Muốn thực hiện hạnh lợi tha, phải có tinh thần dũng mãnh, xông pha vào chốn dầu
sôi lửa bỏng, hoan hỷ nguyện thay chúng sinh chịu vô lượng khổ. Được như vậy,
mới là hành giả Bồ tát Đại thừa. Đức Phật khi mới xuất gia đã phát bốn thệ
nguyện...
Hán dịch: Đại Sư An Thế Cao
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang
Giảng: Đại sư Tịnh Vân
Việt dịch: Thích Minh Quang
Bài 9: Tâm đại thừa
là căn bản phổ độ chúng sanh
Phiên âm:
Đệ bát giác tri: Sinh tử xí nhiên, khổ não vô lượng, phát Đại thừa tâm,
phổ tế nhất thiết, nguyện đại chúng sanh, thọ vô lượng khổ, linh chư chúng
sanh, tất cánh đại lạc.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ tám: Sinh tử luôn thiêu đốt, khổ não thật vô biên,
nên phát tâm Đại thừa, cứu độ khắp tất cả, nguyện thay thế chúng sinh, gánh
chịu vô lượng khổ, khiến cho tất cả loài, đều được đại an lạc.
Giảng giải:
Tám điều giác ngộ của Bồ tát mà Kinh này nói, điều thứ nhất là thế gian quan
của Phật giáo; điều thứ hai đến điều thứ bảy là nói nhân sinh quan của Phật
giáo. Điều giác ngộ cuối cùng này là tông yếu của Kinh, thuyết minh: Đại thừa
tâm là căn bản phổ độ chúng sinh.
Chúng ta đọc Kinh này từ đầu đến cuối đều nói về thế gian là vô thường, khổ
không, vô ngã, bất tịnh, cho đến ngũ dục là tai họa, đa cầu là tội lỗi, phải
lìa sinh tử, phải ra ba cõi, thì dường như thuộc về tư tưởng tiểu thừa. Nhưng
tông chỉ chính yếu của Kinh này là muốn người học Phật phát tâm đại từ bi, độ
khắp chúng sinh; thay chúng sinh đảm đương khổ nạn. Đây hoàn toàn là tư tưởng
Đại thừa nhập thế.
Tu học Tiểu thừa chỉ cầu giải thoát cho riêng mình, còn đối với việc cứu độ
chúng sinh thì không có một chút nhiệt tình. Cuộc sống độc thiện kỳ thân này,
mang nặng màu sắc chủ nghĩa cá nhân. Nhưng hành giả Đại thừa chẳng những cầu
giải thoát cho riêng mình, mà còn mang bi nguyện cứu đời giúp người, làm những
việc lợi lạc cho hữu tình trong xã hội. Đây chính là ý chỉ và tâm yếu của Kinh
này.
Đức Phật thuyết Pháp, trong rất nhiều Kinh điển đều lấy hàng Tỳ kheo làm đối
tượng. Nhưng Kinh Bát Đại Nhân Giác này lại thiên về Phật tử tại gia, nhằm
hướng dẫn hàng cư sĩ học Phật phải cải thiện cuộc sống như thế nào, nhận thức
thế gian như thế nào, cho đến phổ độ chúng sinh như thế nào.
Kinh văn của Kinh này tuy ngắn gọn, mà thật có thể đại biểu cho tư tưởng
Tiểu thừa, Đại thừa trong Phật giáo. Theo Kinh này, hành giả muốn tu học Bồ tát
đạo, bước đầu tiên phải tu Pháp môn Tiểu thừa. Cho nên, hành giả trước hết phải
đối với danh lợi giả dối trong thế gian triệt để buông bỏ, rèn luyện thân tâm,
tích cực chuẩn bị đạo lực đến mức không còn bị thế gian ô nhiễm, rồi sau mới
tùy nghi bước vào cuộc đời cứu giúp chúng sinh. Đây mới gọi là Bồ tát chân
chính.
Không luận là hành giả Tiểu thừa thiên về thoát ly thế gian, hay hành giải
Đại thừa thiên về phổ độ chúng sinh, cả hai đều có cái nhìn chung là: Sinh tử
thiêu đốt, khổ não vô biên.
Chúng sinh trong vòng luân hồi gây tạo biết bao tội lỗi. Thân phạm sát sinh,
trộm cướp, tà dâm; tâm đầy tham lam, sân hận, si mê. Những nghiệp tội vô lượng
vô biên đó, như ngọn lửa trong kiếp hỏa đốt cháy thế gian, thiêu đốt thân tâm,
khiến chúng sinh phải chịu biết bao khổ não. Nói đến khổ não vô lượng, trong
Kinh cũng tùy lúc nói có hai khổ, ba khổ, tám khổ v.v…. Tóm lại Ta bà là thế
giới khổ đau. Văn trước chúng tôi đã từng nói qua thân có các khổ về già bệnh
chết; tâm có các khổ về tham sân si ; gia đình có các khổ về ân ái biệt ly;
quyến thuộc có các khổ về không được hòa hợp; xã hội có các khổ về cầu muốn
không được, oán thù gặp nhau; quốc gia có các khổ về chiến tranh, giặc giã; thiên
nhiên có có các khổ về lũ lụt, động đất, giông bão….
Khổ chi phối thế gian, bức bách chúng sinh. Mục đích của chúng ta học Phật
là giải thoát đau khổ. Nhân sinh là khổ. Nhưng chúng ta cần phải hỏi: Khổ từ
đâu ra? Khổ từ đa dục mà ra. Đa dục từ chỗ nào có? Đa dục từ chấp ngã có. Vì
sao chấp ngã gây ra khổ? Vì sự tương quan giữa ngã chấp và pháp chấp không được
điều hòa. Có cái khổ do mình và vật mà có, đó là do mình mong cầu vật chất mà
không thỏa mãn. Có cái khổ do mình và người mà có, đó là do quan hệ đụng chạm
giữa ta và người. Có cái khổ do mìmh và thân tâm mà có, đó là già, bệnh, phiền
não, vốn đi theo, cùng có mặt với sinh. Có cái khổ do mình và dục vọng cộng với
nhận thức mà có, đó là do nội tâm chúng ta nhận thức sai lầm thế gian mà ra. Chúng
ta bị khổ não bao vây, không luận là ai, cũng đều có nguyện vọng chung là giải
thoát đau khổ. Cho nên trách nhiệm của Bồ tát là phải phát tâm Đại thừa, độ tất
cả chúng sinh thoát khỏi khổ ách.
Nói đến độ tất cả chúng sinh thoát khỏi khổ ách, có chia ra hai cách khác
nhau. Một là trước cứu độ mình rồi sau cứu độ người. Hai là trước cứu độ người,
còn mình chưa được độ vẫn không cần kíp lắm.
Trước cứu độ mình rồi sau mới độ người là bảo: Mình nếu chưa được độ, làm
sao có thể độ được người? Biển khổ mênh mông, chúng sinh chìm đắm, mình nếu
không biết bơi thì làm sao cứu với họ được? Vì vậy, muốn phổ độ tất cả chúng
sinh, trước hết mình phải liễu thoát sinh tử, không còn ưu bi khổ não.
Còn nói trước độ người mà mình chưa được độ, đây mới là Bồ tát phát tâm. Học
Bồ tát là ngay nơi chúng sinh mà học. Bồ tát lìa chúng sinh ra cũng không gọi
là Bồ tát. Lúc cứu độ chúng sinh viên mãn, cũng là lúc Bồ tát đạo của mình viên
mãn.
Không luận là nói cách nào, đã phát tâm Đại thừa học đạo, nguyện độ khắp tất
cả chúng sinh, thì việc trọng yếu hơn hết là hoằng Pháp lợi sinh. Đối với Bồ
tát, hoằng Pháp là bổn phận tất nhiên, lợi sinh là hoài bão xưa nay, không một
chút chần chờ, do dự. Đây chính là thái độ Bồ tát Đại thừa đối với cuộc đời.
