Do kiếp trước hờn giận, dùng lời ác gọi 7 tên loài cầm thú mắng mẹ,
nên phải chịu 7 phen làm cầm thú. Bởi khi làm Tri Sự thốt ra những lời nhơ uế mắng
chư tăng, nên nghiệp cảm thường ăn đồ bất tịnh. Do bỏn xẻn giữ riêng thức ăn của
hiện tiền tăng nên bị quả báo địa ngục và chịu nghèo hèn thô xấu trong kiếp người...
Kinh Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni
Hán dịch: Nước Kế Tân, sa môn Phật Đà Ba Lỵ
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Thiền Tâm
Như thế tôi nghe:
Một thời đức Bạc Già Phạm (2), ở tại đạo tràng Măng Tre,
trong vườn Thệ Đa Lâm Cấp Cô Độc, thuộc thành Thất La Phiệt, cùng với 8 ngàn
chúng Tì Kheo câu hội. Các vị ấy đều là bậc Đại A La Hán, hàng tri thức của quần
chúng. Trong đây, những tôn giả như: Xá Lỵ Phất, Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp,
A Na Luật Đà... làm thượng thủ.
Lại có ba vạn hai ngàn Bồ Tát, đều là bậc trụ nơi hạnh Bất
Thối Chuyển, chánh trí soi sáng tất cả các pháp, không còn ngăn ngại, vô lượng
công đức trang nghiêm, cùng các đại chúng đồng thời câu hội. Trong ấy, các Bồ
Tát như: Quán Thế Âm Bồ Tát, Đắc Đại Thế Bồ Tát, Mạn Thù Thất Lỵ Bồ Tát, Phổ Hiền
Bồ Tát, Di Lặc Bồ Tát, Thắng Liên Hoa Tạng Bồ Tát, Chấp Kim Cang Bồ Tát, Trì Địa
Bồ Tát, Hư Không Tạng Bồ Tát, Tịnh Trừ Nhứt Thiết Chướng Bồ Tát... làm thượng
thủ.
Lại có một vạn Phạm thiên vương, do Thiện Tra Phạm Ma thiên
vương, Thiện Kiến thiên vương làm thượng thủ, từ các cõi khác đến dự hội.
Lại có một vạn hai ngàn vị Đế Thích Thiên vương, cùng với vô
lượng Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hô Lặc
Già, Cưu Bàn Trà, Tỳ Xá Giá, Nhơn phi nhơn... (3) cũng tập hội. Bấy giờ đức Thế
Tôn đang được bốn chúng vây quanh, cung kính cúng dường, một lòng chiêm ngưỡng,
cầu nghe pháp yếu.
Khi ấy, tại cõi trời Đao Lợi, có một vị thiên tử tên là Thiện
Trụ, ngự tại cung báu lớn, đang cùng với các thiên nữ dự cuộc âm nhạc ca múa
vui đùa hưởng lạc. Lúc đó, ở thiên giới vào khoảng cuối đêm, bỗng nhiên giữa hư
không có tiếng gọi bảo: "Thiện Trụ thiên tử! Bảy hôm nữa, ông sẽ hết phước
trời, xả báo thân, đọa xuống cõi Diêm Phù Đề, 7 lần làm cầm thú, thường ăn đồ
nhơ uế. Kế đó lại đọa vào địa ngục, chịu đủ các sự khổ trải qua nhiều kiếp mới
được làm người. Tuy được thân người, nhưng lại đen lùn, thô xấu, mù cả đôi mắt,
các căn không đủ, hơi miệng thường hôi hám, nghèo khó hèn hạ, hằng thiếu ăn mặc,
mọi người đều gớm ghét, lánh xa.
Thiện Trụ thiên tử nghe lời ấy rồi, kinh hoàng tột độ, lông
tóc đều dựng đứng, ôm lòng sầu muộn, ông vội đem hương, hoa cùng các thứ cúng
dường, đến chỗ Thiên đế quì xuống, dâng lễ, than khóc thuật lại việc trên, và
thưa: "Nay tôi tâm tư bối rối, mê loạn. Không biết phải làm thế nào? Cúi
xin Thiên Đế xót thương, cứu vớt tôi ra khỏi vòng khổ độc!" Thích Đề Hoàn
Nhơn nghe xong, rất kinh ngạc, tự suy nghĩ: "Thiện Trụ Thiên Tử đời trước
tu phước gì, được sanh lên cõi trời hưởng sự vui thắng diệu nhiều năm? Lại kiếp
xưa tạo nghiệp nhân chi mà sau khi hết thiên phước, phải chịu 7 lần làm cầm
thú, rồi đọa vào địa ngục, khi được làm thân người, đôi mắt mù lòa, thọ đủ điều
xấu ác?" Nghĩ như thế rồi, liền nhiếp tâm vào định, dùng thiên nhãn xem:
Thấy Thiện Trụ thiên tử ở cõi trời mạng chung, liền đọa làm thân heo, hết thân
heo thọ thân chó, hết thân chó thọ thân chồn, hết thân chồn thọ thân khỉ, hết
thân khỉ thọ thân rắn độc, hết thân rắn thọ thân kên kên, hết thân kên kên thọ
thân chim quạ. Trong 7 kiếp làm cầm thú ấy, thường ăn những đồ nhơ uế. Khi thấy
biết như thế, ngài cũng lo lắng đau xót giùm cho Thiện Trụ thiên tử. Thiên đế lại
suy nghĩ: Thiên nhãn của ta chỉ thấy biết một ít phần, không thể hiểu được những
nghiệp nhân sâu xa. Duy đức Như Lai là bậc Chánh Biến Tri, mới có thể thấu suốt
tất cả nhân quả thiện, ác. Duy đức Thế Tôn là đấng Đại Từ, mới có thể cứu vớt
Thiện Trụ thiên tử khỏi vòng khổ độc. Ta nên đến cầu thỉnh Như Lai về việc
này!" Nghĩ đoạn, ngài liền suất lãnh Thiện Trụ thiên tử cùng chư thiên,
đem theo các thứ tràng hoa, huơng lạ, anh lạc, thiên y, bay xuống vườn Thệ Đa
Lâm Cấp Cô Độc.
Bấy giờ ở cõi nhân gian, thời khắc vào khoảng đầu hôm, nhằm
lúc chư Bồ Tát, thanh văn, thiên long bát bộ, tứ chúng như trên đang vân tập.
Khi đến nơi, Thiên đế hướng dẫn Thiện Trụ và thiên chúng đảnh lễ Phật, đi nhiễu
quanh 7 vòng, dâng hiến lễ cúng duờng. Pháp sự đã xong, Thích Đề Hoàn Nhơn quì
trước Như Lai bạch lại việc trên, và thưa thỉnh rằng: "Bạch đức Thế Tôn!
Thiện Trụ thiên tử đời trước tu phước chi, mà hưởng sự vui nơi cõi trời trải
nhiều thời gian? Lại kiếp xưa tạo nhân gì, sau khi hết phước phải đọa làm thân
cầm thú 7 phen, ăn đồ bất tịnh, rồi thọ sự khổ nơi địa ngục, sự hèn xấu nơi cõi
người? Và do phước nhân nào, cảm được giữa hư không có tiếng mách bảo? Xin đức
Như Lai vì chúng con và đại hội mà nói rõ nhân duyên, lại cúi xin đấng Thiên
Nhơn Sư mở lượng từ bi, cứu vớt cho Thiện Trụ thiên tử được thoát vòng khổ
ách".
