biết rõ cuộc đời là vô thường, mạng sống chỉ trong
hơi thở, phải nổ lực tiến tu, chẳng lẽ ngồi chơi nhàn nhã cho qua ngày tháng,
chẳng là ngu dại lắm ư!
QUI SƠN CẢNH SÁCH
Thiền Sư Linh Hựu
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch
Thiền Sư Linh Hựu
Hòa Thượng Thích Thanh Từ Việt dịch
TỰA
Quyển
Qui Sơn Cảnh Sách là một quyển luận của Thiền sư Linh Hựu. Do Ngài ở tại núi
Qui, người đương thời nể trọng đức hạnh không dám gọi tên, nên dùng tên núi để
gọi Ngài ; vì vậy Ngài có tên là Qui Sơn. Quyển luận này nhằm mục đích nhắc nhở
người xuất gia phải nổ lực tu hành, để được giải thoát nên được đề tựa là Cảnh
Sách; “Qui Sơn Cảnh Sách” là luận Cảnh Sách của Ngài Qui Sơn.
Đây
là bộ luận mà trong thiền môn nói riêng, giới xuất gia nói chung, coi như kinh
của Phật. Thế nên ai xuất gia vào chùa, trong thời gian đầu học làm Sa Di, đều
phải học thuộc lòng ba quyển gọi là Phật Tổ Tam Kinh; Kinh Tứ Thập Nhị Chương,
Kinh Di Giáo, Qui Sơn Cảnh Sách.
Hai
quyển đầu là lời Phật dạy được gọi là kinh thì đúng. Quyển Cảnh Sách của Ngài
Qui Sơn đáng lý phải gọi là luận, tại sao lại gọi là kinh? Các vị thuở xưa thấy
lời chỉ dạy sách tấn của Ngài rất thiết yếu, vừa thích hợp với chân lý, vừa phù
hợp với căn cơ mọi người, nên các vị xem như lời Phật dạy, vì vậy mà gọi là
kinh. Quyển Qui Sơn Cảnh Sách đối với tất cả những người xuất gia còn trẻ,
trong thời tập sự đã phải học thuộc lòng rồi. Nhưng hôm nay tôi đem ra giảng,
vì đây là tác phẩm của một thiền sư (Tổ Qui Sơn) thuộc đời thứ tư sau Lục Tổ:
1.Nam Nhạc Hoài
Nhượng
2.Mã Tổ Đạo Nhất
3.Bá Trượng Hoài Hải
4.Qui Sơn Linh Hựu
Ngài sinh năm 771
tịch năm 853. Quyển sách này ra đời vào khoảng cuối thế kỷ thứ tám hoặc đầu thế
kỷ thứ chín. Ngài giáo hóa trên núi Qui, nơi đây có hơn 1500 thiền sinh qui tụ tu
tập, nên Ngài có lời cảnh sách để răn nhắc chung toàn chúng. Lời Ngài chẳng
những có giá trị về đạo lý, mà còn có giá trị về văn chương, nên được trong
thiền môn dùng để sách tấn toàn thể Tăng Ni. Bởi có giá trị như thế nên sau này
có nhiều nhà giải thích:
1.Đời Tống, Ngài Thủ Toại chú
đề tựa là “Qui Sơn Cảnh Chú” (1 quyển)
2.Đời Minh, Ngài Đạo Bá giải đề
tựa là “Qui Sơn Cảnh Sách Chỉ Nam”
Quyển này nằm trong bộ Phật Tổ Tam Kinh (1 quyển)
3.Đời Minh, Ngài Hoàng Tán chú,
Ngài Khai Quýnh ký, đề tựa là “Qui Sơn Cảnh Sách Cú Thích Ký” (2 quyển). Tập
sách này được các chùa đặc biệt dùng, vì cho lời giải của hai vị này đầy đủ
nhất.
4.Đời Minh, Ngài Đại Hương chú giải đề tựa là “Cảnh Sách Chú”
(1 quyển).
Dịch
từ Hán sang Việt , có các vị:
1.Hòa Thượng Hành Trụ dịch từ quyển “Qui Sơn Cảnh Sách Cú
Thích Ký” của Ngài Hoàng Tán và Khai Quýnh.
2.Pháp sư Kiểu dịch bản “Qui Sơn Cảnh Sách Chỉ Nam” của Ngài Đạo
Bá.