Nói phát tâm Đại thừa, vậy thế nào là tâm Đại thừa? Phật giáo chia ra Đại thừa
và Tiểu thừa. Đại thừa là chỉ Bồ tát, Tiểu thừa là chỉ Thanh văn, Duyên giác,
mà trong Kinh Pháp Hoa dùng xe dê, xe nai và xe trâu trắng lớn để tỉ dụ.
Thanh văn chỉ có thể tự độ, không thể độ người, như xe dê không thể chở đồ.
Duyên giác có thể độ mình và thân thuộc, như xe nai chở được một ít đồ. Bồ tát
tự độ lại có thể phổ độ chúng sinh, như xe trâu trắng lớn có thể chở mọi thứ
hàng hóa. Phát tâm Đại thừa nói ở đây, cũng chính là tâm Bồ tát độ khắp tất cả
chúng sinh.
Tâm Đại thừa bao hàm tâm Bồ đe? tâm đại bi và tâm phương tiện. Tâm Bồ đề là
hạt giống (nhân), tâm đại bi là gốc rễ (bản), tâm phương tiện là hoa trái (cứu
cánh). Một hành giả Bồ tát phát tâm, nhất định phải có đủ ba tâm nói trên, mới
gọi là phát tâm Đại thừa.
Phát tâm Bồ đề là phát tâm trên cầu Phật đạo. Nói Phật đạo, là phải trải qua
ba đại a tăng kỳ kiếp mới đạt được. Không phát tâm Vô thượng Bồ đề, làm sao qua
được sự khảo nghiệm lâu xa như vậy? Kinh nói: Trong đời có một người phát tâm
Bồ đề, là có thêm một hạt giống thành Phật. Học Phật không phát tâm Bồ đề, như
thửa ruộng không gieo giống, thì làm sao có ngày gặt hái? Tâm Bồ đề chính là tâm
thệ nguyện, có tâm thệ nguyện mới có thể thành tựu. Phát tâm Bồ đề là phát bốn
lời thệ nguyện rộng lớn (tứ hoằng thệ nguyện):
Chúng sinh vô biên, thệ nguyện độ
Phiền não vô tận, thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng, thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng, thệ nguyện thành.
Đây chính là tâm Bồ đề của Đại thừa.
Đây chính là tâm Bồ đề của Đại thừa.
Phát tâm Đại bi là phát tâm dưới độ chúng sinh. Bồ tát dưới độ chúng sinh
phải phát tâm đại từ vô duyên, đại bi đồng thể, xem khổ nạn của chúng sinh là
khổ nạn của mình, xem niềm vui của chúng sinh là niềm vui của mình, độ chúng
sinh mà không mong cầu báo đáp, thấy việc phục vụ chúng sinh là lẽ đương nhiên.
Nguyện thay chúng sinh, chịu vô lượng kho?mà Kinh này nói, chính là tâm đại bi
của đại thừa.
Phát tâm phương tiện là phát tâm thực hành bốn nhiếp pháp. Chúng sinh căn
tánh bất đồng, muốn giải cứu đau khổ cho chúng sinh, cần phải có nhiều phương
tiện khéo léo. Đức Phật từng quán sát căn tánh chúng sinh mà tùy duyên thuyết
Pháp, nói ra bốn muôn tám ngàn Pháp môn. Đây chính là đức Phật có phương tiện độ
sinh.
Bồ tát thực hành bốn cách nhiếp hóa (tứ nhiếp pháp): Bố thí, ái ngữ, lợi
hành, đồng sư, để khiến các chúng sinh, được đại an lạc. Đây chính là tâm
phương tiện.
Bao gồm cả ba tâm: tâm Bồ đề, tâm đại bi, tâm phương tiện, đó chính là tâm
Đại thừa. Phát tâm Đại thừa cứu độ chúng sinh, cần phải làm được chuyện khó
làm, nhẫn được việc khó nhẫn. Nếu không, tâm Đại thừa không dễ gì phát khởi.
Thuở quá khứ, Xá Lợi Phất khi còn ở nhân địa tu tập chuyển từ Tiểu thừa lên
Đại thừa, sắp chứng vào bậc Thất địa Bồ tát bất thoái, thì có vị trời muốn đến
thử tâm Đại thừa của Ngài. Vị trời ấy hóa là một người con hiếu, đang ngồi than
khóc bên đường. Xá Lợi Phất đi ngang trông thấy hỏi:
- Xin hỏi sao lại ngồi ở đây mà khóc? Có chuyện gì xảy ra vậy?
- Không liên can gì đến Ngài, xin để cho tôi yên.
- Hãy nói cho tôi biết, tôi là đệ tử Phật thương yêu giúp đỡ mọi người. Ông
có điều gì khó khăn, xin nói ra tôi sẽ giúp.
- Việc của tôi tôi sợ Ngài không giúp được!
- Ông hãy nói cho tôi nghe xem!
Xá Lợi Phất giục.
Lúc đó vị ấy mới than thở:
- Mẹ tôi chẳng may bị mắc chứng bệnh nan y. Thầy thuốc bảo phải dùng mắt
người sống hòa với thuốc uống mới hết. Nhưng người này phải là bậc Thánh tu
hành! Ngài nghĩ xem, mắt người sống đã là khó kiếm, lại cón phải là mắt của bậc
Thánh tu hành thì kiếm đâu ra? Nghĩ đến mẹ tôi không cách nào cứu được, nhất
định phải chết, nên tôi đau lòng than khóc.
Nghe xong, Xá Lợi Phất mỉm cười, từ hòa nói với người ấy:
- Được rồi, ông cứ an tâm, tôi sẽ giúp cho!
- Thật ư?
- Không sai chút nào! Nói cho ông biết, tôi là người đã chứng quả, đã phát
tâm Đại thừa đem những vật ngoài thân ra thí cho chúng sinh. Nay có cơ hội đem
vật trong thân ra cho chúng sinh, xin ông hãy móc mắt tôi!
Nói xong, Xá Lợi Phất điềm nhiên đứng cho người kia móc mắt. Song người đó
xua tay bảo:
- Làm như vậy không được! Tôi không dám móc mắt Ngài, vì đây là việc làm
phạm pháp. Nếu ông hoan hỷ cứu mạng mẹ tôi, xin hãy tự móc mắt lấy!
Xá lợi Phất nghe nói có lý, liền tự tay móc mắt bên trái ra, ráng chịu đựng
cơn đau nói với người ấy:
- Ông hãy cầm lấy, cầu nguyện mẹ ông sớm bình phục.
Nhưng người kia cũng lại xua tay nói:
- Thầy thuốc bảo phải con mắt bên phải mới được! Con mắt bên trái của Ngài
tôi đâu có cần?
Xá Lợi Phất nghe xong, giật mình thất sắc, nghĩ bụng:
- Thật là không may! Con mắt bên trái đã móc ra rồi, còn lại con bên phải để
nhìn, nay biết làm sao?
Ông tự trách mình sao vô ý, không hỏi trước cần con bên nào! Kế đó, Xá Lợi
Phất lại nghĩ: Các bậc thánh xưa tu học Bồ tát đạo, phát tâm Đại thừa, trải qua
nhiều đời nhiều kiếp xả bỏ đầu mắt tủy não bố thí cho chúng sinh. Ta nay sao
lại không làm được? Cứu người phải tới nơi tới chốn. Con mắt bên trái không
dùng được, thì cho con mắt bên phải. Suy nghĩ như vậy xong, Ngài bèn dũng mãnh
móc con mắt phải ra cho người kia. Nhưng người ấy cầm lấy con mắt đưa lên mũi
ngửi, liền quăng xuống đất, lấy chân chà đạp lên, mắng rằng:
- Ông là bậc thánh gì mà tròng mắt lại hôi tanh như vậy? Đâu có thể đem làm
thuốc để trị bệnh cho mẹ tôi!