Khi ấy, đức Như Lai mỉm cười, từ nơi đảnh môn, phóng ánh
sáng ngũ sắc rộng lớn, soi khắp 10 phương cõi Phật. Quang minh ấy ánh chiếu lẫn
nhau, rồi uyển chuyển quay về nhiễu quanh bên hữu Phật ba vòng, lại trở vào miệng
đấng Điều Ngự. Đức Thế Tôn thu nhiếp quang minh xong, bảo trời Đế Thích rằng:
"Lành thay, thiện nam tử! Ông khéo vì Thiện Trụ thiên tử và đại chúng, hỏi
nhân duyên thiện ác tiền sanh. Lại hay vì chúng hữu tình hiện tại và đời sau,
mà thưa thỉnh ta nói pháp môn cứu khổ. Lắng nghe! Ta sẽ vì các ông giải thuyết
rành rẽ:
- Này thiện nam tử! Cách vô lượng kiếp về trước, có đức Phật
ra đời hiệu là Tỳ Bà Thi Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế
Tôn. Đức Phật ấy sau khi hóa duyên đã mãn, vào Niết Bàn. Trong thời tượng pháp
của ngài, có một quốc gia tên Ba La Nại, trong nước đó có người Bà La Môn
nghèo, chỉ sanh được một con trai rồi qua đời sớm. Cậu bé ở với mẹ đến khi khôn
lớn, được giao cho việc nông tác ngoài đồng. Bà mẹ ở nhà, tảo tần lo thức ăn, mỗi
ngày đem ra ruộng cho con. Một hôm, cơm nước đưa đến trễ, đứa con đói khát,
sanh lòng hờn giận, dùng lời ác độc mắng rằng: "Mẹ tôi còn thua loài súc
sanh! Tôi thấy mấy con: heo, chó, chồn, khỉ, rắn, kên kên, quạ, còn biết thương
lo cho con của nó. Tại sao bà để cho tôi đói khát mà không đem cơm nước đến?"
Do lòng đợi chờ hờn giận, đứa con nói như thế ba lần. Giây lát bà mẹ với dáng
điệu vội vã đem cơm nước tới, và nói nhiều lời an ủi khiến cho con vui mừng hết
cơn buồn giận. Đứa con vừa ngồi xuống sắp dùng cơm, bỗng thấy giữa hư không có
vị Bích Chi Phật, hình tướng sa môn, bay từ phương Nam qua phương bắc. Người
con thấy rồi, sanh lòng kính ngưỡng, đứng lên chắp tay cúi đầu đảnh lễ, thỉnh vị
Bích Chi Phật giáng lâm. Bích Chi Phật nhận lời thỉnh, từ từ đáp xuống. Đứa con
vui mừng, trải tranh trắng làm tòa ngồi, dâng hiến hoa sạch đẹp, giảm phần ăn của
mình, đem cúng dường vị Sa môn. Sau khi thọ thực xong, Bích Chi Phật lại vì nói
pháp yếu khiến cho được vui mừng.
Về sau người con xuất gia, chư tăng cử cho làm chức Tri Sự.
Lúc ấy có người Bà La Môn xây cất tăng xá vừa xong, ngày khánh thành khách tăng
hội đến, lại có thí chủ đem nhiều tô du và sữa đặc cúng dường. Ông Tri Sự hiềm
khách tăng làm phiền rộn, nên không đem tô du và sữa ra thết đãi. Mấy vị khách
tăng hỏi: "Những thức ăn đó là của đàn việt cúng dường hiện tiền tăng, sao
không thấy dọn ra?" Ông Tri Sự tánh nóng vội, liền cả tiếng mắng rằng:
"Bộ mấy ông đui mù hết sao? Có tô du và sữa đâu mà bảo tôi cất giấu? Nếu
muốn đòi thêm, chỉ có phẩn và nước tiểu cho các ông ăn mà thôi!"
Đức Phật bảo Đế Thích:
- Đứa con của người Bà La môn nghèo đó là Thiện Trụ thiên tử
hiện nay. Do kiếp trước hờn giận, dùng lời ác gọi 7 tên loài cầm thú mắng mẹ,
nên phải chịu 7 phen làm cầm thú. Bởi khi làm Tri Sự thốt ra những lời nhơ uế mắng
chư tăng, nên nghiệp cảm thường ăn đồ bất tịnh. Do bỏn xẻn giữ riêng thức ăn của
hiện tiền tăng nên bị quả báo địa ngục và chịu nghèo hèn thô xấu trong kiếp người.
Bởi mắng chư tăng là đui mù nên bảy trăm đời phải bị mù đôi mắt, sống trong cảnh
tối tăm chịu nhiều khổ não. Nên biết những tội nghiệp như thế, đã có nhân, tất
phải trả quả, ảnh hưởng không tiêu mất.
Lại nữa Thiên Đế! Thiện Trụ thiên tử được hưởng sự vui thắng
diệu ở cõi trời, là do kiếp trước trải tòa, dâng hoa, cúng dường thức ăn cho vị
Bích Chi Phật, và nhờ sức ảnh hưởng của sự nghe chánh pháp. Lại do đời trước chắp
tay ngửa lên hư không, hết lòng kính thỉnh, cúi đầu đảnh lễ vị Bích Chi Phật, bởi
công đức ấy nên được nghe giữa hư không có tiếng mách bảo cho biết trước. Đó là
tiếng vị thần giữ cung điện của Thiện Trụ thiên tử vậy!
Khi ấy, Thiện Trụ thiên tử nghe lời Phật dạy, biết nghiệp
mình đều có túc nhân, hết sức ăn năn tự trách. Ông gieo mình đảnh lễ trước Phật,
tỏ bày tội lỗi, cầu xin sám hối, thương khóc, sa nước mắt như mưa, huyết lệ rơi
ứ đọng nơi chiếc khăn trong giỏ đựng hoa, chết ngất hồi lâu mới tỉnh lại.
Đức Phật bảo Đế Thích và Thiện Trụ thiên tử:
- Trong 10 nghiệp ác, khẩu nghiệp rất mãnh liệt, phải biết lời
ác còn quá hơn lửa dữ. Lửa dữ chỉ đốt tiêu tài sản của báu ở thế gian. Lửa giận
ác khẩu chẳng những đốt hết thất thánh tài (4) và tất cả công đức xuất thế mà
còn chiêu cảm ác báo về sau. Như Thiện Trụ chỉ vì nóng giận mắng mẹ và chư
tăng, mà tổn bớt phước trời, phải chịu thân cầm thú và địa ngục.
Cho nên, đối với cha mẹ và chư tăng, lẽ ưng tôn trọng cung
kính cúng dường, dùng lời dịu dàng khen ngợi, thường nghĩ đến ân đức, chớ không
nên khinh hủy. Lòng từ ái giữa trần gian chỉ có cha mẹ, ruộng phước trong ba đời
không chi hơn chúng tăng. Các bậc chân tăng hiền thánh, nếu cúng dường thì công
đức không mất. Như tiến thêm, muốn cầu pháp xuất thế, lại có thể thành đạo. Đâu
nên đối với chúng tăng vội thốt lời khinh hủy! Còn cha mẹ công sanh dưỡng rất
khó nhọc, 10 tháng cưu mang khổ nặng, 3 năm bú sữa, mớm cơm. Trải đủ sự lo lắng
gian lao, nuôi con khôn lớn, dạy dỗ, cho học hành, mong con được thành lập, tài
đức hơn người. Nếu con xuất gia, lại mong cho con đắc đạo, thoát vòng sanh tử.
Ân niệm ấy cao rộng như biển trời, khó đền trả. Vì thế, ta đã bảo A Nan: - Nếu
có người vai bên trái cõng cha, vai bên mặt cõng mẹ, đi quanh núi Tu Di trăm
ngàn vòng, huyết chảy ngập 2 bàn chân, còn chưa thể báo công ơn sanh dưỡng, huống
chi lại khởi niệm hờn giận, buông lời khinh mắng ư!
