Hoặc ở Diêm Phù Ðề thị hiện
vào thai mẹ, làm cho cha mẹ tưởng là con trai của mình sanh đẻ, mà thân
của Như Lai đây trọn hẳn chẳng từ nơi ái dục hoà hiệp mà sanh. Như Lai
đã lìa ái dục từ nơi vô lượng kiếp rồi. Thân của Như Lai đây chính là
pháp thân, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ.
LGT: Đức Phật Đản Sanh hay chẳng phải Đản sanh? Phật nhập Niết Bàn hay chẳng nhập Niết Bàn? Bởi nếu nói Phật Đản sanh, nghĩa là thân Phật đồng với vô thường, có sanh, ắt có diệt?! Mà đã vô thường, sanh-diệt sao có thể gọi Phật là Như Lai? Là đấng thường Trụ? Cho tới nay vẫn không ít người còn hoài nghi hoặc còn chưa hiểu rõ về ý nghĩa đích thực ngày Đức Phật Đản Sanh, và ngày Phật nhập Niết Bàn, nói khác đi là nhân duyên nào khiến đức Phật Thích Ca thị hiện nơi cõi Ta Bà này để hoằng dương Phật pháp suốt 49 năm rồi Phật nhập Niết bàn?
Nhân ngày Đức Phật Đản Sanh 15.04.2015 Âm lịch, tức PL.2559, xin được giới thiệu cùng quý Phật tử trích đoạn đối thoại quan trọng giữa Ca Diếp Bồ Tát và Phật Thích Ca về ý nghĩa cũng như nguyên nhân Ngài thị hiện cõi Ta Bà để chúng ta cùng có sự nhìn nhận và hiểu thấu đáo hơn về tấm lòng từ bi không ngằn mé của bậc Cha Lành Chung Bốn Cõi...
***********************
Phật
bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Nếu có người nói thế này: Như Lai vô thường. Biết
là vô thường, vì như lời Phật dạy diệt các phiền não gọi là niết bàn,
cũng như lửa tắt thời không chỗ có, dứt các phiền não gọi là niết bàn
cũng lại như vậy, thế sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư?
Lại như Phật dạy, rời các cõi hữu lậu, bèn gọi là niết bàn, trong niết
bàn đây không có các cõi hữu lậu, thế sao Như Lai là pháp thường trụ
không biến đổi ư? Như cái áo hư rách hết, chẳng còn gọi là món vật. Cũng
vậy, niết bàn dứt các phiền não chẳng gọi là vật gì. Thế sao Như Lai là
pháp thường trụ không biến đổi ư? Ðức Phật cũng dạy: ly dục tịch diệt
gọi là niết bàn, như người bị chém đứt đầu thời không còn có đầu, cũng
vậy, ly dục tịch diệt rỗng trống, không chỗ có nên gọi là niết bàn. Thế
sao Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi ư? Phật từng dạy rằng:
Như sắt
nướng đỏ
Ðập văng mạt lửa
Văng ra liền tắt,
Chẳng biết ở đâu!
Ðược chánh giải thoát. Cũng lại như vậy.
Ðã lìa dâm dục,
Các cõi hữu lậu.
Ðược quả vô động,
Không rõ đến đâu!
Ðập văng mạt lửa
Văng ra liền tắt,
Chẳng biết ở đâu!
Ðược chánh giải thoát. Cũng lại như vậy.
Ðã lìa dâm dục,
Các cõi hữu lậu.
Ðược quả vô động,
Không rõ đến đâu!
Thế sao
Như Lai là pháp thường trụ không biến đổi?
Nầy Ca
Diếp! Nếu ai hỏi gại như vậy, gọi là lời gạn tà. Ông cũng chẳng nên suy
nghĩ rằng tánh Như Lai là diệt tận.
Nầy Ca
Diếp! Dứt hết phiền não không còn gọi là vật, vì đã trọn rốt ráo hẵn,
thế nên gọi là "Thường". Câu này tịch tịnh không có gì hơn. Dứt hết các
tướng không có thừa sót. Câu đây trắng sạch thường trụ không thối
chuyển. Thế nên niết bàn gọi là thường trụ. Như Lai thường trụ không
biến đổi cũng lại như vậy.
Mạt lửa
để dụ phiền não, văng ra liền tắt không biết ở đâu, để chỉ Như Lai đã
dứt phiền não, chẳng ở trong năm loài. Thế nên Như Lai là pháp thường
trụ không có biến đổi.
