh tức là trí huệ đức tướng của Như Lai.
Đối với đức tướng trí huệ của Như Lai, Phật và chúng sanh đều đồng có
đầy đủ, không hai không khác. Nếu xa rời được vọng tưởng chấp trước thì
tự mình sẽ đắc được trí huệ đức tướng của Như Lai, tức là Phật. Ngược
lại thì làm chúng sanh. Chỉ vì chúng ta từ vô lượng kiếp cho đến nay, mê
mờ lưu lạc trong vòng sanh tử và bị nhiễm ô đã lâu, nên không thể thoát
khỏi được vọng tưởng chấp trước mau chóng được. Muốn thấy rõ bổn tánh
chân thật, phải nên tham thiền. Vì thế, điều kiện tiên quyết nhất khi
tham thiền là phải dẹp trừ vọng tưởng. Làm sao dẹp trừ vọng tưởng ? Phật
Thích Ca thuyết pháp rất nhiều, nhưng đơn giản không ngoài chữ "ngưng".
"Ngưng tức Bồ Đề".
Thiền tông do Đạt Ma Tổ Sư từ bên Ấn Độ truyền qua Đông Độ; đến đời
Lục Tổ thì gió thiền lan rộng khắp nơi, chấn động chiếu sáng cổ kim.
Những điều tối quan trọng mà Đạt Ma Tổ Sư cùng Lục Tổ thường dạy là "dẹp
hết muôn duyên, chẳng sanh một niệm".
Dẹp hết muôn duyên, tức là xả bỏ hết các duyên. Đây là điều kiện tiên
quyết cho việc tham thiền. Nếu chưa hành được hai câu này thì chẳng
những tham thiền không thể thành công mà nhập vào các môn khác cũng
không thể được. Muôn duyên vẫn còn ràng buộc và niệm niệm vẫn còn sanh
diệt thì đàm luận đến việc tham thiền được sao !
"Xả bỏ muôn duyên, chẳng sanh một niệm" là điều kiện tiên quyết của
việc tham thiền. Chúng ta phải nên biết rõ. Làm thế nào để hành được ?
Trên đã nói rõ là một niệm nếu ngưng, thì đạt thẳng đến vô sanh, chứng
ngay đạo Bồ Đề, không còn vương vấn tơ hào gì hết. Kế đến dùng lý mà dẹp
trừ sự, tức biết rõ tự tánh bổn gốc vốn thanh tịnh, thì phiền não và Bồ
Đề, sanh tử cùng Niết Bàn đều là giả danh, chẳng can hệ gì với tự tánh
của chúng ta.
Sự sự vật vật đều như mộng huyễn bong bóng nước. Sắc thân bốn đại của
chúng ta cùng núi sông đất đá, đều nằm sẵn trong tự tánh. Chúng giống
như bọt nước trong biển, lúc khởi lúc diệt, không ngăn ngại bổn thể. Chớ
nên chạy theo tất cả sự huyễn hóa của sanh trụ dị diệt mà khởi tâm vui
thích, nhàm chán, thủ xả. Phóng xả được thân này như người đã chết thì
tự nhiên căn, trần, thức liền tan biến, và tham sân si dâm ái đều tiêu
diệt. Tất cả nỗi thống khổ của thân như khổ vui, cơ hàn, đói khát, vinh
nhục, sanh tử, phước họa, may rủi, khen chê, được mất, bình an, hiểm nạn
đều là bên ngoài, phải nên xả bỏ. Xả bỏ được một, thì sẽ xả bỏ được tất
cả; mãi mãi xả bỏ, đó gọi là xả bỏ muôn duyên. Xả bỏ muôn duyên được
thì vọng tưởng tự tiêu mất. Nếu không khởi tâm phân biệt thì xa rời chấp
trước. Một niệm chẳng sanh thì tự tánh chiếu sáng và toàn thể tánh đều
được hiển lộ. Khi những điều kiện tu thiền đã đầy đủ, lại phải tiếp tục
dụng công chân thật tham cứu, thì việc minh tâm kiến tánh chắc sẽ có
phần.