- Này Thiên Đế! Thiện Trụ thiên tử nay do thấy ta, chí tâm
sám hối, nên đạo nhãn trong sáng, tội cũng trừ diệt.
Đức Thế Tôn lại nhìn Thiện Trụ Thiên Tử an ủi bảo rằng:
"Ông nên chớ quá lo buồn thương khóc. Ta có pháp môn tên là Phật Đảnh Tôn
Thắng Đà Ra Ni, ông trì chú này tất sẽ thoát khỏi vòng khổ ách. Môn đà ra ni
đây, vô lượng hằng sa chư Phật đời quá khứ đã nói, ta nay cũng sẽ diễn nói.
Trong các thần chú về Phật Đảnh, môn đà ra ni này rất tối tôn tối thắng, hay trừ
tất cả sự khổ não trong nẻo luân hồi của tất cả chúng sanh!"
Thích Đề Hoàn Nhơn nghe Phật nói rất vui mừng, một lòng khát
ngưỡng, thưa rằng: "Bạch đức Thế Tôn! Cúi xin Như Lai thương nghĩ đến Thiện
Trụ và bọn chúng con, cũng vì chúng sanh đời mạt pháp về sau, tuyên thuyết môn
Phật Đảnh Đà Ra Ni. Chúng con sẽ tuân hành và nguyện cho tất cả các loài hữu
tình đều thoát khỏi sự khổ tam đồ bát nạn (5)!"
Bấy giờ đức Như Lai vì Thiên Đế, Thiện Trụ thiên tử, và 4 bộ
chúng, và nghĩ thương chúng sanh đời mạt pháp về sau, dùng giọng phạm âm trong
sáng, thanh diệu hòa nhã như tiếng chim Ca Lăng Tần Già, thuyết chú rằng:
Tiếng Phạn:
namo bhagavate trailokya prativiśiṣṭaya buddhāya
bhagavate.
tadyathā, om, viśodhaya viśodhaya, asama-sama
samantāvabhāsa-spharana gati gahana svabhāva
viśuddhe,
abhiṣiňcatu mām. sugata vara vacana amṛta abhiṣekai
mahā mantra-padai.
āhara āhara āyuh saṃ-dhāraṇi. śodhaya śodhaya gagana
viśuddhe.
uṣṇīṣa vijaya viśuddhe sahasra-raśmi sam-codite.
sarva tathāgata avalokani ṣaṭ-pāramitā-paripūrani.
sarva tathāgata mati
daśa-bhūmi prati-ṣṭhite.
sarva tathāgata hṛdaya
adhiṣṭhānādhiṣṭhita mahā-mudre.
vajra kāya sam-hatana
viśuddhe.
sarvāvaraṇa
apāya-durgati pari viśuddhe, prati-nivartaya āyuh śuddhe.
samaya adhiṣṭhite. maṇi
maṇi mahā maṇi.
tathatā bhūta-koṭi
pariśuddhe. visphuṭa buddhi śuddhe.
jaya jaya, vijaya
vijaya. smara smara, sarva buddha adhiṣṭhita śuddhe,
vajri vajragarbhe vajram
bhavatu mama śarīram.
sarva sattvānām ca kāya
pari viśuddhe. sarva gati pariśuddhe.
sarva tathāgata siñca me
samāśvāsayantu.
sarva tathāgata
samāśvāsa adhiṣṭhite.
budhya budhya, vibudhya
vibudhya,
bodhaya bodhaya,
vibodhaya vibodhaya samanta pariśuddhe.
sarva tathāgata hṛdaya
adhiṣṭhānādhiṣṭhita mahā-mudre svāhā.
Thuyết chú xong, đức Phật bảo:
- Này Thiên đế!
Môn Như Lai Quán Đảnh Thanh Tịnh Chư Thú Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni này tám
mươi tám câu chi trăm ngàn hằng sa chư Phật đã tuyên thuyết, và nghiêm mật thủ
hộ, tùy hỉ ngợi khen. Tất cả Như Lai đều đồng ấn khả. Nếu có Tì kheo, tì kheo
ni, thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào thọ trì hoặc đọc tụng, do công đức ấy, những
tội ngũ nghịch, thập ác trong trăm ngàn muôn kiếp đều được tiêu diệt, sẽ chứng
quả A nậu đa la tam miệu tam bồ đề. Kẻ ấy trong hiện tại sẽ được túc mạng trí,
rồi sanh từ cõi trời này đến cõi trời khác, từ cõi Phật này đến cõi Phật khác.
Kẻ ấy sẽ được chư Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, Quán Âm, Thế Chí xoa đầu thọ
ký, thường ở nơi đạo tràng, nghe hiểu và thọ trì chánh pháp. Kẻ ấy 3 nghiệp
thân, ngữ, ý hằng thanh tịnh, tâm an vui, thân khổ dứt trừ, được những xúc giác
nhẹ lành, thọ mạng tăng thêm, không bị hoạnh tử. Kẻ ấy sẽ được chư thiên thần hộ
vệ, chư Bồ Tát từ ái, chư Phật hệ niệm. Người thọ trì chú này sẽ đến cõi Địa ngục,
ngạ quỷ, Diêm Ma vương đọc tụng, các tội phạm nơi đó đều được giải thoát, cảnh
giới trống rỗng, các cung trời, cung điện BồTát, cung điện cõi Phật đều mở cửa
rước người thọ trì vào.
- Tại sao thế? Bởi
môn đà ra ni này hay trừ sạch tội ngũ nghịch, thập ác của chúng sanh, hay cứu tất
cả sự khổ nạn trong cảnh Diêm Ma, bàng sanh, ngạ quỷ, địa ngục, hay độ thoát tất
cả chúng sanh nghiệp dày phước mỏng, nghèo nàn, hèn hạ, đau bịnh, tàn tật, yểu
thọ, xấu xa, câm ngọng, đui điếc, hay cứu vớt các loại A Tu La, Dạ Xoa, La Sát,
Phú Đơn Na, Ca Tra Phú Đơn Na (6), các thân quỷ thần, cho đến hay độ thoát các
loài thủy tộc, phi cầm, tẩu thú, rắn rết, ruồi muỗi, côn trùng. Các chúng sanh ấy
tùy phận sẽ được sanh lên các cảnh giới an lành, và lần lượt đều được chứng quả
giải thoát.
Này Thiên Đế! Nếu
có người thọ trì chú này, từ kiếp hiện tại trở về sau, vĩnh viễn lìa khỏi ác đạo,
thường sanh trong dòng quý tộc ở cõi người, hoặc sanh lên cõi trời, cho đến được
cùng 10 phương chư Phật ở một chỗ, cùng chư Bồ Tát làm bạn lành, và kết cuộc sẽ
chứng quả Vô Thượng Đẳng Giác.
Này Thiên Đế! Môn
Phật Đảnh Tôn Thắng đà ra ni của ta đây có đủ thần lực uy thế, công đức rộng lớn
như mặt trời kiết tường, như châu ma ni trong sạch sáng suốt, không bợn nhơ,
tùy ở chỗ nào phóng ánh quang minh làm sáng sạch nơi đó. Lại nữa, như 7 báu thù
thắng ở thế gian, tất cả hàng vua quan dân chúng đều quý trọng ưa thích, nhìn
không chán. Môn đà ra ni này cũng thế, nếu thọ trì đọc tụng, biên chép, hoặc
cúng dường, kẻ ấy sẽ được vô lượng công đức, tất cả thiên, long bát bộ đều kính
ưa, quý trọng.
Này Thiên Đế!
