Pages

24 September 2015

VĂN KHUYẾN PHÁT TÍN TÂM

http://i.ytimg.com/vi/AHvmC6Pueho/hqdefault.jpgKẻ xut gia hôm nay, đ mc thc ăn đu nh tín thí, thuc men gng chiếu cũng ca đàn na. Ngưi nhc sc cày vn còn kém thiếu. Ta ngi không thọ hưng sao nở an lòng? K dệt may gian khổ chẳng k đêm hôm. Ta y phc dư tha, há không mến tiếc?  Người nhà lá vách phên, trn đời bn rộn. Ta nn cao đền rng thong thả quanh năm. Đem công cc nhc đ cung cấp cho ta sự an nhàn, lòng nào vui đưc? Lấy tài lợi riêng đ giúp cho ta đưc no đ, lý có hợp không?




(Tht Hin Đi sư soạn)


Tng nghe: Ca yếu vào đạo, phát tâm làm đu. Việc gp tu hành, lập nguyện trước. Nguyn lập, tt chúng sanh th đ. Tâm phát, thì Phật đạo mi kham thành. Nếu không phát tâm rộng lớn. Lập nguyn vng b, thì tri kiếp số như vi trần, vn còn trong vòng sanh t.  Dù có tu hành siêng kh, ch lung công khó nhc thôi!


Kinh Hoa Nghiêm nói: “Nếu quên mt m bồ tu các pháp lành đó là nghiệp ma”. Quên mt còn như thế, huống chưa phát ưCho nên, mun  hc Như-Lai tha, trước phát b-đề nguyện, điều này vẫn không thể lần la vy.


Nhưng s sai biệt ca tâm nguyện, tướng trạng rt nhiều. Nay xin đi chúng, ước c tỏ bày. Phát tâm gm tám tưng: tà, chánh, chân, ngy, đại, tiểu, thiên, viên.  Tám ớng ấy như thế nào ?


1.  Trong đời người tu chỉ mt b hành theo sự tướng, không xoay vào tham cu chân tâm.  Hoc theo việc bên ngoài, ưa thích hư danh, mong cầu lợi dưỡng. Hoặc đắm huyển cảnh, tham dc lạc hiện ti, cầu phưc báo đời sau.  Phát tâm như thế gọi là Tà.


2. Bc không cầu lợi dưỡng, cũng chẳng thích danh, vui hiện thế không màng, phước v lai chẳng tưởng. Ch sống chết, mong cầu đạo Bồ-đ. Phát tâm như thế gi là Chánh.


3. Niệm nim trên cu Pht đạo, m tâm dưới đ chúng sanh. Nghe thành Pht lâu xa chẳng khiếp lui, thấy chúng sanh khó độ không chán mi. Như leo cao muôn dặm, quyết trèo tn đỉnh. Như lên tháp báu chín cấp, đến ngọn chót cùng. Phát tâm như thế gọi Chân.


4. Có ti không sám hi, li chng biết tr. Trong trược mà ngoài thanh, trưc siêng nhưng sau tr.  Tuy có lòng tt, song xen ln với lợi danh. Dù tu pháp lành, bị ti nghiệp làm ô nhiễm. Pt tâm như thế gi là Ngụy.


5. Chúng sanh đhết, bn nguyện mới cùng, Pht đạo tròn nên, thề nguyền mới  mãn. Phát tâm như thế gọi là Đi.


6. Xem ba cõi như tù ngc, nhìn sống chết tợ oan gia. Chỉ mong tự đ, không mun độ người. Phát tâm như thế gi  là Tiểu.


7. Thấy ngoài tâm có chúng sanh mình phi đ.  Hiểu ngoài tâm có Phật đo ri nguyện thành.  Công tu tp chng sạch quên, sự kiến gii không tiêu mất.  Phát m như thế gọi là Thiên (lệch).


8. Biết chúng sanh có tánh minh, nên nguyn độ thoát.  Rõ Phật đạo tánh minh, nên nguyện viên thành. Lìa ngoài ngun tâm th, không thy pháp chi. Ri dùng tâm rỗng như hư không, phát nguyện lớn như hư không, tu hạnh rng như hư không. Kết cuc chng quả vô-chng đc như hư không, cũng chng thấy tướng Không.  Phát tâm như thế gi là Viên.


Tám cách phát tâm trên đã biết nh rẽ. Nên t xét k, xem mình phát tâm thuc v cách nào? Nếu thấy Tà, Ngy, Tiểu, Thiên phi lập tc sa đổi. Như thuộc Chánh, Chân, Viên, Đi nên bền chắc thêm lên.  Như thế mới gi là chân chánh phát tâm B-đ.


B-đ tâm này vua trong các pháp lành, phi có nhân duyên mới phát khởi đưc.