Nầy Ca
Diếp! Chánh pháp là chỗ tôn thờ của chư Phật, nên Như Lai cung kính cúng
dường. Vì pháp là thường trụ nên chư Phật cũng thường trụ".
Ca Diếp
Bồ Tát bạch Phật: "Nếu lửa phiền não tắt, Như Lai cũng tắt, thế thời Như
Lai không có chổ thường trụ, như mạt sắt kia, mất ánh lửa đỏ rồi chẳng
biết văng đến đâu. Như Lai phiền não cũng vậy, diệt rồi thời vô thường.
Lại như trên thanh sắt kia, hơi nóng và màu đỏ tắt rồi thời không còn
có, Như Lai cũng vậy diệt rồi thời vô thường. Diệt lửa phiền não bèn
nhập niết bàn, nên biết Như Lai tức là vô thường".
Phật
nói: "Nầy Ca Diếp! Thanh sắt là nói các phàm phu. Người phàm dầu diệt
phiền não, diệt rồi sanh lại, nên gọi là vô thường. Như Lai chẳng phải
như vậy, diệt rồi không còn sanh lại nên gọi là thường".
Ca Diếp
Bồ Tát lại bạch: "Như nơi thanh sắt, màu lửa đỏ đã tắt, đem thanh sắt để
lại trong lửa, thời màu đỏ sẽ sanh lại. Nếu như vậy, Như Lai lẽ ra sanh
phiền não lại, nếu phiền não sanh trở lại bèn là vô thường".
Phật
nói: "Nầy Ca Diếp! Ông không nên nói Như Lai vô thường, vì Như Lai là
thường trụ.
Như đốt
gỗ, khi gỗ hết lửa tắt thời còn tro, phiền não diệt rồi bèn có niết bàn.
Các điều dụ như áo hư, chém đầu, lọ vỡ cũng như vậy.
Nầy Ca
Diếp! Như sắt nguội có thể làm nóng lại. Như Lai không phải như vậy, dứt
phiền não rồi rốt ráo thanh lương, lửa phiền não chẳng còn sanh trở
lại.
Vô
lượng chúng sanh như thanh sắt kia Như Lai dùng lửa mạnh trí tuệ đốt sắt
kiết sử phiền não của chúng sanh".
Ca Diếp
Bồ Tát bạch Phật: "Lành thay! Lành thay! Con nay thật biết rõ chư Phật
là thường trụ".
Phật
nói: "Nầy Ca Diếp! Ví như Thánh Vương vốn ở trong cung, hoặc có lúc dạo
chơi nơi vườn; dầu lúc ấy vua không có ở giữa đám cung phi, cũng chẳng
được nói là vua đã chết. Cũng vậy, Như Lai dầu nhập vào trong niết bàn
không hiện nơi cõi Diêm Phù, chẳng gọi là vô thường. Như Lai ra khỏi vô
lượng phiền não vào nơi niết bàn an vui, dạo chơi vui vẻ nơi các vườn
hoa chánh giác".
Ca Diếp
Bồ Tát lại hỏi: "Như đức Phật đã dạy: Từ lâu Như Lai đã vượt khỏi biển
phiền não. Duyên cớ gì lại cùng Gia Du Ðà La sanh La Hầu La? Do cớ đây
mà biết rằng Như Lai chưa vượt khỏi biển cả phiền não. Cúi xin Như Lai
nói về nhơn duyên đó".
Phật
bảo Ca Diếp Bồ Tát: "Ông chẳng nên nói Như Lai từ lâu đã vượt khỏi biển
cả phiền não, duyên cớ gì lại cùng Gia Du Ðà La sanh La Hầu La, vì cớ
đây nên biết Như Lai chưa vượt khỏi biển cả phiền não.
Nầy Ca
Diếp! Ðại niết bàn đây hay kiến lập sự nghĩa to lớn. Nay các ông nên chí
tâm lóng nghe, rồi rộng vì người mà giảng thuyết, chớ sanh lòng nghi
ngờ.
Nếu có
vị đại Bồ Tát trụ đại Niết bàn, có thể đem núi Tu Di cao rộng để vào
trong vỏ hột đình lịch. Các loài ở tại núi Tu Di không bị chật hẹp, vẫn
y như thường, cũng không có quan niệm gì khác, chỉ có người đáng được độ
mới thấy vị Bồ Tát ấy đem núi Tu Di để vào vỏ hột đình lịch, rồi đem để
lại chỗ cũ.