Hàng vua quan tứ chúng nếu biên chép đà ra ni này để trong tháp 7 báu, nơi bảo
tòa sư tử, nơi tháp ngã tư đường, hoặc nơi đầu phướn cao, lại dùng các thứ hoa,
hương, anh lạc, y phục, thức ăn uống, thuốc men cúng dường, kẻ ấy công đức vô
lượng vô biên, phước trí không thể tính kể. Kẻ ấy là đích tử của Phật, là Bồ
Tát Ma Ha Tát, vì cứu vớt được vô lượng chúng sanh đi qua đi lại nơi đó. Nếu có
chúng sanh nào phạm tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác, các trọng giới và tất cả
tội nặng, ưng đọa tam đồ thọ khổ mà đi ngang qua tháp hoặc phướn có để đà ra ni
này, được một điểm bụi hay một chút gió từ tháp phướn ấy dính nhiễm đến thân
mình, hoặc được bóng tháp phướn che thì tất cả tội nặng đều tiêu trừ, sanh về
cõi trời hưởng sự vui thắng diệu, hoặc tùy duyên sanh về Tịnh Độ.
Kẻ nào thường thọ
trì đà ra ni này khi sắp tụng niệm dùng nước rửa tay, nước đó rơi xuống đất rưới
nhằm các loài trùng kiến, các vật loại ấy đều được nhờ ảnh hưởng công đức sanh
lên cõi trời. Cho nên các hàng Tì Kheo, Tì Kheo Ni, thiện nam, tín nữ nếu trai
giới thanh tịnh, sáu thời thọ trì đà ra ni này, thì các tội tứ trọng, ngũ nghịch,
thập ác cùng tất cả các tội nặng trong ba đời thảy đều được tiêu diệt, được chư
Phật Bồ Tát xoa đầu thọ ký.
Bấy giờ đã quá nửa
đêm, Diêm Ma La Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên
Vương, Đâu Suất Đà Thiên Vương, Hóa Lạc thiên vương, Tha Hóa Tự Tại Thiên
vương, Phạm Thiên Vương, Đại Phạm Thiên Vương... suất lãnh quyến thuộc trăm
ngàn muôn ức, đem theo hương, hoa và các thứ trang nghiêm, đến nhiễu quanh bên
hữu Phật 7 vòng, đảnh lễ nơi chân, rồi hiến dâng thức cúng dường. Lễ kính đã
xong, lại thưa thỉnh rằng:
- Bạch đức Thế
Tôn! Chúng con nghe Như Lai diễn thuyết môn Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni nên đến
đây xin thỉnh thọ và tùy thuận lời dạy mà thủ hộ. Cúi xin đấng Thiên Nhơn Sư vì
chúng con mà nói các pháp yếu về thần chú này, để cho sự thọ trì của chúng con
được thông suốt và thành tựu.
Đức Phật bảo vua
Diêm Ma La và các vị thiên vương:
- Lắng nghe! Ta sẽ
vì các ông mà giải thuyết:
* Nếu có chúng
sanh nào bị khổ nạn, tội chướng cực nặng, không ai cứu hộ, nên chọn ngày trăng
sáng, tắm gội, mặc y phục sạch sẽ, thọ bát quan trai giới, quỳ trước tượng Phật
tụng đà ra ni này 1.080 biến thì tất cả tội nghiệp, chướng nạn đều tiêu diệt. Kẻ
ấy sẽ được thanh tịnh giải thoát, được môn Tổng Trì Đà Ra Ni, biện tài vô ngại.
* Nếu kẻ nào tuy
chưa trì tụng, mà chỉ nghe âm thanh của đà ra ni này lọt vào tai, tức liền
thành hạt giống Phật. Ví như một chút kim cang rớt xuống đất, tất lần lượt xuyên
lọt đến nơi bản tế mới dừng, đất tuy dày không thể làm trở ngại. Thần chú này
cũng thế, khi đã lọt vào tai, liền huân tập khiến cho lần lần thành quả chánh
giác, phiền não tuy nặng cũng không thể ngăn che. Dù kẻ ấy bị đọa vào cõi Địa
Ngục, Ngạ quỉ, bàng sanh cũng không bị nghiệp báo làm cho hạt giống đó tiêu mất,
mà còn nương sức thần chú lần lượt tiến tu cho đến khi thành Phật.
* Nếu chúng sanh
nào một phen nghe được Đà Ra Ni này, qua kiếp hiện tại sẽ không còn bị các tật
bịnh và các sự khổ não, cũng không còn thọ thân bào thai, tùy theo chỗ hóa sanh
hiện nơi hoa sen. Từ đó về sau, ngũ nhãn lần lần thanh tịnh, được túc mạng trí,
kiết sử tiêu trừ, sẽ chứng quả vô thượng đẳng giác.
* Nếu có kẻ nào mới
chết, hoặc chết đã lâu, có người tụng 21 biến đà ra ni này vào một nắm đất hoặc
cát, rải lên thi hài, kẻ ấy sẽ được sanh về 10 phương Tịnh Độ. Như người chết
thần thức đã bị đọa vào địa ngục, ngạ quỉ, bàng sanh, khi đất cát ấy dính vào
hài cốt, cũng được thoát khỏi ác thú, sanh lên cõi trời.
* Nếu chúng sanh
nào mỗi ngày tụng chú này 21 biến, ưng tiêu được sự cúng dường rộng lớn của tất
cả thế gian, khi xả báo thân sẽ sanh về thế giới Cực Lạc, kẻ nào thường niệm tụng
sẽ được tăng thọ mạng, hưởng sự vui thù thắng, tương lai sanh về 10 phương Tịnh
Độ, nghe pháp mầu, được thọ ký, ánh sáng nơi thân chiếu tất cả cõi Phật, và chứng
Đại Niết Bàn.
* Nếu muốn được
oai lực tự tại, hành giả dùng các thứ bột như bột nếp, bột gạo v.v.. nắn thành
hình người để 8 phương hướng nơi đàn tràng, ngày đêm đối tám phương mà tụng
chú, tất cả sẽ được như ý.
* Nếu nước lụt
dâng, hướng về phương đó tụng chân ngôn này 108 biến cầu nguyện, thì nước sẽ
rút lui.
* Nếu bị nạn vua,
nạn quan, nạn binh, nạn giặc cướp, nạn khẩu thiệt, tụng chú này 21 biến vào năm
thứ nước thơm, đem rưới trên đảnh Phật, các nạn sẽ tiêu diệt.
* Nếu chúng sanh
nào tướng mạng yểu, muốn cầu sống lâu, nên chọn ngày trăng sáng, trai giới, tắm
gội, mặc y phục sạch, tụng chú này đủ 1.080 biến, sẽ được trường thọ, tất cả tội
chướng đều trừ diệt.
* Nếu có người tụng
chú này một biến vào lỗ tai của bất kỳ loài cầm thú nào, thì sanh loại ấy kiếp
đó không còn thọ thân cầm thú, dù nó có nghiệp nặng sẽ bị đọa vào địa ngục,
cũng được thoát ly.
* Nếu kẻ nào bị bịnh
trầm trọng, chịu nhiều đau khổ, được nghe đà ra ni này, sẽ lìa bịnh khổ, tội
chướng tiêu diệt. Cho đến các chúng sanh trong bốn loài nghe được chú này đều xả
bịnh khổ, lìa thân bào thai, hóa sanh nơi hoa sen, tùy theo chỗ sanh, nhớ biết
đời trước không quên mất.