Ngày ngày thường có thiền sinh đến thưa hỏi. Tuy nhiên, pháp vốn thật
không phải là pháp. Nếu lạc vào ngôn từ, tức là không phải nghĩa chân
thật. Hiểu rõ tâm này thì biết bổn tâm của chúng sanh vốn là Phật. Xả bỏ
hết để được vô sự thì cảnh giới thánh sẽ hiển hiện. Nói tu nói chứng
đều là lời ma. Tổ Đạt Ma đến Đông Độ để "Trực chỉ chân tâm, kiến tánh
thành Phật". Ngài chỉ thật rõ rằng tất cả chúng sanh trên cõi đất đều sẽ
thành Phật. Phải nhận rõ tự tánh thanh tịnh; nó tùy thuận thế tình,
nhưng không ô nhiễm. Trong mười hai thời, đi đứng nằm ngồi, mà tâm bình
thản không loạn động, tức là hiện tại làm Phật, chứ không cần dụng tâm
dụng sức, hay không cần dùng chút tơ hào lời nói, suy tư, hoặc làm việc
này việc nọ.
Thế nên, bảo rằng thành Phật là việc rất dễ dàng và rất tự tại, vì Phật tánh vốn đã nằm sẵn trong tâm mình, không cần chạy ra ngoài tìm cầu. Tất cả chúng sanh trên cõi đất, nếu không thể kham nổi bao kiếp luân hồi, trôi lăn trong bốn loài sáu đường, trầm luân trong biển khổ, mà nguyện ước thành Phật để đạt đến cảnh giới thường lạc ngã tịnh, thì phải tin chắc thật lời dạy dỗ răn nhắc của Phật Tổ, tức xả bỏ tất cả. Chẳng nghĩ thiện hay ác thì lập tức thành Phật. Chư Phật Bồ Tát cùng lịch đại Tổ Sư phát nguyện độ hết tất cả chúng sanh đều có chứng cứ, chứ chẳng phát đại nguyện trống không, hay giảng lời rỗng tuếch.
Thế nên, bảo rằng thành Phật là việc rất dễ dàng và rất tự tại, vì Phật tánh vốn đã nằm sẵn trong tâm mình, không cần chạy ra ngoài tìm cầu. Tất cả chúng sanh trên cõi đất, nếu không thể kham nổi bao kiếp luân hồi, trôi lăn trong bốn loài sáu đường, trầm luân trong biển khổ, mà nguyện ước thành Phật để đạt đến cảnh giới thường lạc ngã tịnh, thì phải tin chắc thật lời dạy dỗ răn nhắc của Phật Tổ, tức xả bỏ tất cả. Chẳng nghĩ thiện hay ác thì lập tức thành Phật. Chư Phật Bồ Tát cùng lịch đại Tổ Sư phát nguyện độ hết tất cả chúng sanh đều có chứng cứ, chứ chẳng phát đại nguyện trống không, hay giảng lời rỗng tuếch.
Bên trên đã nói rằng pháp là như thế. Lời của các ngài xiển minh kinh
điển Phật Tổ rõ ràng. Chân ngữ thật ngữ chẳng có chút hư dối. Chúng
sanh trên cõi đất từ vô lượng kiếp đến nay luôn bị trầm luân trong biển
khổ sanh tử, đầu xuất đầu mất, luân chuyển không ngừng, mê hoặc điên
đảo, bỏ tánh giác mà hiệp với trần lao. Ví như vàng ròng bị rớt xuống
hầm phẩn không thể dùng được, nhưng chẳng hề bị nhiễm ô. Do tâm đại từ
đại bi, bất đắc dĩ Phật phải thuyết tám mươi bốn ngàn pháp môn để đối
trị tham sân si ái v.v... tức tám mươi bốn ngàn tập khí, bệnh tật của
muôn loại chúng sanh. Ví như tuy vàng ròng bị nhơ nhuốc mà nay chư Phật
dạy quý vị dùng nạo, bàn chải, nước, vải, v.v... để tẩy rửa mài giũa.