Nhân duyên ấy đại lược có mười th:


1. Vì nghĩ đến ơn Pht:



Đức Thích-Tôn khi mới phát tâm, đ chúng ta, tu B-tát đạo, tri lượng kiếp chu đ s kh.  c ta to nghiệp, đức Phật xót thương, phương tin giáo hóa ta ngu si không chịu tin theo. Ta đọa ác đo, Phật li càng thương, mun thay chu khổ. Nhưng ta nghiệp nặng không thể cu vớt. Ta sanh làm người, Pht dùng phương tin, khiến gieo căn lành, nhiều kiếp theo dõi, lòng không tạm b.  Pht mớing thế, ta còn trm luân, nay đưc thân nời, Phật đã dit đ. Ti chi không thấy kim thân? May gì mà được gặp Thánh tưng?





Ri tự suy nghĩ: Nếu đời trước chng trng căn lành thì làm sao đưc nghe Pht Pháp? Không nghe chánh pháp, đâu biết mình thưng th Pht ân? Ân đc này, bể thẳm khôn cùng, non cao khó sánh! Nếu không phát tâm b-đ, tu hạnh B-tát, giữ vng chánh pháp, cu đ chúng sanh.  Thì nát thịt tan ơng cũng không đền đáp đưc! Đây là nhân duyên thứ nht.





2. nhớ ơn cha m:



Than ôi! Cha m sanh ta ra khó nhc. Mười tháng mang thai nng nhọc, ba năm sa mớm cơm. Khi đưc nên người, chi mong ta ni dõi tông đường, tự tha tiên t. Ngờ đâu ta đã xuất gia, lm ng Thích t, không dâng cơm nưc, chng đ chân tay.  Cha mẹ còn, ta không thể nuôi dưỡng thân già. Cha mẹ mt, ta chưa thdt dìu thần thc. Chng hi ng li thì, nước trời đà cách bit từ dung, m biếc chhắt hiu thu thảo. Như thế, với đời là sự tn lớn, với đạo li không ích chi, hai đường đã li, khó tránh ti khiên!





Nghĩ như thế ri, làm sao chuc lại? Ch trăm kiếp nghìn đời, tu B-tát hạnh, mười phương ba cõi đ khắp chúng sanh.  Đưc như vy, chng nhng cha mẹ mt đời, cha mẹ nhiu đời đều nhđ thoát. Chng nhng cha m mt người, cha mẹ nhiu người, cũng đưc siêu thăng. Đây là nhân duyên thứ hai.





3. ng ơn Sư trưởng:



Cha mẹ tuy sanh dc sắc thân, nhưng nếu không thy thế gian, thì ta chng hiểu biết nghĩa nhân. Không có thy xut thế, tt ta chẳng am tường Phật Pháp. Không biết lễ nghĩa, liêm sỉ, nào khác chi loài cm thú? Không tường nhân quPhật Pháp, đâu khác hàng ngu mông? Nay ta biết chút ít lễ nghĩa, hiểu đôi phần Phật Pháp nhờ đâu? Hung na, thân giới phẩm đã nhun phn đc hnh, áo ca-sa thêm rng v phưc điền, thc ra đều do ân sư trưởng mà đưc.





Đã biết như thế, nếu ta cầu tiu qu thì ch th lợi riêng cho mình.  Nay phải pt đi tâm, mới mong độ các loài hàm thức. Như vậy, thầy thế gian mới d hưng phần lợi ích, mà xuất thế cũng tha mãn vui lòng.  Đây là nhân duyên thứ ba.





4.   nghĩ ân thí chủ:



Kẻ xut gia hôm nay, đ mc thc ăn đu nh tín thí, thuc men gng chiếu cũng ca đàn na. Ngưi nhc sc cày vn còn kém thiếu. Ta ngi không thọ hưng sao nở an lòng? K dệt may gian khổ chẳng k đêm hôm. Ta y phc dư tha, há không mến tiếc?  Người nhà lá vách phên, trn đời bn rộn. Ta nn cao đền rng thong thả quanh năm. Đem công cc nhc đ cung cấp cho ta sự an nhàn, lòng nào vui đưc? Lấy tài lợi riêng đ giúp cho ta đưc no đ, lý có hợp không?





Thế nên tự nghĩ: Phải vận lòng bi trí, tu phưc hu trang nghiêm đ đàn tín đưc phước duyên, chúng sanh nhờ lợi ích.  Bng chng vậy thì chút ht cơm tc vi đn đáp có phần, thân dch súc sanh, nợ nần phải tr. Đây là nhân duyên thứ tư.