* Nếu có chúng
sanh nào vừa mới khôn lớn, đã tạo các thứ tội tứ trọng, ngũ nghịch, thập ác,
cho đến lúc tuổi già, tự suy nghĩ biết mình do nghiệp ác này sau khi mãn phần sẽ
đọa vào địa ngục A Tỳ, chịu sự khổ lớn trải qua nhiều kiếp, rồi xoay vần luân hồi
trong 3 đường ác không ai cứu vớt. Người ấy nên chọn ngày rằm, tắm gội mặc y phục
tinh khiết, dùng cái bát bằng vàng, bạc hoặc đồng, lượng chứa ước một thăng, đựng
nước trong sạch để trước tượng Phật, thọ giới Bồ Tát, trì trai thanh tịnh. Nơi
đàn tràng, mình đứng ở phương Đông hướng về tượng Phật ở phương Tây, đảnh lễ
chí thành sám hối. Rồi tụng đà ra ni này 1.080 biến giữa chừng không gián đoạn,
kế đó dùng nước ấy rưới bốn phương và trên dưới, nguyện cho tất cả đồng được
thanh tịnh. Làm phép này xong, tất cả tội chướng đều được tiêu diệt, thoát khỏi
nghiệp báo địa ngục tam đồ, vua Diêm Ma La buông tha, thần Tư Mạng vui đẹp,
không sanh giận trách, trở lại chắp tay cung kính, tùy hỉ ngợi khen công đức.
* Nếu muốn cứu độ
người tội nặng, nên chọn ngày rằm, tụng chú này vào mật hoặc sữa 1.080 biến, rồi
cho người đó ăn. Làm như thế, đương nhơn sẽ tiêu trừ tội chướng sanh về cõi
lành, lần lượt tiến tu, chứng quả vô thượng đẳng giác.
* Nếu tụng 21 biến
chân ngôn này gia trì vào tăm xỉa răng, rồi đem dùng có thể trừ bịnh đau răng,
được mạnh khỏe, thông minh, trường thọ.
* Nếu muốn cứu độ
tội khổ của loài súc sanh, nên gia trì chú này vào cát hoặc đất vàng 21 biến, rồi
rải trên mình chúng và bốn phương, tội chướng của chúng nó sẽ tiêu diệt.
* Nếu có chúng
sanh nào muốn được phước đức đầy đủ, muốn cầu tài bảo xứng ý, muốn cứu hộ mình
và người nên khởi lòng lành, mỗi ngày phát nguyện sám hối, đối trước tượng Phật,
kiết ấn tụng chú này bảy biến, tâm không tán loạn, mắt nhìn tượng Phật không di
động, rồi đem công đức ấy hồi thí cho tất cả chúng sanh. Tác pháp và có tâm
lành như thế, quyết định sẽ được như nguyện, tăng phước lộc trong hiện tại, cho
đến cả những đời sau.
* Nếu hành giả ở
nơi đàn tràng mỗi ngày ba thời, mỗi thời tụng chú này 21 biến gia trì vào chén
nước sạch, rồi dùng tâm trân trọng bưng chén nước uống. Làm như thế sẽ tiêu trừ
các bệnh, sống lâu trăm tuổi, giải mọi oán kết, tiếng nói thanh diệu, biện tài
thông suốt, mỗi đời thường được Túc Mạng Thông, nhớ biết tiền kiếp. Nếu đem
chén nước ấy rưới trong phòng nhà, cho đến chỗ chuồng trâu, ngựa, thì nơi đó sẽ
được oai lực của chân ngôn giữ gìn an ổn, trừ các nạn: la sát, rắn, rồng. Như
đem chén nước ấy, miệng tụng chú rưới trên đảnh người bịnh và cho bịnh nhơn uống,
các thứ bịnh nặng sẽ tiêu trừ.
* Nếu muốn tiêu
trừ các tai chướng, nên dùng vải lụa vụn năm sắc, kết làm cây phất trần. Kế đó
tụng chú nơi cây phất, quét bụi nơi tượng Phật và kinh. Thường làm như thế, chướng
nạn của mình sẽ tiêu, mà tội nghiệp của chúng sanh cũng được trừ diệt.
* Nếu bị nhiều khẩu
thiệt, tai tiếng phát khởi, nên dùng châu sa hòa với bạch mật, hoặc đường cát
trắng, tụng chú vào đó 21 biến, rồi đem thoa vào môi 100 tượng Phật. Làm như thế
khẩu thiệt, tai tiếng sẽ tiêu trừ.
* Nếu vợ chồng
chán ghét nhau, muốn được hòa thuận, tụng chú vào vải hay lụa 21 biến, đem may
áo cho chồng hoặc vợ mặc, làm như thế, vợ chồng sẽ hòa thuận.
* Nếu người nam
hay nữ bị ma quỉ khuấy rối, hoặc phần âm yêu đắm, quyến luyến không tha, nên giữ
chánh niệm vừa tụng chú vừa xoa khắp mình nạn nhân, kế đó lấy tay vỗ vào thân,
ma quỉ liền bỏ chạy.
* Nếu người nữ
không có ai đến cưới hỏi, nên dùng muối tốt sạch, tụng chú vào đó 108 biến, rồi
đem cúng dường hiện tiền tăng, tất sẽ được như ý.
* Nếu chỗ ở có quỷ
thần dữ khuấy rối, nên tụng chú vào thức ăn 21 biến rồi đem cúng thí cho ăn.
Trong khi ấy lại nói: "Nay tôi cúng thí cho các vị, như không làm tổn hại
chúng sanh thì tùy ý ở lại, nếu làm tổn hại thì phải mau đi nơi khác". Nếu
quỷ thần hung hãn không nghe lời, nên dùng nọc sắt dài 12 ngón tay, tụng chú
vào đó 21 biến rồi đem đóng xuống đất. Làm như thế, các quỷ thần dữ phải chạy
ra khỏi địa giới.
* Nếu có bệnh
nhân bị tinh mị dựa vào, kẻ cứu hộ nên nhìn chăm chú vào mặt người bịnh mà tụng
đà ra ni này, tinh mị sẽ xuất ra.
* Nếu có quỷ La
Sát hoặc các loài quỷ dữ vào quốc giới gây đau bịnh, làm khủng bố và não loạn
dân chúng, nên xưng niệm Tam Bảo, ngày đêm tụng trì chú này, kiết ấn Phật Đảnh
Tôn Thắng rải khắp bốn phương, thì các tai nạn đều tiêu diệt, làm như thế, cũng
cứu được chúng sanh thọ khổ ở tam đồ.
* Nếu muốn thí nước
cho loài ngạ quỷ, tụng chú này vào nước sạch 7 biến, rồi rải khắp 4 phương, tâm
tưởng miệng nói, cầu cho chúng được thọ dụng, thì các ngạ quỷ sẽ được uống nước
cam lộ.
* Nếu người nào
buôn bán ế ẩm, muốn được khách hàng chiếu cố, thường kiết ấn tụng chú này 21 biến,
an trí tượng Phật nơi chỗ tinh sạch kín đáo mà cúng dường, tất sẽ được như ý.
* Nếu người nào mỗi
ngày 3 thời, mỗi thời tụng chú này 21 biến, cung kính cúng dường, chí tâm thọ
trì, vì người khác giải nói, người ấy sẽ được an vui, sống lâu, không bịnh,
phát sanh trí huệ được túc mạng thông, khi lâm chung như ve thoát xác, liền được
sanh về thế giới Cực Lạc, tai không còn nghe tiếng địa ngục, huống chi bị sa đọa.
Kẻ ấy sẽ tuần tự tiến trên đường đạo quả cho đến khi thành Phật.