Pháp Phật thuyết ra, lời lời đều là diệu pháp, có khả năng cắt đứt dòng
sanh tử, và mau chóng đạt thành tựu Phật đạo, chỉ có vấn đề là hợp căn
cơ hay không hợp căn cơ. Thế nên, chớ cưỡng ép phân biệt pháp môn cao
thấp. Năm pháp môn rất phổ thông thịnh hành ở nước Tàu là Thiền-tông,
Giáo-tông, Luật-tông, Tịnh-độ-tông, Mật-tông. Tùy theo ý thích và căn
tánh của mỗi người, có thể tự chọn lựa một pháp môn ứng hợp. Nói chung,
phải thâm nhập vào một pháp môn trường kỳ không đổi thì mới mong thành
tựu.
Thiền-tông chú trọng tham thiền. Tham thiền để "minh tâm kiến tánh",
tức là tham thấu bản lai diện mục của mình. Vì thế bảo rằng ngộ rõ tự
tâm, thấy suốt bổn tánh. Pháp môn này bắt đầu từ khi Phật đưa cành hoa
lên, cho đến sau khi Đạt Ma Tổ Sư truyền thừa sang Đông Độ; người hạ thủ
công phu thường luôn uyển chuyển. Chư thiền đức trong đời Đường
(618-907) và Tống (960-1279), phần nhiều đều do nghe một lời hay nửa câu
thì liền ngộ đạo. Thầy trò truyền thừa bẩm thọ, dùng tâm ấn tâm, nhưng
thật ra không có một pháp nào là chân thật. Ngày thường tham vấn đối
đáp, bất quá chỉ tùy phương tiện mà giải kiết phược, hay do bệnh mà cho
thuốc. Sau đời Tống, căn khí con người ngày càng chậm lụt; giảng được mà
không hành được. Ví như câu: "Xả bỏ tất cả" hay "Chớ nghĩ thiện ác" đều
không thể hành được.
Nói không suy nghĩ việc thiện, lại đi suy nghĩ việc ác. Vì thế, chư Tổ Sư bất đắc dĩ mới chọn lựa biện pháp, dùng độc trị độc, bằng cách dạy người tu học tham khán công án. Bắt đầu là quán thoại đầu. Thậm chí phải nắm chặt câu thoại đầu trong từng sát na, mãi mãi không rời cho đến chết chẳng bỏ mất. Như chuột gặm quan tài, chỉ chuyên chú gặm một chỗ, không thông không ngừng. Mục đích là dùng một niệm để chế phục muôn niệm. Thật ra đây chỉ là biện pháp bất đắc dĩ; như thân bị mụn độc, nếu không dùng dao mỗ xẻ chữa trị thì khó mà sống nổi.
Nói không suy nghĩ việc thiện, lại đi suy nghĩ việc ác. Vì thế, chư Tổ Sư bất đắc dĩ mới chọn lựa biện pháp, dùng độc trị độc, bằng cách dạy người tu học tham khán công án. Bắt đầu là quán thoại đầu. Thậm chí phải nắm chặt câu thoại đầu trong từng sát na, mãi mãi không rời cho đến chết chẳng bỏ mất. Như chuột gặm quan tài, chỉ chuyên chú gặm một chỗ, không thông không ngừng. Mục đích là dùng một niệm để chế phục muôn niệm. Thật ra đây chỉ là biện pháp bất đắc dĩ; như thân bị mụn độc, nếu không dùng dao mỗ xẻ chữa trị thì khó mà sống nổi.
Công án của người xưa rất nhiều. Kẻ sau chuyên giảng xem khán thoại
đầu, như "quán thây chết này là ai" hay "trước khi cha mẹ sanh ra mặt
mũi chân thật của mình là gì". Từ từ các nơi xa gần thường dùng câu
thoại đầu "niệm Phật là ai".