5.  Vì biết ơn chúng sanh:



Ta cùng chúng sanh t vô thỉ đến nay, kiếp kiếp đời đời thay đi m quyến thuộc, kia đây đu có nghĩa với nhau.    Nay cách đời đi thân, hôn không nh biết, song cứ suy ra, chẳng th không đền đáp.





Vậy loại mang lông đội sng ngày nay, biết đâu con của nó trong kiếp trưc? Loài bướm ong trùng dế trong hiện ti, biết đâu là thân sinh tin thế ca mình? Đến như tiếng rên xiết trong thành ngạ qu, giọng kêu la dưới cõi âm ty, ta tuy không thấy chẳng nghe, hvẫn van cầu cu vớt. Ngoài kinh ra, nơi đâu bày t vic này? Không Phật i, chẳng ai hiểu rành điều y, cho nên B-tát xem ong kiến là cha mẹ quá khứ, nhìn thú cm là chư Pht vị lai. Thương no kh lâu i, hằng lo cứu vớt. Nhớ nghĩa xưa sâu nng, thường tưởng báo ân. Đây là nhân duyên thnăm.





6. tuởng kh sanh t:



Ta cùng chúng sanh nhiều kiếp đến nay hằng trong vòng sanh t, chưa tng đưc thoát ly.  Khi cõi này, lúc thế giới khác, khi sanh lên thiên cảnh, lúc sng nhơn gian, siêu đa phút giây, xuống lên muôn nẻo.  Ca quỉ sớm đi ri chiều li âm ty, nay thoát bng mai vào.  Lên non đao rng kiếm, thân th đt rời. Nut st nóng du sôi, rut gan cháy.  Khóc than trong lửa, n xiết trong băng.



Muôn ln sng chết ni ngày đêm, giây phút kh đau bằng thế kỷ. Lúc y biết ti kh, nhưng ăn năn sao kịp! Khi ra khi vi lin quên mt, vẫn to ti như thưng. Tâm không hằng lữ khách rui rong. Thân chng đnh dưng ca nhà thay đổi. Cát bi cõi đại thiên không tính ni số thân luân chuyển. Nước đy trong bốn biển chẳng nhiều bằng git lệ bit ly. Nếu không lời Phật, vic này ai thấy ai nghe? Ví chẳng xem kinh, lý ấy đâu hay đâu biết! Thng hoặc luyến mê như trước, chỉ y cũ luân hi. Ri ra muôn kiếp nghìn sanh, khó hi một lm trăm lẫn. Giờ tt vi qua chẳng li, thân người d mt nng khó tìm. Âm cảnh mịt mờ, t ni bit ly dài dặc!  Tam đồ ác báo, thương cho thng kh ai thay ?





7.   tôn trng tánh linh:



Tâm tánh ca ta cùng Thích-Ca Như Lai không hai không khác. Ti sao đc Thích n đã thành chánh giác sáng suốt tự ti, mà ta vẫn còn phàm phu điên đảo hôn mê? Li đc Thế Tôn đ lượng thần thông trí tuệ, công đc trang nghiêm. Còn chúng ta thì đầy lượng phin não nghiệp duyên, lụy trn ràng buc ?





Tâm tánh tuy vẫn đng mt, vì ng nên cách vc trời. Ví như ht bu châu vô giá vùi dưới bùn nhơ, người xem thưng đất đá. Cho nên phi dùng lưng pháp  lành đối trị phiền não, đ tánh đc hiển bày.  Như bảo châu được ra sch lau khô, treo đ trên tràng cao lin phóng quang rc rỡ. Thế mới không ung công Phật giáo hóa, chẳng phụ tánh linh mình, xng đáng bậc trượng phu. Đây nhân duyên thứ bảy.





8. sám hi nghiệp cng:



Kinh nói: “Phạm mt giới nh, phi đọa vào đa ngc bằng tuổi thọ Tứ Thiên Vương”. Li nhỏ còn như thế, huống chi ti nng ư? Chúng ta mi ngày mt c mt đng thưng sai giới lut, lúc ăn lúc ung hằng phm thi-la (giới).  Tính kỹ trong mt ngày cũng đã nhiều ti, huống chi trn đời, cho đếnlượng kiếp v trước! Cứ ly năm giới mà t thì mười ngưi đã hết chín phạm, ít phát lộ nhiều dấu che.  Năm giới còn như thế, huống giới sa-di, tỳ kheo và Bồ-tát ư?





Nay ta phi phát lòng thương mình, tơng người, lệ rơi theo tiếng, thân khẩu thiết tha, cùng vi chúng sanh, cầu xin m hối! Chẳng thế thì ngàn đời muôn kiếp các báo khó tr, m sao thoát khổ? Đây là nhân duyên th tám.





9. cu sanh Tịnh-độ:



cõi này tu tập vic tiến đạo khó khăn, v Cc Lạc hành trì sự thành Phật d thuận. Vì d thuận nên mt đời lin đắc quả. Bởi khó khăn nên nhiều kiếp vẫn chưa thành. Cho nên Thánh trước Hiền sau người ngưi xu hưng. Ngàn kinh muôn lun, ch ch ch quy. S tu hành gia thời mt pháp tht không chi hơn pháp môn Tnh đ. Như kinh nói: Ít căn nh khó đưc vãng sanh, nhiều phước đc mới v cõi Tịnh.  Nhiều phước đc không bằng chấp trì danh hiu.  Nhiu căn lành chng chi hơn phát ý bồ. Tạm trì danh hiệu thắng hơn b thí trăm năm. Mt phát đại tâm vượt quá tu hành nhiu kiếp. Bởi niệm Phật vẫn mong thành Phật, đi tâm không phát thì niệm Phật đ làm chi? Còn phát tâm vn đ tu hành, Tnh đ chng cu dù phát cũng d thi chuyển. Cho nên gieo ht ging b-đ, cày lưỡi cày nim Phật, đạo qu t nhiên tăng tiến. Nương chiếc thuyền đi nguyện, vào biển màu Tnh. Tây phương quyết đnh sanh v. Đây là nhân duyên thứ chín.



10.   h trì chánh pháp:



Đức Thế Tôn lượng kiếp đến nay vì chúng ta tu đạo b. Ngài đã làm việc khó làm, nhịn điu khó nhn, công tròn qu mãn, thành đng Như Lai. Sau khi thành Pht, duyên giáo hóa đã xong lin vào Niết Bàn. Nay chánh pháp đã qua, tượng pháp đã hết, ch n mt pháp, kinh giáo không k đc thành.  Thời nay chánh chẳng phân, thị phi ln ln, tranh đua nhơn ngã, đeo đui lợi danh, Tam bảo chng còn thật nghĩa, suy tàn ti tệ không nở tht lời, khi nghĩ đến đây khó cm git lệ!





Ta Pht tử không báo được ân, trong không ích cho mình, ngoài không ích cho người, sng không ích dương thế, chết không ích đời sau. Suy nghĩ như vậy đau lòng xót d, vi phát b-đ, nguyn nguyện đ sanh, tâm tâm cu Pht, thhết báo thân sanh về Cực Lạc. Nhng mong sau khi chng quả trở li Ta-bà khiến cho Pht nhật rạng soi, pháp môn rng mở.  Tăng hải đp thanh nơi cõi trưc, nhân dân tu đc phương Đông.  Kiếp vận nhđó tiêu tr, chánh pháp do đây bền vng.  Đây là nhân duyên thứ mười.





Như trên tám cách đã thông, mười duyên đã biết, phát tâm ch, xu ng nơi. Trông mong đi chúng đồng lp đi nguyện, đng phát đại tâm. Nếu chưa phát thì nay phát, đã phát nên ng trưởng, đã tăng trưởng khiến tương tc. Ch thy khó mà thi khiếp, ch thấy d mà khinh thưng. Chdc tc  mà chẳng bền lâu.  Chớ biếng tr không tiến ích. Cũng đng ti dt mt mt vô tâm, đừng trí cn t hiềm phận. Ví như trng cây, trng lâu thì rễ cn ln sâu.  Li như  mài dao, mài bền thì lưỡi lụt ln bén. Đâu nên rcạn mà bỏ khô không vun tưới, dao lt đ luống thành phế hư !





Còn nếu cho tu hành là kh, tt ca biết biếng tr li càng khổ hơn! Tu hành tuy siêng nhc nhứt thời, nhưng an vui mãi mãi.





Biếng tr ch tạm nhàn mt kiếp, song khổ ly đời đời.  Hung chi dùng Tịnh Đ làm thuyền bè, đâu lo thối chuyn? Li được Vô-sanh làm sc nhẫn, còn s gian nan? Ch bảo ý nim vô thưng, nguyện suông vô ích! Phải biết tâm chân thì sự tht, nguyn rng tt hạnh sâu. Hư không chẳng rng ln bằng nguyn tâm, kim cương không cứng bn bằng nguyện lc.





Đi chúng nếu không chê bỏ lời này thì xin nguyện cùng làm quyến thuc b-đ, bạn nh Tnh-đ. Nguyện đng sanh Cực-Lc, đồng thấy Di-Đà, đng hóa chúng sanh, đng thành chánh giác.





(Trích trong tập My Điệu Sen Thanh do Hòa-Thưng Thích Thin Tâm dịch)

0 Kommentare:

New Comments

Chia Sẻ

Twitter Delicious Facebook Digg Stumbleupon Favorites