Đức Phật bảo vua
Diễm La và các vị thiên vương:
- Nếu chúng sanh
nào muốn lập đàn trì đà ra ni này, nên dùng đất vàng trộn với nước thơm mà bôi
trên mặt đàn, đàn tràng vuông vức mỗi bề rộng 4 cánh tay, dùng dây lụa năm sắc
bao quanh 3 lớp, tụng chú vào hạt cải trắng, hoặc nước thơm rải bốn bên. Bốn
góc đàn để bốn bình nước tinh sạch, các bình nước lượng lớn nhỏ đều phải đồng
nhau. Giữa đàn rải các thứ hoa, đốt các thứ hương, thắp các đèn dầu có chất
thơm. Trước tượng Phật, dùng những đồ đựng đẹp sạch, đựng các thức ăn như cơm
trắng, nếp, sữa, đường, hoặc các thứ hoa quả cúng dường. Hành giả nên mặc y phục
sạch, giữ giới bồ tát, không nên ăn các thứ ăn có sắc đen. Mỗi thời kiết ấn trì
chú này 108 biến, nếu có thể 1.080 biến. Trì tụng như thế sẽ được tiêu các tội
chướng, tăng trưởng phước đức căn lành, sanh về các cõi Tịnh Độ, và được thọ ký
thành Phật.
Muốn kiết
ấn Phật Đảnh Tôn Thắng nên chắp hai tay lại, hai ngón trỏ co vào lòng bàn tay,
hai ngón cái áp vào lóng giữa ngón trỏ là ấn thành.
Khi kiết
ấn này tụng chú 108 biến, tức là đã cúng dường thừa sự 88 cu chi hằng hà sa na
do tha trăm ngàn chư Phật, được chư Phật khen ngợi, xưng là Phật tử.
Nếu người nào mỗi
ngày kiết ấn, tụng chú này 108 biến sẽ được 10 phương chư Phật thọ ký, quyết định
không còn nghi. Như mỗi ngày kiết ấn tụng được 1080 biến, kẻ ấy sẽ được thân
kim cang bất hoại, mau thành đạo quả.
Hành giả nào mỗi
ngày thường trì chú này, rồi kiết ấn đối 4 phương, mỗi phương tụng chú một biến,
rải một lượt sẽ được tất cả thiên, long, quỷ thần cung kính ủng hộ, nhan sắc
tươi đẹp, sự cần dùng tùy niệm sẽ được chư thần xui cho đem đến, phước đức vô
lượng, công đức vô biên, chư Phật ngợi khen, tùy ý sanh về 10 phương Tịnh Độ.
Tóm lại, công lực
của Tôn Thắng Đà Ra Ni vô cùng, có thể tùy nguyện ứng dụng, không thể tả xiết!
Đức Phật bảo
thiên đế và đại chúng:
- Môn Phật Đảnh
Tôn Thắng Đà Ra Ni đây trong thời mạt pháp nếu có hàng vua quan tứ chúng, y
đúng pháp thức lập đàn thọ trì và cúng dường, đó gọi là tu Bố Thí độ. Khi lập
đàn tu hành, giữ ba nghiệp thanh tịnh, không phiền não giận hờn, là trì giới độ
và nhẫn nhục độ, mỗi ngày trì niệm không gián đoạn biếng trễ là tinh tấn độ.
Chuyên y theo pháp tắc, một lòng không loạn là thiền định độ. Bố thí đàn tràng
đúng pháp, thông hiểu phép thọ trì, khéo lượng chừng độ, biết việc nên làm hoặc
không nên làm là Bát Nhã độ.
- Này Thiên Đế và
đại chúng! Nếu y theo lời dạy mà kiến lập pháp sự, tức sẽ đầy đủ 6 pháp ba la mật.
Các ông nên xoay vần khai thị, khiến cho chúng sanh được nhiều lợi ích, chứng
quả bồ đề!
Khi đức Phật nói
pháp môn này xong, thiên đế, Thiện Trụ và chư thiên lãnh giáo trở về thiên
cung. Thiện Trụ thiên tử y theo lời dạy mà thọ trì mãn 7 ngày, dùng thiên nhãn
quán sát, tự thấy tội báo của mình đều tiêu trừ, phuớc thọ ở cõi trời càng tăng
thêm vô lượng. Ông vui mừng khấp khởi, cả tiếng khen ngợi rằng: "Kỳ diệu
thay Phật Đà! Kỳ diệu thay Đạt Mạ! Kỳ diệu thay Tăng Già! Kỳ diệu thay sức chú
ân Phật Đảnh Tôn Thắng đà ra ni, hay trừ diệt tất cả khổ ách, khiến cho tôi
thoát khỏi các ác báo như thế!"
Liền đó ông đến
trình bạch lại việc ấy với Thiên Đế, thỉnh ngài cùng thiên chúng xuống cõi Diêm
Phù tạ ơn Phật. Thiên Đế suất lãnh Thiện Trụ và hàng tùy thuộc, đem các thứ
hương, hoa, phướn, lọng, y phục, và anh lạc quý đẹp, ngồi xe báu bay xuống vườn
Thệ Đa Lâm, đảnh lễ cúng dường Phật. Hành lễ xong lại chắp tay, đi nhiễu quanh
Như Lai trăm ngàn vòng, rồi đứng qua một bên, dùng các lời kệ ca ngợi công đức
của đức Thế Tôn.
Bấy giờ đức Như
Lai đưa cánh tay sắc vàng, xoa đầu Thiện Trụ thiên tử, dùng tiếng hòa nhã nói
những lời pháp yếu và thọ cho bồ đề ký.
Đức Phật lại bảo:
"Kinh này tên là Tịnh Nhứt Thiết Ác Đạo Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni, các
ông nên thọ trì". Thiên Đế và đại chúng vui mừng đảnh lễ, tín thọ phụng
hành.
Phần Chú Thích
Ô sắc ni sá
(Usnisa) dịch là Phật đảnh, tướng vô kiến đảnh nơi đầu của Phật.
Bạc Già Phạm
(bhagàvan) dịch Tự Tại, đoan nghiêm, kiết tường, tôn quý, hữu đức, tức chỉ cho
đức Phật.
Thiên: hàng trời,
Long: rồng, Dạ xoa: dịch Thiệp tật quỉ loài quỷ bay mau lẹ; Càn thát bà: dịch
Khứu hương nhạc, nhạc thần của Thiên Đế; A Tu La: dịch Phi Thiên, loài có phước
như trời mà đức không bằng trời; Ca Lâu La: thần kim súy điểu; Khẩn Na La: dịch
Nghi thần, thần ca múa của Thiên Đế, Ma Hô Lặc Già: thần rắn; Cưu Bàn Trà: Yểm
mị quỷ; Tỳ Xá giá: Đạm tinh khí quỷ; Nhơn Phi Nhơn: loài như người nhưng có sừng
hoặc có cánh khác với người.
Thất thánh tài:
lòng tin, giới hạnh, sự nghe pháp, hổ với bên ngoài, tự thẹn bên trong, xả bỏ,
trí huệ.
Bát nạn: 1. địa
ngục 2. Ngạ quỷ 3. bàng sanh 4. câm ngọng, đui điếc 5. Sanh trước Phật hay sau
Phật (vào thời không có Phật pháp) 6. Sanh Bắc Cu Lư Châu 7. Sanh Vô Tưởng
thiên 8/ Thế Trí Biện Thông.
Phú Đơn Na
(Putàna): dịch xú ngạ quỷ, thường làm bịnh nóng. Ca Tra Phú Đơn Na
(Katapùtàna): dịch là Kỳ xú quỉ, thường làm bịnh kêu khóc và gây tai nạn. Hai
loài quỉ này thân hình rất xấu xa, hôi hám.
Đường dẫn dưới
đây, dạy cách phát âm Tiếng Phạn “Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni”:
http://www.phatam.com/video/phat-am/karaoke-phat-danh-ton-thang-da-ra-ni-rat-hay-tieng-phan-co-chu-trong-phan-binh-luan--video_18023d582.html
Phụ chú:
A. Nay lại căn cứ
theo bản Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni của Thiền Môn Khóa Tụng do nhà xuất bản
Khảo Cổ Văn Hóa Sự Nghiệp (Đài Loan 1986) phát hành, thì thấy cách phiên âm
theo tiếng Hán như sau:
Phật Đảnh Tôn Thắng
Đà Ra Ni
1. Nam mô bạc già
phạt đế.
2. Tát bà tha đát
lan lô chỉ dã.
3. Bát lạt để tì
điệt sắt tra dã.
4. Bột đà dã. Bạc
già phạt đế.
5. Đát điệt tha.
6. Úm, bột lâm bột
lâm.
7. Thuật đà dã
thuật đà dã.
8. Tỳ thâu đà dã.
Tỳ thâu đà dã.
9. A táp ma táp
ma.
10. Tam mạn đa.
Phạ hoa sát.
11. Táp bát ra
noa yết để ngược yết na.
12. Tỏa bà bà, tì
thú đệ.
13. A tỳ xiển giả.
Đổ mạn.
14. Tát bà đát da
già đa.
15. Tô yết đa
16. Bạt ra bạt giả
na.
17. A mật lật đa
tỳ sư kế.
18. Ma ha mẫu đà
ra, mạn đa ra bà na.
19. Úm. A
hát ra a hát ra.
20. A dũ san đà
ra ni.
21. Thu đà dã.
Thu đà dã.
22. Già già na.
Xoa phạ bà. Tỳ thú đệ.
23. Ô sắt nị sa.
Tỳ thệ dã tỳ thú đệ.
24. Tố ha tát ra
yết lại thấp nhị. San thù địa đế.
25. Tát ra bà đát
tha yết đa.
26. A bà lô ky
ni.
27. Tát bà đát đá
già đa mạt đế.
28. Tát đà ra, ba
la mật đa.
29. Ba rị, phú ra
ni.
30. Na ta bồ mật
bà la. Địa sắt sỉ đế.
31. Tát la bà đát
đà yết đa da. Hất rị đà
da.
32. Địa sắc
sá na.
33. Đế sắt
sỉ đê.
34. Úm, một
điệt lệ, một điệt lệ. Ma ha một
điệt lệ.
35. Bạt triết la
ca dã.
36. Tăng hát đản
na tỳ thú đệ.
37. Tát ra bà yết
ma, phạt lạt noa tỳ thú đệ.
38. Bát lạt đổ rị
ca đế, tì rị, tì thú đệ.
39. Bát lạt để na
bà ra đái dã. A dũ thú đệ.
40. Tam ma da. Địa
sắt sỉ na. Địa sắt xỉ đế.
41. Úm. Mạt nhĩ,
mạt nhĩ, ma ha mạt nhĩ.
42. Á ma ni,
á ma ni.
43. Tì ma ni, tì
ma ni, mạ hạ tì ma ni..
44. Mạt địa mạt đế,
ma ha mạt đế.
45. Đát đạt đa bột
đa.
46. Cô thi tì lê
thú đễ.
47. Tị tốt bố
tra. Bột địa tỳ thú đệ.
48. Úm, hy hy.
49. Thệ dã thệ
dã.
50. Tị thệ dạ tị
thệ dã.
51. Tam mạt ra
tam mạt ra.
52. Sa phạ ra, sa
phạ ra.
53. Tát la bà bột
đà.
54. Địa sắt sỉ
na.
55. Địa sắc sỉ
đa.
56. Thú đệ thú đệ.
57. Bạt triết lệ,
bạt triết lệ. Ma ha bạt triết
lệ.
58. A bạt triết lệ.
59. Bạt triết la
yết tì.
60. Thệ da yết
tì.
61. Tì giá gia yết
tì.
62. Bạt triết ra
thệ bạt la yết tì.
63. Bạt triết rô
na già đế.
64. Bạt triết rô
na bà đế.
65. Bạt triết la
tam bà phệ.
66. Bạt triết rô
bạt triết rị na.
67. Bạt triết
lam, bạt bà đổ mạ mạ.
68. Tát rị lam.
Tát la phạ. Tát đỏa bà năng.
69. Tát xá gia.
Tì lê, tì thú đệ.
70. Sất dạ phạ bà
đổ mế tát na.
71. Tát lạt bà yết
đế tì lê thú đễ.
72. Tát lạt bà
đát đà yết đa. Sất da mi.
73. Tam ma ta phạ.
Tát diện đô.
74. Tát bà đát đá
già đa.
75. Tam ma tát phạ
sa địa sắt sỉ đế.
76. Úm! Sất địa
da, sất địa dạ.
77. Bột đề dã, bột
đề dã.
78. Tỳ bồ đề dã,
tì bồ đề dạ.
79. Bồ đà dạ, bồ
đà dạ.
80. Tì bồ đà dạ,
tì bồ đà dã.
81. Mô ca
dã, mô ca dã.
82. Tì mộ
ca dã, tì mộ ca dạ.
83. Thuật
đà dạ, thuật đà dã.
84. Tì thuật
đà dã, tì thuật đà dã.
85. Tam mạn
đa đát biệt lệ, mô ca dã.
86. Tam mạn
đà da sa mế biệt rị thú đễ.
87. Tát la bà đát
tha già đa tam ma da hất rị đà da.
88. Địa sắt sa
na, địa sắt sỉ đế.
89. Úm, mẫu đề lê
mẫu đề lê, ma ha mẫu đà ra,.
90. Mạn đa ra,
bát na
91. Địa sắc sỉ đế.
92. Xóa ha.
Lời Sau Cùng
Môn Phật Đảnh Tôn
Thắng Đà Ra Ni, đời Đường có quan thị ngự sử Võ Triệt thường trì tụng, sau nghe
bạn đồng liêu là Tưởng Hình cũng thọ trì, nhưng văn cú và ngôn âm phần lớn đều
sai khác; hỏi ra quan Thị Ngự Sử Tưởng Hình thọ học với ông Vương Khai Sĩ, và
Vương Khai Sĩ lại được ngài Kim Cang Trí Tam Tạng truyền pháp. Trong khi truyền
thọ ngài bảo: "— Tây Vức cũng ít có bản này. Ta đem theo Phạn bản đến đây,
nên mật truyền lại cho ông".
Trong niên hiệu
Khai Nguyên, có vị cư sĩ tinh tu ở non Ngũ Đài, người thường gọi là Vương Sơn
Nhơn, cũng trì tụng chú này. Sau vì cầu siêu cho cha, ông tụng chú đến vài mươi
muôn biến, cầu xin được biết nghiệp báo lành dữ và chỗ sanh của phụ thân. Nhưng
kết cuộc không thấy chi, ông thối tâm muốn ra khỏi núi. Bỗng gặp một lão nhơn
đón lại, bảo: "Hiền giả tụng trì thật là cần mẫn, nhưng vì cách Phật lâu
xa, văn cú thất lạc, thiếu sót nhiều. Nên không mau được ứng nghiệm. Nay gặp
nhau đây, tôi xin truyền lại toàn bản của thần chú". Vương Sơn Nhơn mời về
đảnh lễ và thọ pháp. Lão nhơn dạy: "Hiền giả tụng chú bản này độ một ngàn
biến sẽ thấy hiệu lực". Cư sĩ trì niệm y theo lời. Vài hôm sau lúc ban
đêm, bỗng nghe tiếng ngọc hoàn bội khua thanh thao, giọng tiêu cầm dìu dặt, lần
lần giáng xuống trước sân nhà, cư sĩ kinh lạ bước ra xem, thấy mấy mươi thiên
nhơn vây quanh ủng hộ một vị thiên tiên tướng mạo siêu phàm đi đến. Vị thiên
tiên hỏi: "Người biết ta chăng?" Cư sĩ thưa: "Kẻ dung phàm này mới
được hân hạnh diện kiến". Thiên tiên nói: "Ta là phụ thân của người,
năm rồi người trì tụng Tôn Thắng đà ra ni, ta được nhờ phước lực sanh lên cõi
trời. Mấy hôm nay, y phước lại tăng gấp bội hơn trước, ta được làm vua trong
hàng thiên tiên. Bản chú ngươi vừa trì tụng công hiệu thật không thể nghĩ
bàn!" Nói xong, tất cả đồng bay về thượng giới, cư sĩ vui mừng, cúi lạy tiễn
đưa. Từ đó về sau càng thêm tinh tấn.
Cũng vào thời đó,
tại Đông Đô có ông Vương Thiếu Phủ tụng chú Tôn Thắng theo bản của ngài Phật Đà
Ba Lỵ đã vài muôn biến, một đêm, ông mộng thấy vị Phạn tăng đi đến bảo:
"Nhơn giả tụng niệm rất tinh thành, nhưng tiếc vì chú văn còn thiếu, nên
công hiệu kém!" Thiếu Phủ đảnh lễ cầu thỉnh bản chú văn đầy đủ. Phạm tăng
từ bi chấp thuận, khẩu truyền từng câu chân ngôn. Sau khi đã thông thuộc tất cả,
ông bái tạ đưa vị Phạm tăng ra khỏi cửa, nhìn qua trời sáng như ban ngày. Thiếu
Phủ trở vào nhà thấy tôi tớ còn đang nằm ngủ. Vừa lúc ông chợt tỉnh giấc, vội gọi
kẻ đồng bộc trách bảo trời đã sáng sao chưa thức dậy? Chúng đáp rằng mới vừa nửa
đêm. Lúc ấy ánh sáng bỗng tắt, trở lại đêm tối như cũ. Thiếu Phủ nhớ cơn thần mộng,
lấy làm lạ, nhắm mắt tụng thần chú mấy biến thấy vẫn thông suốt. Từ đó, ông y
theo khẩu truyền của vị Phạm tăng mà thọ trì.
Trong niên hiệu
Thiên Bảo năm đầu, Thiếu Phủ đang nằm nơi tư thất, chợt tắt hơi. Vì nơi ngực
còn ấm, người nhà không dám tẫn liệm. Đến 7 hôm sau, ông bỗng sống lại. Lúc ấy,
kẻ háo sự trong thành bảo nhau đến hỏi về duyên cớ tái sanh. Tiếng đồn lan ra,
Vưong Khai Sĩ và Vương Sơn Nhơn lúc ấy ở Đông Đô không quen biết nhau, cũng đồng
đến thăm viếng. Trước mặt các quan khách, Vương Thiếu Phủ trần thuật như sau:
- Tôi vừa nằm nghỉ,
chợt hôn mê, thấy có 2 sứ giả đến dẫn đem đi. Được vài mươi dặm, đến một gốc đại
thọ, 2 sứ giả dùng lại tạm nghỉ, tôi cũng ngồi xuống theo. Bỗng nhớ tới chú Tôn
Thắng, tôi liền nhắm mắt tụng luôn 21 biến. Lúc mở mắt nhìn quanh, không thấy 2
sứ giả đâu cả. Giây lát, có 4 vị khác đi đến quỳ thưa rằng: "Không biết
ngài tu theo diệu pháp nào, khiến cho 2 sứ giả dẫn độ đều được sanh lên cõi trời?"
Tôi đáp: "Tệ nhơn chỉ tụng Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni". Bốn vị ấy cầu
thỉnh: "Xin ngài vì chúng đệ tử tụng trì, cứu vớt cho khỏi vòng khổ nạn!"
Tôi cũng nhắm mắt tụng 21 biến, lúc mở mắt ra, lại không thấy bốn vị đó.
Khoảnh khắc giữa
hư không, có tiếng binh đao, một vị thần mặc tử bào, mang giáp trụ, quân thị vệ
đông đảo, đến trước quỳ thưa rằng: "Tôi là thần Ngũ Đạo Minh Ty, địa vị
tuy tôn quý, nhưng vẫn còn nhiếp về thần đạo. Sáu vị kia nhờ pháp lực của ngài,
đều được sanh lên cõi trời. Xin mời ngài hạ cố đến tệ cư trì tụng, khiến cho đệ
tử và chúng sanh nơi đó được nhờ phước ấm, đồng sanh lên thiên giới". Theo
vị thần, tôi đi đến một khu thành quách to rộng, chu vi ước độ vài mươi dặm.
Trong thành có rất đông tội nhơn, mang gông xiềng họp lại nơi sân rộng trước
cung điện, có lẽ đang chờ khảo tra xử phạt. Vị thần dạy quân bày tòa cao đẹp,
làm lễ thỉnh tôi lên ngồi, còn chính mình quỳ nơi trước, phía dưới, chắp tay lắng
nghe. Tôi liền định tâm chí thành tụng đủ 49 biến, khi mở mắt ra nhìn bốn bề
không thấy một ai cả, chỉ có gông xiềng đứt nát nằm ngổn ngang chung quanh. Còn
đang kinh ngạc, bỗng có 4 sứ giả đến bảo tôi rằng: "Đức vua dạy mời ông đi
nơi khác, vì ông đã làm rối loạn, phá hư trật tự chốn minh ty của chúng
tôi". Kế đó họ đưa tôi vào một hang núi, và tôi được hoàn hồn sống lại. Sự
tái sanh này chắc cũng nhờ oai lực không thể nghĩ bàn của Phật Đảnh Tôn Thắng
Đà Ra Ni.
Vương khai Sĩ và
Vương Sơn Nhơn nghe nói, mỗi người đều đọc bản chú của mình để so sánh với bản
chú của Vương Thiếu Phủ thì thấy đồng nhau như một bản. Cả ba đều vui mừng,
cùng nhau khánh hạ. Vương sơn Nhơn nói: "Bản của tôi thọ giáo nơi vị thánh
công nơi non Ngũ Đài", Vương Thiếu Phủ bảo: "Tôi thọ học bản chú này
với vị thần tăng". Vương Khai Sĩ nói: "Còn bản của tôi được thọ truyền
bởi ngài Kim Cang Trí Tam Tạng, hiện Phạm văn bối diệp hiện còn lưu trữ".
Ai nấy nghe nói đều kinh ngạc, khen là chuyện hy hữu.
Ngoài ra lại còn
chuyện ông Trương Diệc trì chú Tôn Thắng cứu được cha mẹ khỏi khổ địa ngục,
sanh lên cõi trời. Chuyện ông Trương Thừa Phước trì chú này khi bị minh ty đến
bắt, đã không thọ khổ mà còn cứu vớt được tội nhơn ở cõi âm được siêu thoát.
Truyện vài vị tăng trì chú Tôn Thắng cảm được xá lợi hiện và rất nhiều cảnh giới
lành.
Những chuyện trên đây có ghi chép trong tập Gia Cú Linh Nghiệm
Phật Đảnh Tôn Thắng Đà Ra Ni Ký. Sau tập này có chép bản văn đầy đủ của chú ấy,
gọi là Cụ Túc Bản. Bút giả y theo Cụ Túc Bản so sánh với phiên âm của các bản
khác, và tra cứu từ điển để dịch ra Việt ngữ cho đúng với Phạm âm. Riêng bản dịch
của Pháp Thiên Tam Tạng nhan đề Tối Thắng Phật Đảnh Đà Ra Ni so với Cụ túc Bản
văn cú đã đồng lại có phần rộng hơn. Sau khi hiệu kiểm, bút giả lại ghi thêm
vào những văn cú mà Cụ túc bản không có để được càng đầy đủ. Mong rằng việc làm
này, đem nhiều lợi ích cho người trì tụng.[] Thích Thiền Tâm
0 Kommentare:
Post a Comment