Pages

20 December 2016

HƯƠNG VỊ GIẢI THOÁT



Khi một kẻ trần tục, với một cái tâm chưa được huấn luyện trong sự tu tập tâm linh cao cấp được đức Phật dạy, cảm nghiệm một cảm thọ dễ chịu, thì xu hướng tiềm tàng đối với tham dục sẽ khởi lên tương ứng – một sự ham muốn sở hữu và vui thích với đối tượng mang lại cảm giác dễ chịu đó...





Bhikkhu Bodhi
Thích Thanh Hương dịch

Tiếng gọi thôi thúc của thời đại chúng ta, không nghi ngờ gì nữa, là tiếng gọi của tự do. Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại mà tiếng gọi của tự do lại lan tỏa rộng lớn và gây hưng phấn bằng lúc này, có lẽ nó chưa từng lan tỏa sâu sắc đến như vậy trong lịch sử.

Đáp ứng đòi hỏi tự do của con người, những thay đổi rộng rãi đã được thực hiện trong hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống – chính trị, xã hội, văn hóa và tôn giáo. Những đế quốc hùng mạnh từng thống trị trên thế giới như những con quái vật biển khổng lồ huyền thoại nhấn chìm các lục địa trong tay chúng, bóp vụn và phá hủy, nhưng các dân tộc bị trị đã mạnh mẽ đứng lên giành lại quê hương của mình – tuyên bố độc lập, giải phóng và tự trị.

Những chế độ chính trị cũ như quân chủ chuyên chế đã nhường đường cho cơ chế dân chủ - người dân làm chủ – bởi vì ai cũng đòi hỏi quyền được đóng góp tiếng nói của mình cho hướng đi chung của một dân tộc. Những cấu trúc xã hội tồn tại lâu đời đã làm cho con người mông muội từ buổi bình minh của lịch sử - nô lệ, nông nô, hệ thống giai cấp – bây giờ đã biến mất, hoặc đang nhanh chóng biến mất, trong khi những phong trào giải phóng dạng này hoặc dạng khác ngày một lan rộng.

Nghệ thuật cũng vậy, mang bằng chứng cho những đòi hỏi lớn về tự do: thơ tự do, hội họa trừu tượng, tân nhạc, chỉ là một số ít những cách tân đã làm lung lay những cấu trúc nghiêm khắc truyền thống để trao cho những nghệ sỹ không gian rộng mở cho nỗ lực thể hiện sức sáng tạo của bản thân. Ngay cả tôn giáo cũng không thể miễn dịch trước mặt trận tự do ngày càng lan rộng này. Các hệ thống niềm tin và nguyên tắc giáo điều không còn tự biện minh như trong quá khứ trên mảnh đất được Chúa bảo hộ, được kinh điển thần thánh hóa hay được các giáo sĩ áp đặt. Bây giờ tất cả đó phải được chuẩn bị để đương đầu sự cởi mở, lột bỏ những tấm màn thiêng liêng, phơi bày trước sự phê bình của những nhà tư tưởng, người tự coi mình có thẩm quyền tự do tra hỏi, dùng lý trí và kinh nghiệm của riêng mình cho sự kháng cáo đến cùng. Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hành động trở thành những khẩu hiệu của công chúng, tự do tư tưởng và tự do về quan điểm đạo đức là những khẩu hiệu của đời sống cá nhân chúng ta. Trong bất cứ dạng thức nào nó đạt được, tự do luôn được coi là sở hữu quý nhất của chúng ta, giá trị hơn cả tự thân cuộc sống. “Tự do hay là chết,” một nhà yêu nước người Mỹ đã kêu gọi cách đây hơn hai trăm năm trước. Nó vẫn còn vang vọng đến tận những thế kỷ sau này.

Để đáp ứng cho những yêu cầu về những địa vực rộng lớn hơn của sự tự do, Đức Phật đã hiến tặng cho nhân loại Giáo lý của Ngài, Chánh Pháp, như là con đường giải thoát vẫn được ứng dụng ngày nay như đã từng ứng dụng trong lịch sử từ khi được tuyên thuyết lần đầu tiên cách đây hơn 25 thế kỷ.