3.Hòa Thượng Trí Quang dịch đề tựa là “Qui Sơn Cảnh Sách
Văn” in trong tập luật Sa di và Sa di ni.
4.Thầy Hoàn Quan dịch trong Phật Tổ Tam Kinh.
Chánh văn “Qui Sơn Cảnh Sách” vừa cô đọng
vừa có âm điệu, nên ở đây tôi giảng chánh văn để quí vị thấy giá trị văn chương
và ý nghĩa cô đọng trong lời Ngài dạy. Trước giải thích tên luận.
PHẦN 1
Qui Sơn Cảnh Sách
Qui Sơn Cảnh Sách
“Qui
Sơn” là ngọn núi Qui, nơi Thiền Sư Linh Hựu giáo hóa bốn chúng. “Cảnh Sách” .
Cảnh là đánh thức những người đang mê chưa ngộ. Người tu chúng ta tuy đã phát
tâm xuất gia học đạo, song còn mê say trong dục lạc, thường quên lãng việc tu
hành. Nên Ngài dùng phương tiện đánh thức chúng ta nhớ lại bổn phận và trách
nhiệm củangười xuất gia để nổ lực tiến tu, đó là cảnh. Sách nghĩa là roi da.
Thường người cỡi ngựa muốn cho ngựa chạy nhanh, dùng roi da tróc tróc cho nó
chạy. Cũng vậy, muốn sách tấn thúc đẩy người ta cũng phải dùng lời đểrăn nhắc
cho tiến. Tông chỉ của bộ luận này, chủ yếu của Tổ là đánh thức người tu chúng
ta nổ lực tiến tới chổ cứu cánh của người xuất gia.
Chánh Văn:
“Phù
nghiệphệ thọ thân , vị miển hình lụy. Bẩmphụ mẫuchi di thể, giả chúng duyên nhi
cộng thành. Tuy nãi tứ đại phù trì, thường tương vi bội. Vô thường lão bịnh bấtdữ
nhân kỳ. Triêu tồn tịch vong, sát na dị thế. Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc
hốt tức vô; ngạn thọ, tỉnh đằng, khởi năng trường cửu. Niệm niệm tấn tốc, nhất
sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không quá?”.
Dịch:
Bởi
do nghiệp trói buộc mà có thân, tức chưa khỏi khổ lụy về thân. Bẩm thụ tinh cha
huyết mẹ, tạm mượn các duyên hợp thành. Tuy nhờ tứ đại giử gìn, nhưng chúng
thường trái nghịch.Vô thường, già, bịnh chẳng hẹn cùng người. Sáng còn tối mất,
chỉ trong khoảng sát na đã qua đời khác. Ví như sương mùa xuân, mốc sáng sớm,
phút chốc liền tan. Cây bên bờ vực, dây trong miệng giếng há được lâu bền. Niệm
niệm qua nhanh, chỉ trong khoảng sát na, chuyển hơi thở đã là đời sau, sao lại
an nhiên để ngày tháng trôi suông vô ích?.
Giảng:
“Phù nghiệp hệ thọ thân, vị
miển hình lụy”. Do nghiệp trói buộc lôi cuốn nên chúng ta phải thọ nhận thân
này. Sau khi thọ nhận thân này rồi thì sao? “Vị miển hình lụy”, tức chưa khỏi
được cái khổ lụy về thân. Ngài nói có sự trùng hợp với Lão Tử: “Ngô hữu đại
hoạn vị ngô hữu thân”, vì ta có thân nên có họa lớn. Lão Tử thấy do có thân nên
có họa, song chưa nói đến nguyên do nào mà có thân.Tổ Qui Sơn nhìn theo con mắt
của nhà tu Phật. Ngài thấy thân chúng ta sở dĩ có đây không phải ngẩu nhiên mà có,
mà là do nghiệp chướng buộc lôi kéo chúng ta ra đây thì không thể nào tránh
khỏi đau khổ. Đó là Ngài chỉ rõ nguyên nhân của sự đau khổ khi mang thân này.