Thật ra, tất cả câu thoại đầu đều đồng một dạng, và đều rất bình
thường, chẳng có chi là kỳ lạ. Ví như khi nói câu quán xem người tụng
kinh là ai, niệm chú là ai, lễ Phật là ai, ăn cơm là ai, mặc y áo là ai,
đi đứng là ai, ngủ nghỉ là ai, v.v... ý nghĩa của tất cả câu trên đều
như nhau. Giải đáp được chữ "ai", tức là thấy tâm. Lời nói từ tâm khởi.
Tâm dẫn đầu câu thoại đầu. Niệm từ tâm khởi. Tâm dẫn đầu ý niệm. Muôn
pháp từ tâm sanh. Tâm là đầu nguồn của muôn pháp. Thật vậy, thoại đầu
tức là niệm đầu. Niệm đầu tiên tức là tâm. Lúc một niệm chưa sanh thì đó
là thoại đầu. Do đó, chúng ta phải biết rõ rằng quán thoại đầu tức là
quán tâm. Khi cha mẹ chưa sanh, bản lai diện mục của chúng ta tức là
tâm. Lúc quán xem bản lai diện mục của chúng ta, trước khi cha mẹ sanh
ra, vốn là gì, thì đó là quán tâm.
Tánh tức là tâm. "Phản văn văn tự kỶ" tức là nghe lại tự tánh của mình, hay quán lại tự tâm. "Viên chiếu thanh tịnh giác tướng" tức là tướng giác ngộ thanh tịnh chiếu sáng tròn đầy. Thể tướng giác ngộ thanh tịnh tức là chân tâm. Chiếu tức là quán. Tâm tức là Phật. Niệm Phật tức là quán Phật. Quán Phật tức là quán tâm. Vì vậy, "quán thoại đầu" hay bảo "quán người niệm Phật là ai" tức là quán tâm, cũng là quán chiếu thể giác thanh tịnh của tâm mình, nghĩa là quán chiếu tự tánh Phật tánh. Tâm tức là tánh, là giác, là Phật, và vốn không có hình tướng hay phương hướng nhất định, nên không thể nắm bắt. Tánh chất của tâm vốn thanh tịnh, biến khắp pháp giới, không vào không ra, không đến không đi, tức là pháp thân thanh tịnh xưa nay của chư Phật.
Tánh tức là tâm. "Phản văn văn tự kỶ" tức là nghe lại tự tánh của mình, hay quán lại tự tâm. "Viên chiếu thanh tịnh giác tướng" tức là tướng giác ngộ thanh tịnh chiếu sáng tròn đầy. Thể tướng giác ngộ thanh tịnh tức là chân tâm. Chiếu tức là quán. Tâm tức là Phật. Niệm Phật tức là quán Phật. Quán Phật tức là quán tâm. Vì vậy, "quán thoại đầu" hay bảo "quán người niệm Phật là ai" tức là quán tâm, cũng là quán chiếu thể giác thanh tịnh của tâm mình, nghĩa là quán chiếu tự tánh Phật tánh. Tâm tức là tánh, là giác, là Phật, và vốn không có hình tướng hay phương hướng nhất định, nên không thể nắm bắt. Tánh chất của tâm vốn thanh tịnh, biến khắp pháp giới, không vào không ra, không đến không đi, tức là pháp thân thanh tịnh xưa nay của chư Phật.
Hành giả phải nhiếp giữ và hộ trì sáu căn; nơi một niệm vừa sanh
khởi, phải quán sát và chiếu cố câu thoại đầu. Khởi tâm quán sát cho đến
lúc tự tâm thanh tịnh rời niệm. Lại phải thầm lặng liên tục, điềm điềm
đạm đạm, tịch tĩnh mà quán chiếu, để nhìn thấu năm uẩn đều không, thì
mới liễu ngộ thân tâm tròn đầy tịch tĩnh, không còn một vật. Ngày đêm
sáu thời, đi đứng nằm ngồi đều như như bất động; lâu ngày công phu thâm
hậu thì có khả năng thấy tánh thành Phật, tức là trừ hết mọi khổ đau
nguy hiểm.