 “Như đại dương chỉ có một vị - vị mặn – Chánh Pháp và Giới Luật này (dhammavinaya) chỉ có một vị duy nhất – vị giải thoát”: Đó là lời đức Phật xác minh phẩm chất giải thoát[1] trong nội dung Giáo lý của ngài.
Nước dù được lấy từ bề mặt, khoảng giữa, hay tận đáy đại dương, vị của nó vẫn chỉ một – vị mặn của muối. Một người dù uống cả biển nước, một thùng hay một bát, cũng cảm nhận một vị mặn như nhau. Tương tự như vậy với giáo lý Phật đà, hương vị giải thoát (vimuttirasa) duy nhất tràn ngập toàn bộ Giáo lý và Giới luật, từ đầu cho đến cuối, từ bề mặt cho đến tận sâu thẳm bất tư nghị của nó. Dù người ta có nếm thử giáo lý ở mức sơ cơ – trong việc thực hành sự độ lượng và hành trì giới luật, trong hành động thành tâm và sùng đạo, trong phẩm hạnh tôn kính, nhã nhặn, và từ bi; hoặc ở mức độ trung bình của giáo lý – trong kiến giải thanh tịnh và sự giải thoát được thực chứng bởi các bậc thánh giải thoát, trong mọi trường hợp hương vị của nó vẫn như nhau – vị của sự giải thoát, tự do tự tại.

Nếu một người thực hành Pháp trong một phạm vi giới hạn, sống đời sống tại gia, thực tập Pháp phù hợp đúng đắn, thì người đó kinh nghiệm được những mức độ tự do có giới hạn; nếu thực hành Pháp ở phạm vi sâu sắc hơn, sống lối sống xuất gia, an trụ trong Pháp xuất thế với các phẩm hạnh của một ẩn sĩ, quán chiếu về sự sinh và diệt của tất cả Pháp hữu vi, thì người đó kinh nghiệm được một mức độ tự do sâu sắc hơn; và nếu thực hành trong sự toàn triệt của Pháp, chứng ngộ ngay trong đời sống này sự giải thoát tối hậu, thì người đó cảm nghiệm được sự tự do vô lượng.

Ở mọi tầng mức, hương vị của Giáo Pháp chỉ cùng một bản chất, hương vị của giải thoát. Chỉ là tùy cấp độ mà hương vị đó được trải nghiệm khác nhau mà thôi, và sự khác biệt về cấp độ thì tương xứng hoàn toàn với phạm vi thực tập. Thực tập Pháp ít thì giải thoát ít, thực tập Pháp nhiều thì thì giải thoát nhiều. Pháp mang đến thành quả của giải thoát.

Một khi Pháp được đề ra để cung ứng một sự tự do hoàn hảo, thì luôn có sự tương thích cơ bản phù hợp giữa hoài bão của con người cho những chiều kích rộng mở về tự do và những khả năng mà người ta có thể thực hiện thông qua việc thực hành giáo lý đức Phật. Tuy nhiên, mặc dù về lý tưởng có sự tương thích này, nhưng khi thực tập Pháp, người ta thường bắt đầu thấy mình bị đe dọa theo một cách riêng biệt nào đó, xung đột với những khuôn mẫu tư tưởng quen thuộc, mâu thuẫn về mặt trí thức và trượt ngả về mặt cảm xúc. Thực tế là khi Pháp hướng đến con đường Giải thoát, một giáo lý tràn ngập bởi ‘hương vị giải thoát,’ nhưng nó lại luôn yêu cầu một chế độ thực tập mà thậm chí như là đối nghịch lại với tự do – một chế độ thực hành được xây dựng trên nền tảng giới luật, sự khắc kỷ và tự kiểm soát. “Một mặt chúng ta tìm kiếm tự do,” đối tượng trước mắt của chúng ta, “và mặt khác chúng ta được dạy rằng để đạt đến sự tự do này, hành vi, ngôn ngữ, và tư tưởng của chúng ta phải được tu chỉnh, kiểm soát.” Chúng ta phải làm gì với nghịch lý lạ lùng này khi Phật Pháp xuất hiện để dạy rằng: muốn đạt đến tự do, tự do phải bị phá bỏ? Tự do như là một cứu cánh có thật sự được đạt đến bằng những phương tiện bao hàm chính những cự tuyệt về tự do?