Nhưng tại sao nghiệp lôi mình được và sao mình dại dột để cho nghiệp lôi? Vấn
đề này tôi sẽ dẫn vài thí dụ nhỏ để quý vị thấy. Đây là chúng ta tìm tột cùng
cái nguyên nhân thuở trước, khi chúng ta chưa có thân này, do cái gì thúc đẩy lôi
cuốn chúng ta có thân? “ Cái thúc đẩy lôi cuốn” trong nhà Phật gọi là “
nghiệp”. Nhưng nó lôi cuốn bằng cách nào? Kinh Phật nói, con người có ba nghiệp
là thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thân, miệng, ý tạo tác thành nghiệp rồi,
thì nghiệp thúc đẩy lôi cuốn chúng ta phải thọ thân sau và tùy theo nghiệp
thiện hay ác mà dẫn chúng ta đến chỗ tốt hay xấu. Vậy nghiệp là gì? Nghiệp là
động tác của thân, miệng, ý; động tác ấy lập đi lập lại nhiều lần thành thói
quen, và khi đã thành thói quen, thì nó có sức mạnh chi phối, dắt dẫn con người
theo nó. Với mắt phàm tục thì không thấy biết nghiệp, nhưng đối với bậc thánh
giả thì thấy có bạchnghiệp và hắc nghiệp. Nên khi nhìn người, bậc thánh giả
biết người ấy có chủng nghiệp lành hay dữ. Do trước kia tạo nghiệp lành hay dữ,
khi sanh thân hoặc khổ hoặc vui; đó là nói theo tương đối thế gian. Còn nói
theo đây thì dù cho thân sang hèn nghèo giàu gì cũng đều khổ hết, đó là tinh
thần khổ đế của đạo Phật. Như vậy, do tạo nghiệp mà phải thọ thân sau, nên quí
vị không lấy làm lạ, khi nghe các vị tu hành đắc đạo nói quá khứ, vị lai của
một người nào đó, là do mắt huệ của các Ngài thấy được thiện nghiệp hay ác
nghiệp của vị đó, và cũng không làm lạ đối với những nhà tướng số, căn cứ trên
phước tướng nhiều ít mà đoán đúng hậu vận của con người. Thế nên nhiều người cho
rằng mình có sẵn số mạng như thế nên thầy coi trúng. Nhưng trúng với ai và trật
với ai? Chỉ trúng với những người dung thường, khi sanh ra họ cứ theo nghiệp cũ
mà sống, không biết chuyển đổi nghiệp. Nhưng đối với những người hơi phi thường
thì số mạng có đổi; chẳng hạn như những người xuất gia. Tử vi của mọi người
chung chung là lớn lên lập gia đình có con cái, có chức phận v.v… Nhưng với người
khoảng 15 tuổi xuất gia thì không có gia đình, không có con, không có chức
phận, như vậy là đã cải số rồi. Nếu cho số mạng là cái định sẵn mà mọi người
phải y theo đó để sống, không thể chuyển đổi thì quá lầm lẫn. Nghiệp có thể
chuyển được, chuyển từ nghiệp dữ thành nghiệp lành và ngược lại. Thế nên có lắm
người trước thì say mê trong dục lạc, sau bừng tỉnh xa lìa dục lạc trở thành
người cao thượng, và cũng có người tốt, gặp duyên bạn bè hư đốn quyến rủ chạy
theo làm điều xấu ác. Nói đến nghiệp là nói đến động tác của thân, khẩu, ý và
động tác ấy có thể chuyển đổi từ xấu trở thành tốt và từ tốt trở thành xấu.