Nầy Ca
Diếp! Lại có vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn, có thể đem cả cõi đại thiên
để vào vỏ hột đình lịch, chỉ có người đáng được độ là thấy việc làm nầy,
ngoài ra tất cả chúng sanh đều không hay biết cũng không thấy chật hẹp,
vẫn y như cũ. Cho đến đem cõi đại thiên để vào lỗ chưn lông cũng như
vậy.
Lại có
vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn ngắt lấy nhiều thế giới ở mười phương để
nơi đầu mũi kim, như ghim lá táo, rồi ném để nơi thế giới khác. Những
chúng sanh trong các thế giới bị ném đó không hay không biết, chỉ có
người đáng được độ là thấy việc làm nầy, và cũng thấy Bồ Tát đem thế
giới đã ném để lại chỗ cũ.
Lại có
vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn, bức lấy các thế giới ở mười phương để
trên bàn tay mặt, rồi ném vụt qua khỏi vô lượng thế giới khác. Cũng có
vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn đem vô lượng thế giới ở mười phương để
vào trong thân mình, hoặc để vào trong một vi trần, vẫn không chật hẹp.
Chúng sanh trong các cõi ấy không bị bức ngộp, cũng chẳng hay chẳng
biết, chỉ có người đáng được độ mới thấy biết việc làm nầy, và cũng thấy
Bồ Tát đem những thế giới để lại chỗ cũ.
Nầy Ca
Diếp! Vị đại Bồ Tát trụ đại niết bàn thời có thể thị hiện vô lượng thần
thông biến hoá, vì thế nên gọi là đại bát niết bàn.
Tất cả
chúng sanh không có thể suy lường đến được. Nay ông làm thế nào biết Như
Lai gần nơi ái dục sanh La Hầu La?
Nầy Ca
Diếp! Như Lai từ lâu đã trụ nơi đại niết bàn, thị hiện vô lượng thần
thông biến hoá, ở trong cõi đại thiên trăm ức mặt trời mặt trăng, trăm
ức Diêm Phù Ðề nầy, thị hiện vô lượng thần thông biến hoá, như trong
kinh Thủ Lăng Nghiêm đã có nói nhiều. Hoặc ở Diêm Phù Ðề thị hiện nhập
niết bàn, mà chẳng rốt ráo nhập niết bàn. Hoặc ở Diêm Phù Ðề thị hiện
vào thai mẹ, làm cho cha mẹ tưởng là con trai của mình sanh đẻ, mà thân
của Như Lai đây trọn hẳn chẳng từ nơi ái dục hoà hiệp mà sanh. Như Lai
đã lìa ái dục từ nơi vô lượng kiếp rồi. Thân của Như Lai đây chính là
pháp thân, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện vào thai mẹ.
Nầy Ca
Diếp! Nơi vườn Lâm Tỳ Ni, thị hiện từ nơi mẹ là Ma-Gia sanh ra, vừa sanh
liền đi qua hướng đông bảy bước xướng lên rằng: - Trong hàng trời,
người, A Tu La, ta là bực tôn thượng hơn cả.
Cha mẹ
và trời người thấy thế vừa sợ vừa mừng cho rằng hi hữu. Mà mọi người nói
là đứa trẻ nhỏ. Nhưng chính thiệt thời thân của Như Lai đã lìa cách trên
đây từ vô lượng kiếp.
Thân
của Như Lai tức là pháp thân, chẳng phải thân thịt máu mạch gân xương
tủy hiệp thành. Vì thuận cách sanh của chúng sanh mà thị hiện làm đứa
trẻ.
Ði qua hướng Nam bảy bước là thị hiện muốn làm phước điền vô thượng
cho chúng sanh. Ði qua hướng Tây bảy bước là thị hiện thân nầy là thân
cuối cùng không còn sanh tử nữa. Ði qua hướng Bắc bảy bước là thị hiện
đã qua khỏi sự sanh tử của các cõi.
Ði qua hướng Ðông bảy bước là thị
hiện làm đạo sư cho chúng sanh.
Ði qua bốn hướng cạnh bảy bước là thị
hiện dứt diệt các thứ phiền não và bốn loài ma, mà thành đấng Như Lai
Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
Ði lên bảy bước là thị hiện không bị vật dơ làm
ô nhiễm, như hư không.
Ði xuống bảy bước, là thị hiện rưới mưa pháp dập
tắt lửa địa ngục, cho chúng sanh hưởng vui an ổn.
Nơi
Diêm Phù Ðề, sau khi sanh bảy ngày lại thị hiện cạo tóc, mọi người đều
cho rằng Như Lai là đứa trẻ mới cạo tóc lần đầu. Kỳ thiệt, tất cả trời,
người, ma vương, Sa môn, Bà la môn, không một ai có thể thấy được đảnh
tướng của Như Lai, huống là có người cầm dao đến cạo tóc được. Trong vô
lượng kiếp lâu xa về trước, Như Lai đã cạo bỏ râu tóc rồi. Vì muốn tuỳ
thuận theo pháp thế gian, nên Như Lai thị hiện cạo tóc.
Cha mẹ
đem ta đến miếu thờ trời, ra mắt Ðại Tự Thiên. Lúc Ðại Tự Thiên thấy Như
Lai, liền chấp tay cung kính đứng qua một bên. Từ lâu xa vô lượng kiếp,
Như Lai đã bỏ lìa cách vào miếu trời, nhưng vì tuỳ thuận thế gian mà thị
hiện như vậy.
- Diêm
Phù Ðề, Như Lai thị hiện xỏ lỗ tai, kỳ thiệt, tất cả chúng sanh không ai
có thể xỏ lỗ tai Như Lai được, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như
vậy.
Lại lấy
các châu báu làm bông tai sư tử để đeo vào, kỳ thiệt từ vô lượng kiếp,
Như Lai đã bỏ lìa đồ trang điểm, nhưng vì muốn tuỳ thuận thế gian mà thị
hiện việc như vậy.
Rồi vào
học đường học tập chữ nghĩa, võ nghệ, nghề nghiệp v.v... kỳ thiệt từ vô
lượng kiếp Như Lai đã hoàn toàn rành rẽ tất cả những môn ấy. Xem khắp cả
ba cõi, không một ai có khả năng làm thầy của Như Lai được, vì muốn tùy
thuận thế gian mà thị hiện vào học đường. Vì thế nên gọi là đấng Như Lai
Ứng Cúng Chánh Biến Tri.
- Cõi
Diêm Phù Ðề, tùy thuận thế gian mà thị hiện làm Thái Tử, mọi người đều
thấy Như Lai là Thái Tử con trai lớn vua Tịnh Phạn và Hoàng Hậu Ma Gia,
hưởng sự vui sướng trong cảnh ngũ dục (41). Kỳ thiệt trong vô lượng
kiếp, Như Lai đã bỏ lìa sự vui ngũ dục rồi.
Nhà
tướng số đoán rằng Thái Tử nếu chẳng xuất gia thời sẽ làm Chuyển Luân
Thánh Vương cai trị Diêm Phù Ðề, mọi người đều tin lời đoán ấy. Kỳ
thiệt, từ vô lượng kiếp, Như Lai đã bỏ vị Chuyển Luân Thánh Vương mà làm
bực Pháp Vương.
Thị
hiện nhằm lìa cảnh vui ngũ dục, dạo thành gặp người già, bịnh, chết cùng
vị Sa môn, rồi vượt thành xuất gia hành đạo. Mọi người đều cho rằng Thái
Tử Sĩ Ðạt Ða mới xuất gia. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã xuất gia
hành đạo rồi.
Thị
hiện thọ giới cụ túc, tinh tấn tu hành đạo, chứng quả Tu Ðà Hoàn, quả Tư
Ðà Hàm, quả A Na Hàm, quả A La Hán. Mọi người thấy vậy đều nói quả A La
Hán dễ được không khó. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã thành tựu quả A
La Hán rồi.
Vì muốn
độ thoát mọi loài chúng sanh, mà thị hiện trải cỏ làm tòa, ngồi nơi đạo
tràng dưới cội Bồ Ðề hàng phục Ma quân. Ðại chúng đều cho rằng Như Lai
mới thành đạo, hàng phục Ma quân. Nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai đã hàng
phục Ma quân rồi. Vì muốn hàng phục chúng sanh cang cường nên thị hiện
như vậy.
Như Lai
lại thị hiện đại tiện, tiểu tiện, thở ra, hít vào. Mọi người đều cho
rằng Như Lai có đại tiện, tiểu tiện và thở. Kỳ thiệt thân của Như Lai
đây đều không có những việc ấy, vì tùy thuận thế gian mà thị hiện như
vậy.