Khi xưa, tổ sư Cao Phong bảo:
- Hành giả thường xem khán câu thoại đầu như việc lượm đá ở dưới đáy
hồ sâu trăm thuớc. Nếu trong bảy ngày mà không khai ngộ thì hãy chặt đầu
lão tăng.
Quý vị đồng tham học ! Đây là lời của người xưa, vốn là chân ngữ thật ngữ, chứ không dối lừa gạt gẫm ai !
Tại sao trong đời nay, người quán thoại đầu thì nhiều, nhưng người
ngộ đạo thì chẳng được bao nhiêu ? Đây là do căn khí của người đời nay
không thể sánh bằng người xưa. Lại nữa, do người tu thiền chưa hiểu rõ
nghĩa lý của việc khán thoại đầu. Có người do thân tâm rối loạn nên tham
đông tầm tây, vào nam ra bắc, đưa đến kết quả là cứ lo làm việc ồn ào
huyên náo cho đến già; đối với một câu thoại đầu cũng không biết gì cả.
Không biết rõ thoại đầu thì làm sao tu thiền khán thoại đầu. Cả đời chỉ
lo chấp trước vào văn tự danh tướng, nên chỉ biết dụng tâm quán thoại
đuôi.
"Ai đang niệm Phật"! "Chiếu cố thoại đầu". Khán tới khán lui, tham
đi tham lại, vác câu thoại đầu đi khắp đông tây có lý nào ngộ được bản
nhiên vô vi của đại đạo ? Khi nào mới đạt đến địa vị pháp vương, không
đắm chấp tất cả muôn vật ? Mạt vàng rơi vào mắt, khiến bị mù lòa, làm
sao thấy vàng tỏa ánh hào quang được ! Thật đáng thương lắm thay ! Như
có một nữ nhi, lúc rời nhà học đạo với chí nguyện phi thường, nhưng kết
quả chẳng đạt gì hết, thật uổng phí công lao. Thật tiếc thay !
Cổ nhân bảo:
- Thà ngàn năm không ngộ đạo, còn hơn một ngày đi lạc đường.
Việc tu hành để ngộ đạo, tuy dễ mà khó và tuy khó mà dễ. Ví như mở
đèn điện, nếu biết cách, chỉ dùng một ngón tay, thì ánh sáng đèn sẽ
chiếu sáng, khiến ngàn năm u minh tăm tối liền mất. Nếu không biết cách
thì sẽ làm hư hoại dây điện bóng đèn, rồi phiền não ngày càng tăng
trưởng. Ví như có vài người tham thiền quán thoại đầu, khi gặp ma cảnh
thì phát điên phát cuồng, ho ra máu, bị bệnh tật, khiến lửa vô minh càng
cháy sáng, sự trước chấp về mình và người ngày càng nặng nề; có phải
rằng những điều này do sự chấp trước không ? Vì thế, người dụng công
tham thiền cần phải điều hòa thân tâm, khiến tâm bình khí hòa, không
ngăn không ngại, không còn thấy mình và người, thì khi đi đứng nằm ngồi,
đều phù hợp với huyền cơ vi diệu.
Khi tham thiền, không thể khởi tâm phân biệt. Bàn về chi tiết, lúc
khởi công phu tu đạo, người sơ cơ gặp những sự khó và dễ riêng. Người tu
lâu năm cũng có sự khó dễ riêng.
Những điểm khó khăn của người mới bắt đầu tham thiền ở nơi nào ? Khó
khăn ngay nơi thân tâm chưa thuần thục; chưa thông hay chưa rõ về cách
thức tu hành; do công phu không tiến triển được, nên trong tâm dần dần
sanh giải đãi, chỉ ngồi thiền ngủ nghê cho qua ngày tháng. Kết quả: "Năm
đầu tham thiền. Năm thứ hai là lão tham thiền. Năm thứ ba chẳng còn
tham thiền".
Ngược lại, cái dễ của người sơ cơ ở chỗ nào ? Chỉ cần thiết có tín
tâm đầy đủ, có tâm lâu dài, và dụng vô tâm, thì tu hành rất dễ. Tín tâm
có hai phần. Thứ nhất, tin tâm mình vốn là Phật; tâm đó cùng ba đời chư
Như Lai đều không khác biệt. Thứ hai, tin các pháp môn mà Phật Thích Ca
thuyết giảng, mỗi mỗi đều có thể cắt đứt dòng sanh tử, thành tựu quả vị
Phật. Bàn về tâm lâu dài, khi đã chọn một pháp môn thì phải hành trì
suốt cả đời, cho đến suốt đời vị lai cũng phải tu trì. Muốn tham thiền
thì phải tham khán cách như thế. Muốn niệm Phật hoặc trì chú thì cũng
phải hành trì như vậy. Người muốn học giáo lý thì phải hành trì theo thứ
tự: Văn, tư, tu. Dầu tu pháp môn nào đi nữa, điều quan trọng căn bản là
phải giữ giới. Nếu làm được như thế thì tương lai sao không thể thành
tựu đạo nghiệp được !
Ngài Quy Sơn bảo:
- Nếu ai có thể tu hành pháp này suốt ba đời mà không thối chuyển thì quả vị Phật quyết định sẽ có kỳ.
Ngài Vĩnh Gia cũng nói:
- Nếu dùng lời vọng ngữ dối gạt chúng sanh thì mãi mãi sẽ bị đọa lạc vào địa ngục cắt lưỡi hằng sa kiếp.
Gọi vô tâm, tức là xả bỏ hết tất cả, giống như người đã chết. Cả ngày
tùy theo nhân duyên mà làm việc, và không khởi một niệm phân biệt chấp
trước thì mới trở thành vô tâm đạo nhân.
Người sơ học nếu đã đủ ba tâm (tâm dài lâu, tâm kiên cố, và vô tâm),
khi tham khán câu thoại đầu "Ai đang niệm Phật", tức tự mình niệm thầm
câu "A Di Đà Phật", rồi khán xem người niệm Phật đó là ai, và niệm khởi
từ đâu ? Từ đâu khởi lên một niệm ? Nên biết một niệm chẳng khởi từ
miệng của mình, cũng không phải khởi lên từ nhục thân này. Nếu tâm niệm
khởi từ thân hay miệng thì khi chết đi, thân miệng vẫn còn đó, sao lại
không niệm được ? Nên biết rằng niệm khởi từ tâm, tức từ tâm mà có niệm
khởi. Nhìn thẳng chăm chăm vào, như mèo rình chuột; tập trung tất cả sức
lực tinh thần, chẳng sanh hai niệm. Chớ gấp gáp muốn mau thành tựu, vì
sẽ dễ dàng phát sanh sự chướng ngại của bịnh tật. Đi đứng nằm ngồi đều
phải như thế. Công phu lâu ngày nếu thâm sâu, như quả chín sắp rụng, thì
khi nhân duyên đến, đụng tới quả liền rụng, tức đột nhiên đại ngộ. Lúc
ấy như người uống nước, tự biết nóng lạnh, liền đạt đến nơi vô ngại, như
tại ngã ba đường, gặp được cha mình, nên được an lạc vô ngần.
Người tham thiền lâu năm gặp những việc khó dễ nào ? Gọi lão tham
thiền tức là người đã từng thân cận, gần gũi thiện tri thức, hay dụng
công nhiều năm, và đã từng trải qua một thời gian rèn luyện, nên thân
tâm thuần thục, biết rõ đường tu, tự tại dụng công, không sợ khổ nhọc.
Việc khó của các vị tham thiền lâu năm hay thượng tọa là trong cảnh giới
tự tại, sáng sủa rõ ràng, lại ngừng tu để hưởng thụ, như dừng chân tại
'Hóa-thành', không muốn đến 'Bảo-sở'. Do thường thích lắng tâm tịch tĩnh
chớ không thường thích để tâm dao động, nên không thể đắc được thọ dụng
chân thật. Thậm chí lúc gặp cảnh thì tình sanh, rồi cố chấp thủ và xả.