Nay nên biết nghiệp chi phối
lôi kéo con người như thế nào? Thí dụ một người có thói quen mở radio nghe
nhạc, vào mỗi tối lúc 8 giờ, đêm nào cũng thế, thành thói quen. Bỗng một hôm
radio hư không nghe được nhạc, người ấy cảm thấy buồn buồn, ngay lúc đó nhà
hàng xóm mở radio, thói quen thúc đẩy người ấy tìm tới để nghe nhạc. Thói quen
(nghiệp) không có hình tướng nhưng có sức mạnh thúc đẩy, chi phối con người làm
theo nó. Đó là thói quen của tai. Bây giờ là thói quen của miệng, có ngườikhi nghe
nhạc thì miệng huýt sáo ca hát, tay chân nhịp theo điệu nhạc. Một hôm đến chỗ
trang nghiêm. Lý đáng phải ngồi nghiêm chỉnh, nhưng ngồi một hồi cảm thấy buồn
bèn nhịp đùi huýt sáo, vì đã thành thói quen rồi. Còn có những thói quen tệ hơn
nữa là hút thuốc, ăn trầu, uống rượu, hút á phiện v.v… Vậy động lực nào bắt con
người hút thuốc, ăn trầu, uống rượu? Có phải tại thói quen chăng? Thói quen trở
thành tập nhiễm và có sức mạnh thôi thúc khiến con người làm theo nó. Nhà Phật
gọi đó là nghiệp, chính nghiệp mình tạo rồi trói buộc và mình đi thọ sanh mà
mình không hay biết, tưởng lý do này lý do kia bắt mình sinh ra đời, bắt mình
chịu khổ. Tất cả chỉ là cái duyên bên ngoài, mà động lực chính là nghiệp lành
hay nghiệp dữ khiến cho mình khổ hay vui. Điều mà mọi người phải ghi nhớ là
thân không tạo nghiệp ác mà tạo nghiệp thiện, miệng không nói lời hung dữ mà
nói lời lành, ý không nghĩ ác mà nghĩ thiện; cứ như thế mà chuyển nghiệp thì
mình làm chủ được mình không bị nghiệp sai sử. Và chúng ta có đủ can đảm, đủ sức
mạnh xây dựng, sắp đặt cho cuộc sống ngày mai của chính mình và chịu đựng những
gì xảy đến, mà không than trách ai cả. Nếu không hiểu như thế cứ để cho dòng
định mệnh lôi cuốn tới đâu thì tới. Người hiểu rõ nghiệp và biết tu thì phải
gắng mà chuyển nghiệp, người tu là những con thuyền vững lái, gió mặc gió, nước
mặc nước, chúng ta cứ nhắm đích mà tiến, chớ để gió dập nước cuốn. Nói đến
nghiệp là nói đến sức mạnh tự chủ, không phải là thái độ yếu đuối phó mặc cho
số mệnh, để rồi việc không xong, hỏng thì đổ thừa cho nghiệp.
Đây, Tổ Qui Sơn chỉ cho chúng
ta thấy cái nhân có thân này là do nghiệp, hoặc nghiệp lành nghiệp dữ; nếu thọ
thân trong cảnh tốt được sung sướng an vui là do tạo nghiệp thiện, còn thọ thân
trong cảnh xấu chịu khổ đau là do tạo nghiệp ác. Biết được khổ vui là do nghiệp
mình tạo, để gan dạ chịu, không than oán khi gặp khổ, và cố gắng chuyển nghiệp ác
thành nghiệp thiện, nếu ta còn luân hồi. Hoặc gan dạ cắt dứt mọi trói buộc của
nghiệp để được tự tại trong tam giới, đó là tu. Ngược lại biết rõ nghiệp, mà vẫn
đầu hàng, phó mặc cho nó chi phối lôi trì, là không biết tu vậy. Còn taọ nghiệp
là phải thọ thân, mà có thân thì khổ, vì thân này vô thường hoại diệt, dù là
vua chúa hay ăn mày cũng không thoát khỏi vô thường, nên gọi là hình lụy. Có thân
là có đủ các nỗi khổ nào là sanh, già, bịnh, chết, thương yêu xa lìa, thù oán
gặp gỡ… Chỉ khi nào cắt dứt nghiệp thì không thọ thân và dứt luân hồi sanh tử. Không
thọ thân không có nghĩa trở thành hư không, mà lúc ấy muốn độ ai thì tùy nguyện
đến cứu giúp họ. Khi làm xong việc rồi đi một cách tự tại, chớ không bị nghiệp chi
phối ép ngặt.
“Bẩm phụ mẫu chi
di thể, giả chúng duyên nhi cộng thành”. Chúng ta do nghiệp mà có thân. Vậy có
thân bằng cách nào? Do sự luyến ái giữa cha mẹ, mà tinh cha huyết mẹ hợp lại
thành bào thai, rồi do nghiệp thúc đẩy thần thức gá vào bào thai. Bào thai ấy
nhờ tứ đại bên ngoài bồi bổ từ từ qua sự hô hấp ăn uống của mẹ, lớn dần thành
hình tướng, đầy đủ các bộ phận. Và sau khi ra khỏi lòng mẹ, lại cũng nhờ tứ đại
bên ngoài bồi bổ nuôi dưỡng lớn lên.