Lại thị
hiện thọ thực phẩm của người dưng cúng, nhưng thiệt ra thân của Như Lai
đều không có sự đói khát. Lại thị hiện ngủ nghỉ đồng như chúng sanh,
nhưng từ vô lượng kiếp, Như Lai đầy đủ trí huệ thâm diệu, xa lìa tất cả
những sự thế gian như đi, đứng, nằm, ngồi, đau đầu, đau bụng, đau lưng,
rửa tay, rửa mặt, súc miệng v.v..., mọi người đều cho rằng Như Lai có
các oai nghi như vậy. Nhưng thân của Như Lai đều không có những sự ấy,
tay chơn trong sạch như hoa sen, hơi miệng thơm sạch như mùi thơm
ưu-bát-la.
Ðại
chúng cho rằng Như Lai là nhơn loại, mà thiệt thời Như Lai không phải
nhơn loại.
Lại thị
hiện nhận lấy y phấn tảo, giặt giũ may nhuộm, nhưng từ lâu Như Lai chẳng
cần đến cái y ấy.
Nầy Ca
Diếp! Dầu Như Lai luôn thị hiện nhập niết bàn tại Diêm Phù Ðề nầy. Kỳ
thiệt Như Lai chẳng rốt ráo nhập niết bàn, mà chúng sanh cho rằng Như
Lai thiệt diệt độ. Phải biết tánh Như Lai thiệt chẳng diệt hẳn, là pháp
thường trụ, là pháp không biến đổi.
Nầy Ca
Diếp! Ðại Niết bàn là pháp giới của Phật Như Lai.
Như Lai
thị hiện ra đời thành Phật, chúng sanh đều nói Như Lai mới thành Phật;
nhưng thiệt ra Như Lai chỗ làm đã xong từ vô lượng kiếp rồi, vì tùy
thuận thế gian mà thị hiện như vậy.
Nầy Ca
Diếp! - Diêm Phù Ðề có lúc Như Lai thị hiện chẳng giữ giới cấm, phạm tứ
trọng tội, nhưng từ vô lượng kiếp Như Lai giữ chặt cấm giới chẳng một
mảy thiếu xót.
Có lúc
thị hiện làm gã nhứt-xiển-đề, nhưng thiệt ra không phải nhứt-xiển-đề.
Làm gì có nhứt-xiển-đề mà thành bực vô thượng chánh giác!
Có lúc
thị hiện phá hoà hiệp tăng, có lúc thị hiện hộ trì chánh pháp, mọi người
đều phải kinh quái.
Có lúc
thị hiện làm Ma vương Ba tuần, nhưng từ vô lượng kiếp, Như Lai đã lìa ma
sự, trong sạch không nhi¬m như hoa sen.
Có lúc
thị hiện thân gái thành Phật, mọi người đều nói, rất lạ cho người nữ mà
có thể thành Phật. Phải biết Như Lai trọn hẳn không thọ thân gái, vì
muốn điều phục vô lượng chúng sanh nên hiện thân gái. Và cũng vì thương
xót chúng sanh mà hiện nhiều thứ thân, cho đến hiện thân A Tu La, Súc
Sanh, Ngạ Quỷ, Ðịa Ngục, để độ chúng sanh trong các loài ấy.
Lại thị
hiện làm Phạm Thiên Vương để cho người thờ Phạm Thiên vào trong chánh
pháp, nhẫn đến thị hiện các thân trời khắp các miếu trời cũng vì mục
đích ấy. Nhưng thiệt ra Như Lai không phải Phạm Thiên, không phải thân
trời.
Có lúc
thị hiện vào nhà gái dâm, nhưng Như Lai thiệt không có niệm dục, lòng
Như Lai trong sạch không nhiểm ô như hoa sen, vào đấy để tuyên thuyết
diệu pháp cho hạng người say mê sắc dục.
Lại thị
hiện vào nhà thanh y, để giáo hóa hạng nô tỳ cho chúng nó được trụ nơi
chánh pháp.
Lại thị
hiện làm bác sĩ để dạy học trò, thị hiện chơi bài bạc để độ hạng người
bài bạc, thị hiện thân chim thứu để độ loài thứu, lại thị hiện làm
trưởng giả để an lập mọi người trụ nơi chánh pháp, thị hiện làm vua, làm
quan, để dìu dắt nhơn dân tu chánh pháp.
Lại thị
hiện tật dịch (42) tại nơi Diêm Phù đề, rồi trước thí thuốc cho bịnh
nhơn, sau giảng dạy đạo pháp. Lại thị hiện cơ cẩn tai, trước bố thí cơm
áo, sau tuyên truyền diệu pháp. Lại thị hiện đao binh tai, rồi thuyết
diệu pháp.
Lại thị
hiện vì hạng chấp thường mà giảng pháp vô thường, vì hạng chấp lạc mà
giảng pháp khổ, vì hạng chấp ngã mà giảng pháp vô ngã, vì hạng chấp tịnh
mà giảng pháp bất tịnh. Vì người tham chấp ba cõi, mà thuyết pháp cho họ
xa lìa ba cõi, vì độ chúng sanh mà tuyên thuyết diệu pháp vô thượng,
trồng cây pháp dược vô thượng để thay cây phiền não, di¬n nói chánh pháp
để cứu bọn ngoại đạo tà kiến. Dầu thị hiện làm thầy chúng sanh, nhưng
Như Lai trọn không có quan niệm là Thầy.
Ðức Như
Lai chánh giác an trụ đại bát niết bàn như vậy, nên gọi là thường trụ
không biến đổi.
Cũng
như thị hiện ở Diêm Phù Ðề, ở Ðông Thắng Thần Châu, Tây Ngưu Hóa Châu,
Bắc Cu Lô Châu, nhẫn đến ở khắp cõi đại thiên, Như Lai đều thị hiện như
vậy. Như kinh Thủ Lăng Nghiêm đã nói rộng. Vì lẽ ấy nên gọi là đại bát
niết bàn.
Nếu có
vị đại Bồ Tát an trụ đại bát niết bàn như vậy, thời có thể thị hiện vô
lượng thần thông biến hóa như trên, mà trọn không có chút chướng ngại
cùng e sợ.
Nầy Ca
Diếp! Do nhơn duyên trên đây, ông chẳng nên nói rằng La Hầu La là con
trai của Phật, vì từ vô lượng kiếp. Như Lai đã lìa hẵn dục nhiễm, nên
Như Lai gọi thường trụ không biến đổi".
Ca Diếp
Bồ Tát bạch Phật: "Như lời Phật nói: như ngọn đèn đã tắt thời không có
phương sở. Cũng vậy, Như Lai diệt độ rồi thời không phương sở. Thế nào
Như Lai gọi là thường trụ?"
Phật
nói: "Nầy Ca Diếp! Ví như người đời thắp đèn dầu, theo số dầu còn thời
ngọn đèn cháy, khi dầu hết thời ngọn đèn tắt, ngọn đèn tắt dụ cho lửa
phiền não dứt. Ngọn đèn tắt mà bình đèn vẫn còn. Cũng vậy, phiền não dầu
dứt mà Như Lai pháp thân thường còn.
Nầy Ca
Diếp! Ngọn đèn cùng bình đèn có cùng tắt dứt cả không?"
Ca Diếp
Bồ Tát bạch Phật: "Bạch Thế Tôn, không ạ! Tuy không cùng tắt dứt cả,
nhưng là vô thường. Nếu đem pháp thân dụ với bình đèn, thời pháp thân
cũng vô thường".
Phật
nói: "Nầy Ca Diếp! Ông không nên nạn như vậy. Ðồ vật thế gian là vô
thường, Như Lai không phải vô thường. Trong tất cả pháp niết bàn là
thường, Như Lai tức niết bàn nên gọi là thường.
(Trích Kinh Đại Niết Bàn - Phẩm Tứ Tướng Thứ 7)
THÍCH NGHĨA
(42)– Nhơn gian có TIỂU TAM TAI ( ba tai nạn nhỏ). 1- Tai nạn về bệnh
tật nguy hiểm truyền nhiễm, như bệnh dịch, bệnh trái trời, bệnh thiên
thời v.v… 2- Tai nạn về sự đói khát. 3- Tai nạn về sự đao binh (giặc
loạn).Thế giới có ĐẠI TAM TAI (3 TAI NẠN LỚN) : 1- Hỏa tai : tai nạn về
lửa đốt cháy từ A-tỳ địa-ngục đến cõi trời Sơ-Thiền. 2- Thủy tai : tai
nạn về nước ngập đến cõi trời Nhị-Thiền. 3- Phong tai ; tai nạn về gió
thổi tan đến cõi trời Tam-Thiền.
0 Kommentare:
Post a Comment