Tâm khởi niệm thích thú hay chán chường rõ rệt, nên cứ bị vọng tưởng thô và tế bó buộc. Lại nữa, nếu dụng công phu như băng giá đóng đá gạch thì không thể khởi tác dụng. Kế đến, dần dần sẽ sanh bệnh giải đãi, rồi cuối cùng không thể đắc quả khởi dụng. Quý vị tham thiền lâu năm và chư thượng tọa nếu biết rõ điều khó khăn này thì phải nên lập tức đề khởi câu thoại đầu, phấn chấn tinh thần; nơi cây tre trăm thước phải tấn thêm bước nữa, hay phải lặn sâu dưới đáy biển để đạt đến quả vị cao, để rồi mặc tình thỏng tay tung hoành, đi đó đây, lễ bái tương kiến Phật Tổ.
Tâm khởi niệm thích thú hay chán chường rõ rệt, nên cứ bị vọng tưởng thô và tế bó buộc. Lại nữa, nếu dụng công phu như băng giá đóng đá gạch thì không thể khởi tác dụng. Kế đến, dần dần sẽ sanh bệnh giải đãi, rồi cuối cùng không thể đắc quả khởi dụng. Quý vị tham thiền lâu năm và chư thượng tọa nếu biết rõ điều khó khăn này thì phải nên lập tức đề khởi câu thoại đầu, phấn chấn tinh thần; nơi cây tre trăm thước phải tấn thêm bước nữa, hay phải lặn sâu dưới đáy biển để đạt đến quả vị cao, để rồi mặc tình thỏng tay tung hoành, đi đó đây, lễ bái tương kiến Phật Tổ.
Thoại đầu tức là nhất tâm. Một tâm niệm của chúng ta không ở trung
gian trong ngoài, mà cũng trú tại chính giữa, trong, ngoài, giống như hư
không chẳng động mà biến khắp mọi nơi. Thế nên, không cần đề câu thoại
đầu lên cao hay cũng chẳng cần đề câu thoại đầu quá thấp. Đề khởi thoại
đầu lên cao quá thì sẽ bị trạo cử. Đề khởi thấp quá thì sẽ bị lạc vào
hôn trầm, trái ngược tâm tánh, chẳng phải trung đạo. Mọi người đều sợ
vọng tưởng, nên việc hàng phục chúng rất khó. Tôi xin thưa với quý vị
rằng chớ sợ vọng tưởng, cũng chẳng cần phí công sức hàng phục chúng. Quý
vị chỉ việc nhận rõ vọng tưởng, chứ không nên chấp trước vào chúng,
không chạy theo chúng, lại cũng chẳng cần đuổi dẹp chúng; chỉ việc ngưng
tâm niệm khởi liên tục, thì tự rời vọng tưởng. Vì vậy bảo rằng biết
vọng khởi, tức là giác ngộ; nghĩa là rời xa vọng tưởng.
Phải nên lợi dụng vọng tưởng mà hạ thủ công phu, như xem khán coi
chúng xuất phát từ chỗ nào. Nếu nhận ra vọng tưởng vốn vô tánh, bản thể
vốn không thì liền trở về tâm tánh bổn không của chúng ta. Tự tánh pháp
thân thanh tịnh của chư Phật ngay nơi đó liền hiện ra trước mắt.
Bàn về lý rốt ráo, chân và vọng vốn đồng một thể; chúng sanh và chư
Phật không hai; sanh tử và Niết Bàn, Bồ Đề và phiền não, chúng đều là
bổn tâm bổn tánh, mà không nên khởi tâm phân biệt như đắm chấp hay nhàm
chán hoặc thủ hay xả. Tâm thanh tịnh này, gốc vốn là Phật, chẳng cần
dùng một pháp. Lý này thật nhiều lời. Hãy tham khán!
PHÁP NGỮ CỦA THIỀN SƯ HƯ VÂN - Tỳ kheo Thích Hằng Đạt dịch
0 Kommentare:
Post a Comment