“Tuy nãi tứ đại
phù trì, thường tương vi bội”. Tuy rằng thân này do tứ đại phụ giúp để nó được
tồn tại. Nhưng trong khi gìn giữ nó vẫn thường trái nhau. Vì đất không ưa gió,
nước không ưa lửa, lửa gặp nước lửa tắt, đất gặp gió đất rung rinh. Nếu bốn đại
mất quân bình thì thân không an. Khi gió thạnh thì thân đau nhức, khi đất thạnh
thì hơi không thông, khi nước nhiều lửa ít thì thân ốm gầy… Con người tuy có
nhiều bịnh, song chỉ do bốn đại bất hòa mà ra. Muốn cho thân an ổn phải điều hòa
bốn đại, nếu thấy đại nào mạnh thì hạn chế, đại nào yếu thì bồi bổ thêm, khéo
điều hòa thì nó tồn tại, không khéo điều hòa thì nó tan rã. Trong sự chung hợp
đó luôn có sự chống trái nhau, không bao giờ an ổn, chẳng khác nào kẻ nuôi giặc
trong nhà. Đã nuôi giặc trong nhà thì dù chúng ta có khôn ngoan thế mấy, cũng
không tránh khỏi chuyện nổi loạn. Vì vậy mà từ xưa đến nay có nhiều người Ấn Độ
tập Yoga, và ở Trung Hoa thì vận khí công luyện đơn, để giữ cho thân này sống
lâu. Tuy mọi người cố duy trì mạng sống lâu dài, nhưng chẳng mấy ai được như ý.
Nếu khéo giữ lắm chỉ được vài trăm năm rồi cũng mất. Biết là giặc trong nhà mà
muốn giữ nó còn mãi mãi, thì đó là quan niệm sai lầm. Chúng ta chẳng khác nào
kẻ đi biển bị chìm thuyền, vớ được gốc cây mục, nương theo nó để vào bờ. Nếu nghĩ
rằng nhờ gốc cây này mà mình khỏi chết chìm, rồi ôm gốc cây giữnó mãi, đó là
quan niệm sai lầm. Đạo Phật không có quan niệm đặt nặng thọ mạng dài ngắn, mà
chỉ biết ngày nay có thân, phải biết lợi dụng nó tiến tu cầu giải thoát. Chỉ
cần nương nó để tới bờ an ổn, khi tới bờ rồi nó trở thành vô nghĩa. Chúng ta
phải hiểu rõ đạo Phật lấy giác ngộ làm chính, chớ không phải giữ thân sống lâu
làm chính. Còn những pháp tu ngoại đạo thì đặt nặng sự duy trì thọ mạng lâu
dài, nên ai cũng thích, nhưng đâu ngờ ái thân là gốc của luân hồi. Thế nên đạo
Phật không bao giờ đề cập đến sống lâu, mà cốt làm sao cho giác ngộ, nghĩa là phải
dứt ái, vì gốc của ái là chấp ngã. Nên trong khi tu nếu bị bệnh, nhờ cái bịnh
đó thấy thân này sắp hư hoại, không còn luyến ái nó, sẽ được thoát khỏi luân
hồi. Đó là chủ yếu của sự tu hành. Vì thế, mở đầu Tổ Qui Sơn chỉ cho chúng ta
thấy có thân là có khổ, vì nó là cái bại hoại.
“Vô thường lão
bịnh bất dữ nhân kỳ”.Vô thường ở đây chỉ cho già bịnh chết. Cái già, cái bịnh,
cái chết nó chẳng hẹn với người. Chẳng hạn như tôi đây lo tu, lo làm Phật sự
nhìn lại thì đầu đã bạc, răng đã rụng! Hòa Thượng Giám Đốc cũng đã từng nói:
Tôi còn hai việc phải làm là sửa sang lại Đại Tòng Lâm và xây dựng cơ sở phiên
dịch, thế mà tuổi tác không cho phép tôi làm. Ngài muốn làm lắm, song thấy vô
thường sắp đến không còn làm kịp, vô thường chẳng hẹn với ai cả. Hiện tại tôi
hứa hướng dẫn quí vị tu học ba năm, nhưng biết đâu nửa chừng bị ngã bịnh, hoặc
cái chết nó đến. Đã biết rõ vô thường không hẹn, thế nên hôm nay làm được việc
gì hãy làm, chớ hẹn ngày mai. Đừng nghĩ tôi mới hai mươi tuổi vội gì tu, tôi có
thể sống tám mươi tuổi kia mà, chừng già tu cũng chẳng muộn. Nhưng có ngờ đâu
mới ba mươi tuổi lăn đùng ra chết, chết rồi làm sao tu? Trong kinh Tứ Thập Nhị
Chương Phật nói điều này rất rõ ràng. Phật hỏi một vị Tỳ Kheo:
-Mạng người sống được bao lâu?
Tỳ
Kheo trả lời:
-Mạng người sống được vài hôm.
Phật
nói:
-Ông chưa rõ đạo.
Phật
hỏi vị khác, vị ấy trả lời:
-Mạng người sống chừng bữa ăn.
Phật
cũng nói:
-Ông chưa thấy đạo
Phật
lại hỏi vị khác nữa, vị ấy trả lời:
-Mạng người chỉ trong hơi thở
Phật
nói:
-Ông đã thấy đạo.
Chúng ta
thở ta hít vô được thì còn sống, nếu thở ra mà không hít vô thì chết ngay. Đó
là một lẽ thật, tất cả mọi người đều chết như vậy. Trong nửa chừng bữa ăn, nếu thở
ra mà không hít vô cũng ngã ra chết, thì đâu trọn bữa ăn. Thường chúng ta nghĩ
cuộc sống là chặng đường dài bảy tám mươi năm, nếu ngắn nhất là đôi ba ngày
hoặc chừng bữa ăn. Nhưng dưới mắtPhật, mạng sống chỉ trong hơi thở. Thế nên còn
thở ra hít vô được, thì chúng ta ráng tu, kẻo ngày nào đó thở ra mà không hít
vô, thì tu không kịp. Nếu cứ lo tính chuyện trăm năm là kẻ si mê không thấy
đạo, đức Phật đã chỉ cho chúng ta một lẽ thật. Thấy được lẽ thật là tỉnh giác,
không thấy lẽ thật là si mê. Mạng người đã không lâu bền tại sao chúng ta lại
hẹn? Nên nhớ rằng vô thường không hẹn với mình, thì mình cũng không có quyền
hẹn với ai hết. Ngày nào còn sống là ngày đó phải hạ thủ công phu để tự lợi,
lợi tha cho đầy đủ. Chớ nói ba năm nữa hãy bắt đầu làm việc này việc nọ đó là
si mê. Chúng ta phải luôn luôn giác ngộ lẽ này.
“Triêu tồn tịch
vong, sát na dị thế. Thí như xuân sương, hiểu lộ, thúc hốt tức vô; ngạn thọ,
tỉnh đằng khởi năng trường cửu”. Ngài diễn tả cảnh vô thường sớm còn chiều mất,
chỉ trong khoảng sát na, đã qua đời khác giống như sương mùa xuân buổi sáng
long lanh trên ngọn cỏ, nhưng nắng vừa lên là đã tan rồi. Sự sống của chúng ta
chẳng khác chi sương đọng trên đầu cành, mới long lanh đó liền khô mất. Ví như
cây dựa vực thẳm; có những cây đứng sát bờ sông sâu, chỉ một cơn gió là lật
nhào xuống nước, chẳng có chút gì bảo đảm. Mạng sống lại giống như dây bò qua
giếng. Trong kinh, Phật dụ có một người phạm tội, bị vua xử voi giày. Khi voi
rượt, người ấy cắm đầu chạy, đến một cái giếng liền nhảy xuống vì sợ voi đạp.
Giếng sâu người ấy thấy sợi dây mọc qua thành giếng, liền nắm dây tuột xuống,
giữa chừng, lại gặp ba con rồng phun lửa lên hừng hực, đành bám chặt sợi dây ở
lưng chừng. Người ấy tính dựa vào thành giếng để có điểm tựa bảo đảm, song nhìn
thấy có bốn con rắn độc lè lưỡi. Bấy giờ kẻ tử tội chỉ đeo sợi dây lơ lửng, lên
xuống qua lại đều chẳng được. Oái oăm thay có hai con chuột một trắng một đen
thay nhau gặm sợi dây, sắp đứt. Mạng sống của người tử tội thật mong manh làm
sao! Thế mà, trong khi bối rối, người ấy ngửa mặt lên bỗng có năm giọt mật rơi
vào miệng, vị ngọt của mật làm cho người ấy thích thú quên hết nỗi nguy nan khổ
sở mà mình đang đối diện. Thử hỏi người ấy mê đến bực nào? Phật dùng ví dụ này
để diễn tả sự say mê của chúng sanh. Voi rượt kẻ tử tội, dụ cho hành khổ và
hoại khổ, tức là vô thường đang bức bách con người đi đến cái chết. Sợi dây bên
giếng, dụ cho mạng sống con người quá mỏng manh. Ba con rồng phun lửa, dụ cho
ba độc tham, sân, si đang thiêu đốt con người. Bốn con rắn độc, dụ cho bốn đại,
đất, nước, gió, lửa không hòa hợp rã tan bất cứ lúc nào. Hai con chuột đang gặm
mòn sợi dây, dụ cho ngày và đêm; mỗi giây phút trôi qua là sinh mạng mòn
dần…Năm giọt mật dụ cho ngũ dục lạc là tài, sắc, danh, thực, thùy, mà người đời
đang say đắm, quên đi cái khổ vô thường to lớn đang bức bách con người. Chư Phật
và Bồ Tát mười phương nhìn thấy chúng sanh say mê ngũ dục, không nhớ vô thường
đang bức bách hoành hành, các Ngài khởi lòng từ bi phương tiện tế độ. Trong
kinh Pháp Hoa dụ chúng sanh say mê ngũ dục, như những trẻ con đang ở trong nhà
lửa cháy hừng hực, mà cứ mãi mê vui đùa không chịu ra. Ông cha muốn cứu các con
khỏi nạn lửa, bèn dụ bằng các món đồ chơi đẹp lạ, các con vì ham đồ chơi, mới
chịu ra khỏi nhà lửa. Ở thế gian này có ai nhận thấy mình đang say mê, hay vẫn
cứ vỗ ngực xưng ta là người tri thức khôn ngoan? Đang si mê mà chẳng biết mình
si mê mới thật là đại si mê. Nếu si mê mà biết mình đang si mê, thì khả dĩ lóe
được chút ít trí tuệ. Mạng sống của con người mong manh chẳng khác chi sương
đầu ngọn cỏ, cây đứng bên vực sâu, dây bò qua thành giếng, chẳng có chi lâu bền
mà tự đắc vui sướng trong cảnh đó. Kẻ nào tự đắc và hài lòng trong cảnh ấy là
kẻ đại si mê, không mảy may thức tỉnh. Thế nên Tổ đánh thức cái mê lầm ngàn đời
của chúng ta.
“Niệm niệm tấn
tốc, nhất sát na gian, chuyển tức tức thị lai sanh. Hà nãi yến nhiên không
quá”. Mỗi niệm mỗi niệm qua nhanh, chỉ trong thời gian ngắn nhất là một sát na
(một niệm), nếu chuyển hơi thở là qua đời sau rồi. Thở ra mà không hít vào thì
thân hiện tại này không còn hoạt động nữa; gió (hơi thở) làm cho cơ thể hoạt
động, gió ngừng, hoạt động cũng theo gió mà đứng, tim không đập, máu ngừng
chảy, thế là qua một đời. Vậy mà người đời cứ ngồi yên để cho ngày tháng trôi
qua. Tổ sách tấn chúng ta: biết rõ cuộc đời là vô thường, mạng sống chỉ trong
hơi thở, phải nổ lực tiến tu, chẳng lẽ ngồi chơi nhàn nhã cho qua ngày tháng,
chẳng là ngu dại lắm ư!
Tóm lại, Tổ chỉ cho chúng ta thấy rõ nguyên nhân đưa đẩy
con người sanh ra đời, là do nghiệp dẫn, nên không thể tránh khỏi sự đau khổ về
nỗi vô thường hư hoại của thân. Sở dĩ con người có ra và tồn tại là nhờ các
duyên chung hợp, bốn đại hỗ tương. Nhưng bốn đại vẫn chống đối nhau khiến thân
này tiêu mòn dần…chỉ trong khoảng sát na, một hơi thở ra không hít vào là đã
qua đời khác. Vậy thì: “Đâu thể an nhiên để ngày tháng qua suông vô ích”. Lời trách
cứ này của Tổ, chẳng khác nào ngọn roi quất mạnh, khiến chúng ta thức tỉnh mà
cố gắng tu.
(còn tiếp)
0 Kommentare:
Post a Comment