Câu trả lời cho điều nghịch lý này nằm ở sự khác biệt giữa hai loại tự do – tự do như sự phóng túng và tự do như sự tự chủ tâm linh. Con người thường đồng nhất tự do với sự phóng túng. Đối với họ, tự do nghĩa là được quyền theo đuổi không bị ngăn cản theo những thôi thúc, tham vọng và tính bốc đồng của mình. Để được tự do, họ nghĩ rằng họ phải được tự do làm bất cứ điều gì, nói bất cứ điều gì và nghĩ bất cứ điều gì họ muốn. Mọi sự hạn chế áp đặt lên sự phóng túng này được coi như là một sự xâm phạm lên tự do của họ; do đó một chế độ thực tập đòi hỏi sự thận trọng trong hành vi, lời nói và tư duy, đòi hỏi có giới luật và tự kiềm chế bản thân, lập tức gây xung đột, và với họ, đó là một sự bó buộc. Nhưng tự do được nói đến trong Phật Pháp không phải là tự do theo kiểu phóng túng đó. Tự do trên quan điểm của đức Phật là tự do thuộc về tâm linh – một sự tự do bên trong vốn đi liền với sự đoạn trừ các phiền não, giải thoát khỏi mọi khuôn khổ do tham vọng thúc giục và cuối cùng là sự giải thoát hoàn toàn khỏi luân hồi, vòng tròn sinh tử tương tục.

Trái ngược với sự phóng túng, tự do tâm linh không thể đạt được bằng các phương tiện bên ngoài. Nó chỉ có thể được đạt đến từ bên trong, thông qua một quá trình rèn luyện đòi hỏi sự từ bỏ dục vọng và bốc đồng trong việc hân thích một mục đích cao thượng hơn. Sự tự do tâm linh sinh ra từ sự nỗ lực tu tập này là sự chiến thắng mọi sự ràng buộc; song chiến thắng này sẽ không bao giờ đạt được mà không tuân thủ yêu cầu của một cuộc chiến – những yêu cầu bao hàm sự tự kiềm chế, tự kiểm soát, tự rèn luyện và cái giá cuối cùng phải là sự đầu hàng của mọi dục vọng cá nhân.

Để rõ hơn về ý tưởng tự do này, chúng ta hãy xem xét trường hợp trái nghịch của nó, trạng thái trói buộc, và bắt đầu bằng việc xét về một trường hợp giam cầm thể chất cực đoan. Giả sử có một người bị nhốt trong tù, trong buồng giam với bốn bức tường đá nặng nề và những song sắt cứng cát. Y bị trói trên một chiếc ghế - hai tay bị trói ngoặt ra đằng sau lưng, chân bị đeo cùm, mắt bị bịt kín và miệng bị nhét cứng. Giả sử một ngày nào đó dây thừng được tháo ra, cùm được mở, khăn bịt mắt và nhét miệng được gỡ bỏ. Bây giờ người đàn ông này được tự do di chuyển trong buồng giam, duỗi thẳng chân tay, nói năng và nhìn ngó. Nhưng dù thoạt tiên y tưởng tượng là đã được tự do, y liền nhận ra rằng tự do thật sự vẫn là một khoảng cách xa vời như bầu trời xanh trong bên trên những vách đá và những thanh sắt của buồng giam của y.

Tiếp theo, giả sử chúng ta phóng thích người tù kia, đối xử với y như một người trung lưu, phục hồi đầy đủ các quyền công dân của y. Bây giờ y có thể cảm nhận được tự do về chính trị và xã hội mà y thiếu khi làm một tù nhân; y có thể bầu cử, làm việc, du lịch như mình muốn, thậm chí là có thể làm chủ một cửa hiệu. Nhưng vẫn còn nhiều tồn tại hạn chế – gánh nặng trách nhiệm, bổn phận, những giới hạn về quyền lực, lạc thú và thanh thế - một nghịch lý đau đớn của tự do mà y ao ước, và hoàn cảnh thực tế chỉ mang lại cho y những u ám ảm đạm. Thêm bước nữa, hãy nâng người này từ trung lưu lên vị trí quyền lực của một đại đế, vị hoàng đế có quyền lực cai trị toàn thế giới. Y được sống trong một cung điện lộng lẫy, trăm ngàn mỹ nữ đẹp hơn cả những bông hoa sen vây quanh hầu hạ, sử hữu vô số kho tàng tài nguyên vàng bạc, châu báu, đất đai, hưởng thụ tất cả những lạc thú tột bậc của thế gian. Tất cả quyền năng, lạc thú, danh vọng, vinh quang và giàu có nằm trong tay y. Y chỉ cần đưa ra ý muốn của mình như một mệnh lệnh và nó được thực hiện ngay lập tức. Không một trở ngại nào cho sự tự do phóng túng của y. Nhưng vấn đề vẫn còn đó: liệu anh ta có thật sự tự do? Chúng ta hãy xem xét vấn đề này ở mức độ sâu sắc hơn.