Xá Lợi Phất lúc ấy tuy mù, nhưng tai vẫn nghe biết người đó quăng mắt mình
xuống đất rồi chà đạp lên, lại nghe lời mắng chửi nên nản lòng, suy nghĩ: Ông
cần con mắt người sống là thứ không thể tìm được. Tôi vì phát tâm Đại thừa, phổ
độ chúng sinh nên móc mắt cho ông. Thế mà mắt bên trái ông nói vô dụng, mắt bên
phải ông chê tanh hôi, tôi có gì lầm lỗi với ông mà ông lại mắng tôi!
Xá Lợi Phất lúc ấy không còn lòng nào nghĩ chuyện cứu độ chúng sinh, vô cùng
chán nản, cảm thấy chúng sinh khó độ, nên không phát tâm Đại thừa nữa.
Đây là một đoạn đường trải qua của Xá Lợi Phất khi ở nhân địa tu hành trong
thuở quá khứ.
Qua đó ta có thể thấy, tâm Đại thừa thật khó phát vô cùng. Song chúng ta
không nên sợ khó. Do chúng ta có quan niệm phân biệt đối đãi giữa mình và chúng
sinh, nên không có tâm đại bi đồng thể. Nếu chúng ta có thể lìa được bốn tướng:
ngã, nhân, chúng sinh, thọ gia như Kinh Kim Cang nói, thì tâm Đại thừa phổ độ
chúng sinh sẽ phát khởi.
Muốn thực hiện hạnh lợi tha, phải có tinh thần dũng mãnh, xông pha vào chốn dầu
sôi lửa bỏng, hoan hỷ nguyện thay chúng sinh chịu vô lượng khổ. Được như vậy,
mới là hành giả Bồ tát Đại thừa. Đức Phật khi mới xuất gia đã phát bốn thệ
nguyện:
1. Nguyện cứu khổ ách cho chúng sinh.
2. Nguyện trừ hoặc chướng cho chúng sinh
3. Nguyện đoạn tà kiến cho chúng sinh.
4. Nguyện độ chúng sinh khỏi vòng sinh tử.
Bốn tâm nguyện này, cũng chính là tâm Đại thừa của Bồ tát.
Kinh Hoa Nghiêm nói: Không cầu an lạc cho riêng mình
Chỉ nguyện chúng sinh được hết khổ.
Chỉ nguyện chúng sinh được hết khổ.
Đây là tâm Đại thừa độ khắp tất cả chúng sinh của Bồ tát. Như Bồ tát Văn Thù
thì đại trí, Bồ tát Phổ Hiền thì đại hạnh, Bồ tát Quan Âm thì đại bi, Bồ tát
Địa Tạng thì đại nguyện, đây đều là những nhân vật đại biểu sự phát tâm Đại
thừa, đáng cho chúng ta noi theo.
Tóm lại, chỉ mong riêng mình khỏi khổ, là hạng người bình thường (đương
nhiên cũng có người vì căn tánh hạ liệt không mong thoát khổ, thích ngồi trong
lao ngục); mong người khác thoát khổ, là hạng người có tâm thiện lớn; mong thay
thế chúng sinh chịu khổ, đây là hàng Bồ tát phát tâm Đại thừa. Những bậc Bồ tát
phát tâm Đại thừa như Bồ tát Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Địa Tạng đều có thể
khiến các chúng sinh, được đại an lạc nơi Niết bàn thanh tịnh giải thoát.
Dịch Thơ:
Điều thứ tám nhớ ghi giác biết
Lửa tử sinh muôn kiếp đốt thiêu Chúng sinh khổ não đủ điều Xưa nay không biết bao nhiêu đọa đày. Phát tâm lớn chịu thay đau khổ
Hạnh Đại thừa rộng độ quần sinh
Khiến cho tất cả hữu tình
Đồng lên bờ giác thanh bình an vui.
Lửa tử sinh muôn kiếp đốt thiêu Chúng sinh khổ não đủ điều Xưa nay không biết bao nhiêu đọa đày. Phát tâm lớn chịu thay đau khổ
Hạnh Đại thừa rộng độ quần sinh
Khiến cho tất cả hữu tình
Đồng lên bờ giác thanh bình an vui.
0 Kommentare:
Post a Comment