Có ba loại cảm thọ mà đức Phật chỉ ra: Cảm thọ vui sướng, cảm thọ khổ đau, và cảm thọ trung tính - cảm thọ không vui cũng không khổ. Một loại cảm thọ hiện khởi trên mỗi kinh nghiệm cụ thể. Ba cảm thọ này tương ứng với ba loại tâm sở (anusaya), những khuynh hướng tâm lý tiềm tàng đang ngủ ngầm trong tâm thức của chúng sinh từ vô thỉ, luôn sẵn sàng nảy lên trong trạng thái biểu hiện khi có điều kiện thích hợp, và rồi rút xuống trở lại ngủ đông khi lực tác động kích thích đã yếu đi.

Ba tâm sở này là tham dục (raga), sân hận (patigha), và si mê (avijja), tương đương về mặt tâm lý của ba độc căn tham (lobha), sân (dosa), và si (moha). Khi một kẻ trần tục, với một cái tâm chưa được huấn luyện trong sự tu tập tâm linh cao cấp được đức Phật dạy, cảm nghiệm một cảm thọ dễ chịu, thì xu hướng tiềm tàng đối với tham dục sẽ khởi lên tương ứng – một sự ham muốn sở hữu và vui thích với đối tượng mang lại cảm giác dễ chịu đó. Khi một người cảm nghiệm một cảm thọ đau khổ, thì xu hướng chán ghét nổi lên, một sự ghét bỏ đối với nguyên nhân gây đau khổ. Và khi người ta trải nghiệm một cảm thọ trung tính, thì xu hướng tiềm tàng si mê – hiện khởi nhưng thối lui, lập lờ lưỡng lự trong trường hợp của tham dục và chán ghét – hiện khởi nổi trội, bao phủ tâm thức của người đó bằng tấm màn của sự lãnh đạm u tối.

Trong bất cứ trường hợp nào, ba khuynh hướng tiềm tàng của tham dục, giận ghét và u mê bị kích động bởi các cảm thọ tương ứng của chúng từ tình trạng ngủ ngầm sang trạng thái hoạt động, nếu không nỗ lực để trừ dẹp chúng, không cố gắng kiềm chế, đoạn trừ, từ bỏ và tiêu diệt chúng, thì chúng vẫn đeo bám trong tâm thức. Một khi chúng vẫn tồn tại trong tâm thức, người ta vẫn liên tục làm cho chúng khởi lên, hưởng ứng chúng, và tiếp tục bám níu vào chúng, chúng sẽ kết thành khối, sinh trưởng mạnh lên, và giống như một quả cầu lửa ném vào đống cỏ khô, bùng nổ mạnh mẽ ngay ban đầu khi những nhân tố yếu ớt trở thành nổi ám ảnh hung dữ tước mất khả năng kiềm chế của người đó. Dù đó là vua của các vua, như giả định trên, ông ta cũng không còn làm chủ được chính mình nữa mà là một kẻ đầy tớ trước mệnh lệnh của chính những phiền não trong tâm thức ông ta.

Dưới điều động của tham dục, người ta bị cuốn hút đối với cảm thọ vui sướng, dưới sự chi phối của giận ghét, người ta bị chán ghét bởi cảm thọ đau khổ, dưới sự chi phối của u mê, người ta bị làm cho rối loạn bởi cảm thọ trung tính. Người đó bị quầy quật bởi hạnh phúc, lo rầu, phấn chấn bởi sự thành đạt, sự tôn trọng, và sự khen ngợi, chán nản trước thất bại, làm nhục và khiển trách. Mặc dù người đó có thấy rằng hành động của mình có thể dẫn đến sự tự hại, y cũng không đủ sức để tránh nó; và dù biết rằng nếu thay đổi hành vi sẽ mang lại lợi ích cho mình, y cũng không thể nắm bắt nó. Bị càn quét bởi dòng chảy của những phiền não chưa được từ bỏ, y bị cuốn đi từ đời sống này đến đời sống khác trong đại dương sinh tử, với các đợt sóng sinh rồi diệt, với các xoáy nước khổ đau và tuyệt vọng của nó. Bề ngoài, y có thể là một kẻ cai trị toàn thế giới, nhưng trong chiều sâu tâm thức y vẫn chỉ là một kẻ nô lệ. Trong trường hợp tự do phóng túng, y có thể hoàn toàn tự do, nhưng trong trường hợp tự do tâm linh, y vẫn là một nạn nhân của sự trói buộc vào sự tuyệt vọng ghê gớm nhất của nó: sự trói buộc đối với những vận hành của một tâm thức ô nhiễm.

Tự do tâm linh, trái nghịch với sự trói buộc, do đó nó phải có nghĩa là sự giải thoát khỏi tham dục, giận ghét và u mê. Khi tham dục, giận ghét và u mê được nhổ tận gốc rễ để chúng không còn tồn tại dù trong dạng ngủ ngầm nữa, thì người ta mới tìm thấy một vị trí cho sự tự chủ mà từ đó y không bao giờ bị phế truất, không bao giờ bị lung lay nữa. Mặc dù dưới hình thức là một khất sĩ đi khất thực từ nhà này sang nhà khác, người đó vẫn là một ông vua; dù bị nhốt đằng sau những song sắt, người đó vẫn có tự do bên trong. Người đó giờ đây có toàn quyền đối với tâm thức của mình, và cũng như đối với toàn thể vũ trụ; vì chẳng có gì trong vũ trụ có thể lấy đi sự giải thoát trong tâm, thứ tài sản không thể bị đánh mất. Người đó an trú trong cuộc đời giữa mọi thứ hỗn độn, đứng vững vàng trong một tư thế hoàn hảo vượt lên trên mọi thăng trầm của cuộc sống. Khi những đối tượng lạc thú xảy đến trong tầm nhận thức của mình, người đó không khao khát chúng, khi những đối tượng khổ đau xảy đến người đó không chối bỏ chúng. Người đó nhìn cả hai với tâm buông xả và ghi nhận sự sinh khởi và tàn diệt của chúng. Đối với các cặp đối lập (sinh/diệt, thành/bại, đến/đi, hơn/thua…), cái làm cho thế giới này vận động, không còn làm bận tâm người đó, vòng tròn của tham đắm và chán ghét đã bị phá vỡ tận căn để. Một cục vàng và một cục đất sét là như nhau trong mắt người đó; tán dương và nhục mạ đối với người đó chỉ là những âm thanh trống rỗng. Y an trú trong sự tự do mà y vừa đạt được thông qua một nỗ lực tu tập dài lâu. Y giải thoát khỏi khổ đau, bởi vì với các phiền não bị nhổ sạch thì không còn có lo buồn hay khổ não nào tồn tại trong tâm của y nữa; chỉ còn duy nhất là sự an lạc tuyệt đối không một bợn nhơ của tham ái nào nữa.

Y giải thoát khỏi sợ hãi, khỏi sự tàn nhẫn của những mối lo âu mà ngay cả các vị vua vẫn phải đối mặt ngay trong cung điện của mình, dù được quân lính bảo vệ trong ngoài. Y giải thoát khỏi bệnh tật, khỏi căn bệnh tham dục quấy rầy và trói buộc tâm tư, khỏi căn bệnh của luân hồi với những vòng quay của phiền não, nghiệp và kết quả của nghiệp. Y sống an lạc mỗi ngày, lan tỏa khắp thế gian với tâm từ bi vô lượng, an vui trong niềm giải thoát vô biên, hoặc truyền dạy mọi người con đường mà chính mình đã đi qua để đạt đến mục đích, trong trí tuệ vững chãi mà đối với y con đường vô thỉ của sinh tử luẩn quẩn đã được đóng lại, y đã đạt đến đỉnh cao nhất của sự giải thoát thiêng liêng và đã thực hiện sự chấm dứt tất cả mọi sự tái sinh trong tương lai.

Trong ý nghĩa đầy đủ của nó, sự tự do mà đức Phật chỉ dạy trong giáo lý của Ngài chỉ có thể được hân thưởng bởi Ngài, người đã thực chứng được mục đích cứu cánh của đời sống. Nhưng giống như muối hòa mình vào bất cứ loại thức ăn nào đó được sử dụng cho từng thời điểm, cũng vậy hương vị của sự giải thoát lan tỏa khắp mọi giáo lý và giới luật được đức Phật giảng dạy, đoạn đầu, đoạn giữa và đoạn cuối. Bất kể trình độ nào trong quá trình thực tập Pháp, với nội dung của nó, người thực hành cũng nếm được hương vị của sự giải thoát. Tuy nhiên hãy ghi nhớ trong tâm rằng sự giải thoát đích thực – sự giải thoát bên trong nội tâm – không được ban bố như một ơn huệ. Nó chỉ có thể đạt được bằng sự thực hành con đường đi đến giải thoát, con đường Bát Chánh Đạo.



[1] Giải thoát hay cũng chính là tự do hay tự tại. Trong bài này, phạm trù ý nghĩa của nó là giống nhau và có thể được dùng thay thế cho phù hợp với từng ngữ cảnh cụ thể.

0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites